Bài tập Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ có đáp án
47 người thi tuần này 4.6 0.9 K lượt thi 9 câu hỏi
🔥 Đề thi HOT:
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 9)
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 10)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 3)
Bộ 12 đề kiểm tra giữa học kì 1 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 1
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 6)
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 7)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 5)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)
Nội dung liên quan:
Danh sách câu hỏi:
Câu 1
Cảm nhận của em về vẻ đẹp của đoạn thơ:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Cảm nhận của em về vẻ đẹp của đoạn thơ:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Lời giải
Dàn ý
1. Mở bài
Giới thiệu bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi.
Dẫn dắt vào khổ thơ cần phân tích
2. Thân bài
a) 3 câu thơ đầu tiên
- Cảm nhận vẻ đẹp của mùa thu Hà Nội bằng hình ảnh của hoài niệm “sáng mát trong như sáng năm xưa”
- Bức tranh mùa thu gợi ra bằng hình ảnh giản dị: hương cốm mới, sáng mát trong.
- Từ đây cảm xúc nhà thơ dâng trào, nhớ về mùa thu Hà Nội, nhớ những ngày thu đã xa
=> Mùa thu Hà Nội đẹp được cảm nhận qua tâm trạng của người xa quê, khi đất nước đang bị chia cắt, giày xéo bởi thực dân, thế nên mang màu sắc đượm buồn.
b) 4 câu thơ tiếp theo
- Cảm xúc của tác giả khi nhớ về mùa thu Hà Nội:
+ Không khí se lạnh quen thuộc của mùa thu.
+ Những con phố dài, hơi heo may của tiết trời mùa thu.
- Hình ảnh “người ra đi đầu không ngoảnh lại” => tư thế của những người lính, quyết tâm cầm súng chiến đấu để giành độc lập cho quê hương. Dứt khoát, mạnh mẽ “không ngoảnh lại” nhưng con tim hẳn đều day dứt với nỗi nhớ về Hà Nội nên “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
3. Kết bài
- Khái quát nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ
- Cảm xúc bản thân, liên hệ, đánh giá tài năng tấm lòng của tác giả…
Mẫu 1
Đất nước là một trong những bài thơ hay nhất của tác giả Nguyễn Đình Thi. Bài thơ có thời gian thai nghén suốt một thời gian dài, là một bản tổng kết về hành trình dài của đất nước từ những năm thực dân Pháp giày xéo, đau thương trong chiến tranh đến ngày ca khúc ca chiến thắng. Bài thơ khá dài, có nhiều khổ thơ hay, đặc biệt là khổ thơ đầu tiên:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
…………………………..
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
7 câu thơ đầu chính là nỗi nhớ của người ra đi trước mùa thu của Hà Nội. Mang tâm sự của người lính ra đi,chưa có ngày trở về, nhà thơ vô cùng bồi hồi, xao xuyến khi nhớ về mùa thu Hà Nội, một mùa thu đẹp với bao nhiêu cảnh, bao nhiêu tình:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Mùa thu trong nỗi nhớ hiện ra qua cái không khí rất đặc trưng “sáng mát trong”: gợi ra không gian mát lành của hồn thu, trời thu. Phép so sánh sáng mát trong với như sáng năm xưa, gợi lên một mùa thu trong quá khứ, không rõ là thời điểm nào nhưng chắc chắn đó là những ngày tháng tươi đẹp nhất của mùa thu Hà Nội. Đó có thể là mùa thu năm 1945, trước quảng trường Ba Đình lịch sử mà chủ tịch đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, hoặc là mùa thu của những ngày tháng còn hoà bình. Mùa thu ấy hiện ra qua không khí, tiết trời và qua những thức quà rất giản dị “hương cốm mới”, “trái hồng chín đỏ”, “trái na thơm lừng”... thật bình dị, thân thương mà ý nghĩa làm sao.
Chính trong không khí như vậy nhà thơ hồi tưởng về “ những ngày thu đã xa”. Ở thời điểm hiện tại nhà thơ nhìn về những năm tháng quá khứ, “nhớ” đồng hiện cả quá khứ và hiện tại trong một khổ thơ.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Lúc này đương độ thu chín nhất nên cảm nhận rõ được cái chớm lạnh, chưa gay gắt, khắc nghiệt như mùa đông nhưng cũng đủ để gợi cảm giác mơn man nơi da thịt. Trong không khí lành lạnh của mùa thu đó là hình ảnh của những con phố dài đang trong mùa thay lá, xao xác những chiếc lá vàng rụng, từ láy “xao xác” kết hợp với “hơi may” khiến cho câu thơ có nhịp điệu trầm, buồn. Phải chăng đó cũng là tâm trạng của những con người đã lâu không được cảm nhận cái không khí của mùa thu Hà Nội.
Kết thúc khổ thơ là hình ảnh của người ra đi “đầu không ngoảnh lại”. Người ra đi ở đây ta có thể hiểu là những người lính quyết tâm ra đi vì non sông đất nước, đi để bảo vệ Hà Nội, với quyết tâm đất nước thoát khỏi giày xéo của chiến tranh. Người ra đi ôm bao hoài vọng, chí lớn nên có tư thế ngang tàng, quyết tâm “không ngoảnh lại”, nghe như âm vang của lời thề “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” . Cái quay lưng đi quyết tâm như thế nhưng tấm lòng, sự vương vấn với Hà Nội sao có thể dứt khoát ngay được, thế nên mới có cảnh “sau lưng thềm…rơi đầy:”
Một đoạn thơ ngắn nhưng đã thâu tóm được trọn vẹn cái hồn của mùa thu miền Bắc nói chung và mùa thu của Hà Nội nói riêng. Mùa thu đẹp đến nao lòng nhưng cũng có cái gì đó buồn đến tê tái. Nhất là khi ấy đất nước còn đang bị giày xéo đau thương do chiến tranh mang lại. Thông qua bài thơ chúng ta cảm nhận được tình yêu kín đáo nhưng sâu sắc của nhà thơ dành cho Hà Nội, tự hào về mảnh đất nghìn năm văn hiến này.
Mẫu 2
Nguyễn Đình Thi làm thơ từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông mang bản sắc và giọng điệu riêng vừa tự do, phóng khoáng, vừa hàm súc, vừa sâu lắng suy tư. Đặc biệt, Nguyễn Đình thi co những bài thơ đằm thắm, thiết tha về quê hương đất nước Việt Nam lam lũ, đau thương đứng lên chiến đấu và chiến thắng. Đất nước là một thi phẩm xuất sắc nhất cho sự nghiệp thơ ca của ông. Chỉ vài nét phác họa, phát thảo nhẹ nhàng, nhà thơ đã gợi lên được cái hồn của mùa thu Hà Nội năm xưa, cổ kính, đẹp một cách hắt hiu, vắng lặng và còn phảng phất nỗi buồn.
Tác giả mở ra một không gian vô cùng an lành, êm đềm gợi bao cảm xúc:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Tín hiệu gợi nhắc về mùa thu Hà Nội: sáng mát trong và gió thổi mùa thu hương cốm mới, đây là những nét đặc trưng quen thuộc của mùa thu Bắc Bộ, mùa thu Hà Nội. những hình ảnh trong hiện tại có sức gợi nhớ về ngày rời Hà Nội cổ kính, thơ mộng. Mùa thu Hà Nội ngày xưa trở về trong ký ức nhà thơ:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Từ láy gợi tả gợi lên cảnh mùa thu với nét quen thuộc, có nắng, có lá vàng rơi, có gió heo may – một mùa thu rất nhẹ, rất thơ mang nét buồn xao xuyến đọng lại trong lòng người ra đi. Bức tranh mùa thu có hình khối, đường nét, màu sắc những chứa đầy tâm trạng của người ra đi “Người ra đi… lá rơi đầy”. Cảnh sắc mùa thu chân thực, thi vị, mang đậm đặc trưng mùa thu Hà Nội nhưng thoáng buồn: những buổi sáng mát trong, gió thổi, hương cốm, chớm lạnh, hơi may xao xác, nắng lá, phố phường Hà Nội. Người ra đi: “đầu không ngoảnh lại, sau lưng thềm…”. Hình ảnh con người ra đi với tư thế và dáng đi tỏ ra kiên quyết, dứt khoát nhưng tâm hồn vẫn lưu luyến với trời thu Hà Nội, với những gì thơ mộng của thủ đô yêu dấu. Những chàng trai Hà Nội sẵn sàng từ biệt căn nhà, góc phố ra đi làm nghĩa vụ của một công dân. Cảnh thu và con người Hà Nội cũng chính là niềm tự hào của tác giả.
Trong hoài niệm của nhà thơ, mùa thu Hà Nội với những cảnh vật thiên nhiên và con người hiện ra thật cụ thể và sinh động. Còn tâm trạng của nhà thơ phảng phất một nỗi buồn hiu hắt. Mùa thu Hà Nội đẹp nhưng buồn thấm thía bởi nhân vật trữ tình phải ly biệt Hà Nội để đi tìm con đường thoát vòng nô lệ đau thương, tủi nhục.
Mẫu 3
Đối với mảnh đất quê hương của mình, ai mà chẳng có những kỉ niệm, sự gắn bó, thân thương. Bài thơ “Đất nước” ra đời với tất cả sự nâng niu, ấp ủ của tác giả trong một thời gian dài 1948 - 1955. Mặc dù dựa trên những suy ngẫm của tác giả về đất nước và con người Việt Nam từ “Sáng mát trong như sáng năm xưa” (1948) và “Đêm mít tinh” (1949). “Đất nước” vẫn có được tính chỉnh thể của một tác phẩm nghệ thuật và người đọc vẫn cảm nhận được nó một cách sâu sắc.
Khơi nguồn cho những cảm xúc và suy ngẫm về đất nước là những cảm giác trực tiếp trong một buổi sáng mùa thu gợi lên nỗi nhớ về đất nước:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những mùa thu đã xa”
Hà Nội hiện lên trong tâm tưởng người thanh niên trí thức đi theo tiếng gọi cách mạng với tất cả những hình ảnh thân thuộc ngày nào: buổi sáng mùa thu trong lành, gió nhẹ thổi và đặc trong gió thoang thoảng mùi hương cốm mới - một mùi hương rất đỗi quen thuộc của Hà Nội - đã gợi lên trong tâm trí nhà thơ một nỗi nhớ da diết, bồi hồi. Chỉ bằng vài nét phác họa tác giả đã gợi lên cả không gian và thời gian, cả màu sắc và hương vị. Một điều gây thắc mắc cho ta là tại sao giữa vùng rừng núi Việt Bắc lại có được mùi “hương cốm mới” ấy. Nhưng nếu liên hệ, đến hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, có lẽ mùi hương cốm ấy là có thật và điều này cũng có thể được hiểu: các chiến sĩ hoạt động ở vùng rừng núi rất ít khi có điều kiện về Hà Nội thăm gia đình, do đó mỗi lần về Hà Nội họ đều nhớ mang theo đặc sản của quê hương - cốm. Khi trở lại Việt Bắc và mùi hương cốm vào buổi sớm tinh mơ có lẽ bắt nguồn từ đó. Ắt phải là một người yêu quê hương ghê gớm lắm tác giả mới cảm nhận được mùi hương ấy. Và có lẽ mùi hương cốm mới đã dẫn nhà thơ ngược dòng thời gian, sống lại những kỉ niệm xưa:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Mùa thu Hà Nội với những cảnh vật thiên nhiên và con người hiện ra trong hoài niệm thật cụ thể, sinh động và gợi cảm. Sự nhạy cảm, tinh tế đã giúp nhà thơ nhận ra cái “chớm lạnh” của buổi sáng mùa thu, cảm giác thật cụ thể cái “xao xác hơi may trên những phố dài”. Câu thơ rất gợi cảm, đầy ấn tượng, một phần là nhờ cách đảo ngữ: “Những phố dài xao xác hơi may”. Cả Hà Nội dường như trở thành một thành phố trống không, chỉ có những chiếc lá vàng bị những đợt gió heo may cuốn bay. Nhân vật người ra đi - có lẽ là người duy nhất và cuối cùng giã biệt Hà Nội để lên chiến khu Việt Bắc để lại thềm nắng đầy lá vàng rơi cho nên “đầu không ngoảnh lại” nhưng là cả một sự xao xuyến, bâng khuâng trong tâm tưởng. Hình ảnh người ra đi giữa không gian đầy màu sắc ánh sáng, tạo một ấn tượng sâu đậm, chất chứa những nỗi niềm, những tâm trạng. Với bảy chữ “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” tác giả đã vẽ nên một bức tranh cực kì gợi cảm: Một người đang bước đi, sau lưng là thềm nhà đầy nắng vàng và lá rụng. Có thể nói bốn câu thơ viết về mùa thu Hà Nội trong niềm hoài niệm của nhà thơ là những câu thơ hay nhất, đẹp nhất của bài thơ. Quả là một mùa thu buồn. Mùa thu thường buồn nhưng mùa thu ở đây có một nét buồn khó hiểu hơn. Đó là cái buồn của người công dân trong cảnh nước nhà đang rơi vào vòng máu lửa, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, mọi người rời lên chiến khu để tham gia kháng chiến, phố phường trở nên hoang vắng và hiu hắt buồn.
Mẫu 4
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ tài hoa. Ông có sự gắn bó mật thiết đối với nền văn học Cách mạng ở Việt Nam từ những ngày đầu trứng nước (từ ngày thành lập Hội Văn hóa Cứu Quốc (1943) cho đến nay). Ông cống hiến tích cực trên nhiều lĩnh vực văn học (thi ca, truyện, kịch, phê bình văn học), thảo luận triết học, sáng tác nhạc. Ông được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - 1996). Trong lĩnh vực sáng tác thi ca, Nguyễn Đình Thi đã để lại cho đời tác phẩm Đất nước. Bài thơ được sáng tác trong quãng thời gian 8 năm (1948 - 1955), diễn tả quá trình nhận thức về kháng chiến, sự hình thành, nảy nở tình cảm yêu nước, căm thù bè lũ cướp nước và khái quát những chặng đường kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng anh dũng, gian khổ nhưng vĩ đại của dân tộc ta.
Chúng ta hãy tìm hiểu phần thứ nhất của bài thơ (từ câu đầu đến câu 21):
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Nguyền Đình Thi cảm nhận về đất nước thân yêu của mình bắt đầu từ buổi sáng tinh khiết của mùa thu. Trời thu mát mẻ, trong trẻo “mùi hương cốm mới” hòa quyện trong những làn gió nhẹ mơn man gợi cảm giác thi vị và cũng gợi cho chúng ta nhớ đến hương vị thơm ngon của lúa nếp trong câu thơ của Hoàng Cầm “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng” (Bên kia sông Đuống). Từ mùa thu nơi núi rừng Việt Bắc, mùa thu độc lập, tự do, mùa thu của quê hương cách mạng, Nguyễn Đình Thi đưa điểm nhìn về “Những ngày thu đã xa”. Có thể nói, nhà thơ chỉ:
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng bay.
Lòng tác giả nhớ về mùa thu Hà Nội:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Khung cảnh Hà Nội hiện lên thật đẹp, bàng bạc chất thơ. Tiết trời chỉ “chớm lạnh” - cái lạnh rất đặc trưng của Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Cái lạnh làm rung động hồn người. Cái lạnh gợi thi hứng khác hẳn cái lạnh lẽo của mùa đông. Những cơn gió heo may xao xác đầu mùa rải trên đường phố tĩnh lặng làm cho phố phường dài hơn, rộng hơn. "Xao xác” là từ láy được nhà thơ dùng “rất đắt”. Đặc biệt những tia nắng hanh vàng soi trên “thềm nắng lá rơi đầy” gợi được thần sắc riêng biệt của vẻ đẹp mùa thu. Chính vì Hà Nội luôn ở nơi hồng trái tim của Nguyễn Đình Thi nên nhà thơ mới miêu tả đúng vẻ đẹp của mùa thu Hà Nội như thế. Tuy nhiên, cảnh sắc ấy dưới điểm nhìn của tác giả có chút xao xuyến, bâng khuâng, buồn lặng lẽ. Nhưng không thể vui được khi Hà Nội vẫn còn bóng dáng của quân cướp nước, bán nước. Cho nên, “Người ra đi đầu không ngoảnh lại'’. Câu thơ đã vẽ lên bức chân dung tự họa của thi sĩ Nguyền Đình Thi. Tâm trạng người ra đi mang nặng niềm thương mến, vấn vương. Vì lí trí nhắc nhở trách nhiệm của người công dân nên “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Còn tinh cảm có sự lưu luyến với nếp sống quen thuộc trong căn nhà bé nhỏ và nỗi nhớ nhung Hà Nội bốn ngàn năm văn hiến. Vì vậy, nhà thơ “đầu không ngoảnh lại” nhưng tâm hồn thì không thể không ngoảnh lại:
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Tóm lại, bằng một hồn thơ đất nước rộng mở, bằng tình cảm mạnh mẽ, bằng điếm nhìn từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại về quá khứ, bằng các thủ pháp nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Đình Thi vừa miêu tả được nét đẹp tuyệt vời của đất nước Việt Nam trăm quý ngàn yéu, hết lời ca ngợi đất nước, vừa bày tỏ được cảm hứng về đất nước và dân tộc anh hùng một cách nhất quán, chân thành.
Mẫu 5
"Tháng tám mùa thu, lá rơi vàng chưa nhỉ? Từ độ người đi, thương nhớ âm thầm, ..." Nhắc về mùa thu của non sông Việt Nam thì chẳng đâu hơn mùa thu của Hà Nội, cái mùa mà mỗi con người Việt Nam luôn cảm thấy bồi hồi, thân thương nhất. Mùa thu của một Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn hiến cứ vấn vương, da diết trong ta biết bao điều. Thu Hà Nội thật đẹp, thật nên thơ, trữ tình. Chẳng vậy mà bất cứ người con nào của Hà Nội đi xa cũng đều nhớ về quê hương, nơi có Hồ Tây chiều hôm, có hương sen thơm, có "hương cốm mới" và có một mùa thu thật dịu dàng. Với Nguyễn Đình Thi cũng vậy, Hà Nội trong ông, quê hương đất nước trong ông là một mùa thu của Hà Nội thật bình yên, vương vấn tâm hồn người:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những con phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy."
Chẳng phải mùa xuân với những đóa hoa thơm rực rỡ khoe sắc màu, không phải mùa hạ với tiếng ve kêu râm ran, cũng chẳng phải mùa đông với những vạt sương bảng lảng trên mặt hồ Gươm buổi sớm, mùa thu của Hà Nội mới là thứ khiến cho Nguyễn Đình Thi luôn bâng khuâng mỗi khi nhớ về. Bởi Hà Nội đẹp nhất, dịu dàng nhất có lẽ chính trong những ngày với sắc trời thu này. Mang tâm sự của một người ra đi, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lại mùa thu ly biệt thật đặc sắc đã từ nửa thế kỉ trước thế mà vẫn khiến tâm hồn người đọc chúng ta vương vấn mãi không thôi.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã viết trong nỗi nhung nhớ đến cháy lòng, nhớ một mùa thu đã xa. Ông đã xúc động mà viết lên cái hồn của đất nước muôn đời để mở đầu cho bài thơ "Đất nước":
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới".
Những rung động sâu thẳm trong tâm hồn tác giả đã khiến ông tái hiện lên một mùa thu trong nỗi nhớ miên man của mình. Những sáng mùa thu với hương gió lạnh se se áo, với những chùm hoa sữa ngất ngây lòng người, với bầu trời xanh, với khí trong lành, ... Như Nguyễn Khuyến cũng đã gợi tả:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt"
Phải, bầu trời ấy thật trong lành, "mát trong" biết bao nhiêu như những ngày tháng "năm xưa". Chỉ với hai từ "mát trong" dường như khiến cho tâm hồn của chúng ta được đắm trong cái không khí của làn gió thu mơn man khắp da thịt, thổi mát của tâm hồn con người khiến cho ta thật lâng lâng. Chỉ với hai chữ này thôi, cả một mùa thu với khí thu, hồn thu của sông núi được tóm lại thật gọn gàng, với màu sắc thật đẹp đẽ. Ở đây, Nguyễn Đình Thi đã sử dụng phép so sánh giữa hiện tại và quá khứ "sáng mát trong" của ngày hôm nay với "sáng năm xưa". Đặt vào thời điểm sáng tác bài thơ này, chúng ta mới thật hiểu được ý của tác giả. Bài thơ được sáng tác trong vòng tám năm, tám năm trời thai nghén từ 1948 đến 1955, biết bao mùa thu đã đi qua Hà Nội, có những năm tháng chiến tranh tàn khốc, có những năm tháng thật êm dịu. Thế nhưng, sáng mùa thu này, thu Hà Nội trở lại là thu Hà Nội, dịu dàng, trong trẻo như xưa, như những ngày thu êm đềm, chiến tranh chưa bắt đầu. Hay cũng có thế là mùa thu độc lập đầu tiên sau những năm tháng dài của chiến tranh khi Bác Hồ thân yêu của chúng ta đứng giữa quảng trường Ba Đình lịch sử dõng dạc đọc bản Tuyên Ngôn khai sinh ra một nước Việt Nam độc lập tự do? Nhưng dù là gì thì mùa thu Hà Nội vẫn "mát trong" như thế, vẫn đẹp và bình yên như thế.
Câu thơ thứ hai, Nguyễn Đình Thi đã viết:
"Gió thổi mùa thu hương cốm mới"
Nếu nhắc về thu Hà Nội mà không nhắc tới món cốm gói trong lá sen thì có lẽ sẽ là một thiếu sót lớn. Thế nên, trong cái nhớ lưu luyến của một người sắp đi xa, thức quà đặc sản mà Nguyễn Đình Thi nhớ nhất là món cốm làng Vòng. Hương gió thu thoang thoảng thổi qua đây mang theo "hương cốm mới". Cái hương cốm ấy quyện sánh lại trong làn gió thu, lướt qua những con phố, phả vào lòng người nỗi nhớ bâng khuâng mùi lúa nếp non, mùi cốm mới thơm nồng. Nó khiến cho con người bừng lên nỗi nhớ da diết không thôi cái hương vị đậm đà của quê hương xứ sở. Người Hà Nội đi đâu cũng không thể nào quên được cái vị thơm nồng của những hạt cốm được gói trong từng lớp lá sen. Cũng như Hữu Thỉnh, ông nhận ra cái thứ mùi riêng biệt, đặc trưng của mùa thu - "hương ổi", cái mùi hương ấy quấn quýt trong làn gió thu khiến cho ai cũng phải vương vấn:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió thu
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Chẳng phải đến thơ Nguyễn Đình Thi ta mới biết đến món đặc sản ấy của Hà Nội, mà từ trong những bài văn xuôi của Vũ Bằng, của Thạch Lam cũng luôn nhắc nhở rằng: cốm vòng Hà Nội là "thức quà riêng của đất nước", "thức quà thanh nhã và tinh khiết". Nhưng đến với thơ Nguyễn Đình Thi, người ta lại cảm nhận được nét đẹp thoáng chút buồn của hồn quê hương đất nước, của Hà Nội trong hương cốm mùa thu.
Dòng hồi tưởng miên man đưa Nguyễn Đình Thi trở về những năm tháng của quá khứ, nhắc ông nhớ tới những hoài niệm xưa kia. Lòng ông trải ra với bao xúc cảm dồn nén, những kỉ niệm xưa ùa về, dâng tràn trong nỗi lòng người thi sĩ:
"Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may"
"Những ngày thu đã xa" mà Nguyễn Đình Thi nhắc tới phải chăng là những ngày thu trước ngày giã biệt quê hương, Hà Nội ra đi vì sông núi non sông, vì dân tộc yêu dấu. Những ngày thu đó giờ đã trở thành miền kí ức "đã xa", hằn in dấu lên tâm hồn người con của Hà Nội. Ra đi vì chí lớn, nhưng nỗi lòng mang nặng niềm thương với Hà Nội thân yêu, để đền giờ đây bao nhiêu nỗi nhớ cứ ùa về trong lòng thi sĩ, nhắc ông nhớ về sáng thu "chớm lạnh" của thành phố quê hương. Cái "chớm lạnh" se se của đầu thu ấy đã gieo vào lòng người biết bao nhung nhớ. "Chớm lạnh" nghe sao mà gợi tả gợi tình, nó không chỉ diễn tả những cơn gió vừa se se hiu hắt của những buổi sáng mùa thu mà còn ẩn trong đó là cảm nhận của con người. Vậy giữa những ngày "chớm lạnh trong lòng Hà Nội" ấy, ta có gì để nhớ? Ta nhớ "những con phố dài xao xác hơi may". Hà Nội ba mươi sáu phố phường, mỗi con phố lại gợi lên những cảm giác riêng, không khí riêng, để làm lên cái riêng khác biệt của Hà Nội.Chẳng vậy mà Nguyễn Đình Thi lại nhớ da diết "những con phố Hà Nội" lúc mùa thu "chớm lạnh" đến thế! Bởi hình ảnh của những con đường với những chiếc lá vàng bay trong gió thu, mang theo cái hơi thu hiu hiu, khiến cho lòng người thêm se sắt. Nguyễn Đình Thi đã khéo léo lồng vào trong câu thơ một từ Hán Việt "hơi may", vừa tinh tế lại quá đỗi giàu sức tưởng. "Hơi may", cũng có nghĩa là gió lạnh, thế nhưng đọc lên hai tiếng "hơi may", người ta thấy nó sao tình tứ, ngọt ngào quá! Nếu đặt hai từ "gió lạnh" ở đây để thay thế thì không khí của câu thơ chẳng phải cái không khí se se kia sẽ nhuốm màu lạnh giá hay sao?
Trong thơ xưa, Nguyễn Khuyến cũng đã có lần dùng từ "hơi may" để gợi tả những cơn gió thu, cái từ mà chỉ gợi lên cái không khí lành lạnh, se se chứ không phải cái lạnh giá mang hơi thở của mùa đông:
"Lác đác ngô đồng mấy lá bay
Tin thu heo hắt lọt hơi may".
Không những vậy, tác giả còn đặt ở đây từ láy "xao xác". Chỉ nghe thôi người ta đã cảm nhận được âm thanh của những chiếc lá bay, đang nhẹ cuốn trên từng vỉa hè, con phố. Đó là tiếng lá rơi, âm thanh của những nhánh cây đang khẽ rùng mình trong cái "chớm lạnh" đầu thu.
"Những con phố dài xao xác hơi may"
Phố Hà Nội xưa nay luôn nổi tiếng với những vẻ đẹp cổ kính và thu Hà Nội cũng vậy, cũng khiến cho người ta man mác buồn, bâng khuâng một nỗi nhớ tha thiết. Chỉ với vài nét bút, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lên một Hà Nội của "những ngày đã xa" với cái chớm lạnh se sắt đầu thu của những cơn gió thu, với cái âm thanh "xao xác hơi may" của những chiếc lá vàng. Ông đã để lại trong lòng chúng ta một cảm nhận rất riêng về thu Hà Nội. Phải yêu thương Hà Nội đến thế nào, hiểu rõ Hà Nội thế nào, ông mới trân quý, mới gợi tả được mùa thu Hà Nội đẹp đến như thế?
Và hai câu cuối của khổ thơ, Nguyễn Đình Thi lại cất lên nỗi lòng của mình trong tâm trạng của người ra đi. Giọng thơ ông vẫn vậy, vẫn buồn thương da diết, nhưng ở đây, cái buồn ấy như nhân lên gấp bội lần vừa sâu lắng lại vừa thiết tha, non nỉ:
"Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy".
"Người ra đi" vì chí lớn non sông, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, biết là thế nhưng sao trong lòng còn vấn vương, còn lưu luyến quá đỗi thế này. Mang trong lòng biết bao kỉ niệm về Hà Nội, về mùa thu của Hà Nội với hương cốm mới, với cái chớm lạnh, cái xao xác của những lá sấu, lá me bay, đó là hành trang để người chiến sĩ bước ra đi. Câu thơ vang lên mà ta nghe thấy cả tiếng lòng quyết tâm đến tột độ của người chiến sĩ. "Không ngoảnh lại" phải chăng đó là sự quyết tâm ra đi để đem về hòa bình, đem về những sáng mùa thu trong mát "như sáng năm xưa"? Nghe đâu đây âm vang của những lời thề "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" của những người lính năm nào!
Câu thơ sau tiếp nối quả là một câu thơ đặc sắc. Người ra đi để lại sau lưng là những giọt nắng thu vương vãi trên thềm nhà, là lá thu rơi trên nền đất, trải rộng trên "những phố dài". Câu thơ không chỉ dùng để tả cảnh mà còn dùng để nói lên nỗi lòng của chính tác giả. Đó là sự lưu luyến, sự ngập ngừng chẳng muốn rời xa. Mặc dù ra đi với quyết tâm "đầu không ngoảnh lại", khí thế là thế, nhưng chẳng thể tránh khỏi những phút lưu luyến, nghẹn ngào nhớ thương. Cái quay lưng của người chiến sĩ quyết tâm là thế, nhưng nghe sao bâng khuâng quá đỗi, bởi người thi sĩ - chiến sĩ ấy còn lưu luyến với quê hương, với mùa thu quê nhà. Cảm xúc ấy dường như là cảm xúc chung của lứa thanh niên trí thức ra đi vì Tổ quốc thời ấy bởi Quang Dũng cũng đã từng viết:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Từ chiến khu xa xôi, người chiến sĩ nhớ về quê nhà với bao tình thương mến, nỗi nhớ man mác sâu nặng chứa chan cả niềm tự hào.
Đoạn thơ trên là đoạn mở đầu của tác phẩm "Đất nước" được thai nghén trong vòng tám năm của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, không chỉ về mặt ý nghĩa mà là cả nghệ thuật nữa. Đã bao người viết về thu Hà Nội, nhưng chưa ai có cái nhìn vừa cảm quan lại sâu sắc như ông, bởi ông là người con của Hà Nội, gắn bó với Hà Nội suốt những tháng năm tuổi thơ. Mùa thu Hà Nội trong ông mang nỗi buồn day dứt, khó tả, mang theo cả hồn thơ sông núi muôn đời nữa. Một chút "xao xác hơi may", "hương cốm mới", cái "chớm lạnh" trên "những phố dài" cổ kính, tất cả đều làm nên một mùa thu khó quên trong lòng người ly biệt. Vậy nên, dù quyết tâm ra đi vì chí lớn non sông, người khách ly biệt cũng chẳng thể nào thôi lưu luyến nắng thu, lá thu đang "rơi đầy" ngoài "thềm" trong gió thu kia.
Đoạn thơ đã gợi tả xuất sắc hình ảnh của mùa thu Hà Nội trong nỗi nhớ của người ly biệt. Nguyễn Đình Thi đã giúp cho chúng ta càng thêm yêu hơn dáng hình non sông quê hương mình, yêu thêm những con phố cổ kính của Hà Nội -Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Mẫu 6
Có lẽ không có một nhà thơ nào trên thế gian này, trở thành một nhà thơ chân chính mà lại không có một vần thơ, một bài thơ viết về đất nước, về quê hương. Bởi vì đất nước là nguồn cảm hứng vô tận đối với thi sĩ muôn đời. Nhưng tình cảm đất nước ở mỗi con người lại hình thành theo một con đường riêng, mang nội dung màu sắc riêng và dựa trên những cảm nhận riêng.
Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ viết nhiều về đất nước. Nhưng có lẽ chưa ở đâu, trong thơ và trong văn của ông, cảm hứng về đất nước lại nổi bật, tập trung đặc sắc như ở bài thơ Đất nước.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành, so với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi ngắn hơn, thế mà Hoàng cầm sáng tác chỉ trong một đêm, còn Nguyễn Đình Thi đã viết trong bảy tám năm ròng rã. So sánh như vậy để thấy cảm hứng về đất nước của hai nhà thơ ngay ở mặt này đã có cái gì rất khác nhau:
Bên kia sông Đuống là cảm hứng tuôn tràn, Đất nước là tình cảm nung nấu: Những đêm dài hành quân nung nấu. Lần giở lại "tiền sử" của bài thơ và đọc kĩ phần thứ nhất Đất nước, ta càng thấy rõ đó là một tình cẩm nang nấu, nung nấu nỗi nhớ, nung nấu niềm vui, niềm tin yêu của người làm chủ.
Là một thanh niên sống và hoạt động ở Hà Nội, Nguyễn Đình Thi viết về đất nước, trước hết là viết về Hà Nội, thủ đô của đất nước, thủ đô của trái tim ông, Hà Nội với hương sắc xao động long lanh trong nắng gió mùa thu.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Chẳng phải ngẫu nhiên chút nào khi nói đến đất nước là nói đến Hà Nội và nói đến Hà Nội lại nói đến mùa thu. Đất nước ta tươi đẹp bốn mùa nhưng đẹp nhất là vào mùa thu và có mùa thu ở đâu lại đẹp, lại "mát trong" hơn mùa thu Hà Nội? Nhất là mùa thu nơi đây lại từng điểm một cái mốc vàng son vào lịch sử - "Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình" giữa "Tháng Tám mùa thu xanh thẳm" (Tố Hữu). Cho nên, chẳng phải chờ đến bốn câu tuyệt tác, ngay từ những đồng đầu đã có cái gì xôn xao, xào xạc trong hồn:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Đất nước gắn với nỗi nhớ, nỗi nhớ khởi từ mùa thu, mùa thu "đã xa" được gợi lại từ "mùa thu nay". Rõ ràng là có hai mùa thu như đang soi chiếu vào nhau làm cho mọi phía đều long lanh lấp lánh hơn lên trong tâm hồn thi sĩ. Cái cảm giác "mát trong" là chung, là muôn thuở đối với mọi mùa thu Việt Nam, mùa thu Hà Nội.
Cái riêng biệt cái "đã xa" đã "khó rồi" giữa hai mùa thu, còn lại là gì? Trong những ngày thu đã xa Hà Nội "mát trong" vẫn "mát trong" vẫn đẹp và thơ mộng. Nhưng đó là cái đẹp buồn. Phố xá vắng vẻ, xao xác, sân thềm đầy nắng, đầy lá vàng rơi. Gió heo may mang theo khí lạnh đầu mùa thổi dài theo những dãy phố cổ vắng người. Có một cái gì buồn, thật trang trọng trong thời khắc chuyển mùa, thời khắc chia xa.
Mùa thu nay vẫn "mát trong" như "sáng năm xưa" ấy nhưng cũng "đã khác rồi". Khác rồi bởi cái "Người ra đi đầu không ngoảnh lại" của "những ngày thu đã xa", giờ đây đã "đứng giữa núi đồi", đúng từ một tầm cao của chiến khu kháng chiến Việt Bắc để mà "nhớ' mà "nghe". Lòng người đã đổi nên ngọn gió cũng đổi, âm thanh cũng đổi, sắc hương cũng đổi:
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Đó là cơn gió thổi, sắc áo mới, tiếng nói cười giữa một cuộc hồi sinh. Có một thay đổi nhỏ trong cách xưng hô ở trên là "tôi nhớ", "tôi đứng vui nghe". Đến đoạn thơ tiếp theo, đất trời mùa thu lại vang vọng tiếng "nói cười thiết tha" của "chúng ta".
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Nước chúng ta...
Mấy chữ "của chúng ta", "chúng ta" ấy vang lên thật rắn rỏi, kiêu hãnh tin yêu, "chúng ta" tự hào về "nước chúng ta" có chủ quyền, tự hào vì "nước chúng ta" giàu đẹp rộng lớn.
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa...
Tự hào vì truyền thống "không bao giờ khuất" của cha ông mình:
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Ở trên, ta nghe một "tiếng nói cười thiết tha" vọng lên đâu đó giữa tầng trời "trong biếc", ơ đây trong những dòng khép lại phần thứ nhất bài thơ, ta lại nghe tiếng nói thiêng vọng lên từ lòng đất thiêng mà nhà thơ gọi là "tiếng đất". Như vậy, cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong phần thứ nhất của bài thơ là niềm vui của người làm chủ.
Đó là niềm vui, là nỗi nhớ vừa sâu lắng vừa náo nức trong lòng, một thứ nỗi niềm vọng trong tâm thức thành một thứ tiếng nói riêng, "tiếng thu" riêng, nghe mênh mang sâu thẳm: sâu thẳm giữa bầu trời, sâu thẳm trong lòng đất và sâu thẳm giữa hồn người đi kháng chiến.
Như trên đã nói, Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác từ năm 1948 đến 1955 mới hoàn thành. Phần thứ nhất được hoàn thành năm 1948 ("Sáng mát trong như sáng năm xưa"), ("Đêm mít tinh") phần thứ hai, được viết tiếp từ 1949 đến 1955.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ đặc sắc về đề tài này. Đặc sắc nhất là ở cảm hứng rất riêng về đất nước của ông: Một đất nước gắn liền với mùa thu, gắn liền với niềm vui nỗi nhớ của con người làm chủ, một đất nước thật đẹp ngay trong cảnh gian khổ đau thương. Chính nhà thơ đã từng viết:
Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần
(Nhớ)
Có lẽ vì vậy mà giữa bao nhiêu bài thơ hay về đất nước của bao nhiêu nhà thơ, người đọc vẫn không thể quên được những câu thơ tuyệt tác của ông về phố Hà Nội, về "Những cánh đồng quê chảy máu - Dây thép gai đâm nát trời chiều" và về "Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy sáng lòa".
Mẫu 7
Đất nước là đề tài lớn, xuyên suốt trong lịch sử văn học, nhưng ở mỗi thời kì văn học, đề tài này được các nhà thơ khai thác ở những góc độ khác nhau. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất hiện rất nhiễu bài thơ tập trung khắc họa hình ảnh đất nước đau thương nhưng anh hùng quật khởi, nổi bật nhất là Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ là cả một chặng đường nhận thức về đất nước của tác giả.
Từ ba bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít linh (1949), và Đất (1965), Nguyễn Đình Thi đã tập hợp lại thành Đất nước. Qua những cảm nhận tinh tế về mùa thu đất nước, qua hình tượng Tổ quốc đau thương mà anh hùng, bài thơ thể hiện sâu sắc ý thức độc lập tự chủ, tình cảm yêu nước, căm thù giặc và niềm tự hào về sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ là sự tập hợp, ghép nối từ nhiều bài thơ nhưng không hề mất đi tính thống nhất chỉnh thể, trái lại đã phát triển theo một mạch cảm xúc tinh tế và khá nhất quán về tư tưởng. Bài thơ mở đầu với dòng cảm xúc về mùa thu đất nước, nhưng là trong những thời điểm và không gian khác nhau:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương, cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Trong một sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, nhà thơ bỗng có cảm giác cái mát mẻ, trong sáng của sớm mùa thu ấy giống như “sáng năm xưa” khi nhà thơ ra đi, hơn nữa trong gió thu nhẹ thổi còn thoảng bay hương cốm mới, gợi nhớ tới một mùi hương rất đặc trưng của Hà Nội vào thu. gần với cuộc sống sinh hoạt của người dân Thủ đô. Nhịp thơ như chậm rãi, nhẹ nhàng, dòng hồi tưởng của nhà thơ trong không khí ấy dào dạt tuôn chảy:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Đó là “những ngày thu đã xa” – những ngày thu trước Cách mạng, nhà thơ phải tạm biệt Thủ đô để lên đường. Cũng là viết về cảnh thu nhưng có bao nhiêu mơ hồ, mặc cảm trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến; bao nhiêu lãng mạn trong thơ Xuân Diệu, bao nhiêu cái ngơ ngác của con nai vàng đạp trên lá khô trong thơ Lưu Trọng Lư.
Trong thơ Nguyễn Đình Thi, cảnh thu Hà Nội chỉ hiện ra trong hồi tưởng nhưng thật đẹp, tuy nhiên vẫn có cái tĩnh lặng và buồn man mác. Đó là cảnh thu đất nước trong những năm đau thương: Sương chớm lạnh trong lòng Hà Nội. Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời tiết thu được nói đến “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” – đó là thời tiết chính thu. Thơ Nguyễn Đình Thi cũng nói về mùa thu nhưng là độ đầu thu.
Hai chữ “chớm lạnh” thật gợi cảm: chút se lạnh trong mùa thu tuy mới đến nhưng không phải là “những hiện tượng da thịt bên ngoài” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) mà đã thấm thía tận “trong lòng Hà Nội”. Nghĩa là tất cả không gian, cỏ cây, hoa lá, con người, phố phường đã cảm nhận sâu sắc được cái lạnh của mùa thu. Cái “chớm” ấy không ngọt ngào như cái rét đầu mùa. nhưng không phải là cái mát mẻ trong mùa hè mà đã là sự pha trộn trong cả hai mùa.
Có lẽ chỉ mùa thu, khí thu Hà Nội mới mang lại cho con người cái cảm giác về thời tiết như vậy. Hà Nội vào thu, gió thổi trên những dãy phố dài cổ kính lại rất nhẹ, chưa phải gió “heo may” mà mới chỉ dừng lại ở độ “hơi may”. Nghĩa là cũng mới chỉ ở độ “chớm” mà thôi.
Dường như tất cả mới chỉ đang ở độ bắt đầu, hết sức nhẹ nhàng nhưng đã làm cho người đọc cảm nhận được sự thay đổi, sự mới bắt đầu ở ranh giới ấy. Nhà thơ đã nhận ra, người Hà Nội đã nhận ra được “hơi thở dịu dàng” ấy của mùa thu. Lẽ tất nhiên, con người ra đi trong hoàn cảnh ấy, dù có mục đích gì chăng nữa tuy bê ngoài có tạo ra dáng vẻ mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát “đầu không ngoảnh lại” nhưng từ trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tràn đầy lưu luyến, nhớ thương, vẫn nhận ra rất rõ những gì của Hà Nội ở phía sau: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy .
Câu thơ có cả chất nhạc, có cả chất họa trong cái rơi đầy của nắng, lá. Phải chăng đó là điều đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội? Màu vàng của nắng quyện vào màu vàng của lá tạo nên một khung cảnh tràn đầy sắc vàng, xua đi cái “chớm lạnh” của “hơi may”. Khung cảnh ấy làm nền cho tâm trạng ấy mới thật hợp. Dường như không gian và thời gian đã có sự biến đổi, cái lắng lại dịu dàng của màu tím Hà Nội rất phù hợp với tiếng lòng thi sĩ, phù hợp với tâm trạng người ra đi.
Đất nước gây ấn tượng sâu sắc bởi chất chứa tình kết hợp với chất chính luận, bởi hình thức câu thơ linh hoạt, nhịp thơ phóng khoáng, hình ảnh thơ đẹp đẽ, chọn lọc, ngôn ngữ thơ cô đọng mà gợi cảm. Những ấn tượng sâu sắc, rõ nét hơn cả là bài thơ đã tạo dựng thành công một tượng đài hùng vĩ bằng thơ về Đất nước, Tổ quốc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì gian khổ nhưng anh dũng và tất thắng.
Mẫu 8
"Đất nước" là bài thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ được sáng tác và hoàn thành trong thời gian khá dài (1948 – 1955) theo hành trình và phát triển đi lên của đất nước và dân tộc. "Đất nước" in trong tập thơ "Người chiến sĩ" của tác giả.
Bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi thể hiện những cảm nhận về đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam hiền hòa, đẹp tươi, trong đau thương đã quật khởi đứng lên anh dũng chiến đấu và chiến thắng với sức mạnh phi thường. Hai câu thơ đầu nói về vẻ đẹp của đất nước khi mùa thu về:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.
Nguyễn Đình Thi chỉ gợi sắc thu, khí thu (mát trong), về gió thu về hương thu (hương cốm mới). Một cách viết hàm súc mở ra bao liên tưởng về bầu trời thu trong xanh, bao la và khí thu mát mẻ mơn man hồn người, về gió thu nhè nhẹ thổi từ những cánh đồng lúa mang theo hương cốm mới phả vào lòng người lâng lâng. Đó là vẻ hiền hòa, tươi đẹp của đất nước đã bao đời nay. Đoạn thơ tiếp theo là hoài niệm của "người ra đi" về "những ngày thu đã xa" – thu Hà Nội:
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
"Chớm lạnh" là cái lành lạnh đầu thu; chỉ có sáng và chiều thu trong buổi thi sơ mới "chớm lạnh" như thế. Hà nội như mở rộng lòng đón nhận cái "chớm lạnh" đầu thu. Hơi may tỏa khắp mọi nơi. Lá thu, lá vàng rụng bay bay, xoay xoay theo chiều gió, để lại tiếng thu xao xác trên những phố dài.
Cảnh giã biệt phố cũ của "người ra đi" buồn lẳng lặng. Khách chinh phu của thời đại "ôm chí nhớn" ra đi, cố nén lại bao tâm tư trĩu lòng. "Đầu không ngoảnh lại" là một tâm thế của li khách. "Người ra đi" xa dần, xa dần năm cửa ô, chốn cũ yêu thương, tuy "đầu không ngoảnh lại" nhưng vẫn cảm thấy có bao nhiêu nắng thu, lá thu "rơi đầy" trên hè phố, thềm đường ở phía sau lưng mình. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều.
Tâm trạng của người ra đi buổi sáng sớm đầu thu ngày xưa ấy như vương vấn mang theo một mảnh trời thu Hà Nội với nắng vàng và lá thu rơi. Có nhiều người đã đưa ra các cách ngắt nhịp cảm thụ vẻ đẹp câu thơ cuối đoạn: ngắt nhịp 3/4 hoặc 4/3; lại có người cho rằng nên ngắt nhịp 2/5 để làm rõ chủ thể trữ tình với không gian nghệ thuật: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
"Đất nước" là hồn thơ chiến sĩ, tiêu biểu cho bốn hồn thơ Nguyễn Đình Thi. Viết về chủ đề quê hương , đất nước trong chiến tranh, thơ Nguyễn Đình Thi mang tính khái quát, chất trữ tình đằm thắm kết hợp hài hòa với chất chính luận sâu sắc để lại một số câu thơ, đoạn thơ đẹp, đầy ấn tượng. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, sắc nét, chan chứa nồng độ xúc cảm. Câu thơ biến hóa : thất ngôn, lục ngôn, có lúc đan xen vào câu thơ ba tiếng , năm tiếng đã làm cho giọng thơ biến hóa: lúc man mác, bồn chồn, lúc dồn dập mạnh mẽ.
Hình tượng đất nước vừa mang vẻ đẹp hiền hòa trong sắc thu, hương thu, mang cái bát ngát của quân và dân ta trong những năm dài kháng chiến. "Đất nước" là bài thơ kiệt tác, mà người đọc lúc nào cũng cảm thấy mới mẻ, niềm tự hào dân tộc cứ lâng lâng mãi tâm hồn mỗi chúng ta.
Mẫu 9
Đất nước là một đề tài được nhiều nhà văn, nhà thơ chú ý thể hiện. Tuy nhiên, đây là đề tài thuộc loại hóc búa. Nếu cảm xúc không đủ mạnh, đủ sâu và khả năng khái quát hạn chế, chắc chắn tác phẩm sẽ rơi vào công thức, sơ lược và bị lối đại ngôn chia phôi. Nhưng những cá tính thơ mạnh mẽ bao giờ cũng tìm được một cách thể hiện riêng, làm cho đất nước mỗi lúc lại hiện ra với một vẻ mặt mới lấp lánh, đa dạng và hàm chứa một nội dung cụ thể lịch sử.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ hay. Nó không thiếu tính khái quát nhưng vẫn đầy ắp ấn tượng, cảm giác về những cảm giác, những người cụ thể (đặc biệt là những cảnh, những người trong kháng chiến chống Pháp). Bài thơ vì thế không sa vào tự biện, mặt khác, có được không khí chân thực của đời sống đủ sức đồng hóa những ý thơ sẽ đôi khi được cho vào chỉ để cho “đủ”, cho “toàn diện” và “bề thế”.
Đúng như có người nhận xét, cái từ của bài thơ không được thể hiện thật rõ. Mới đọc qua phần đầu, ta khó hình dung được dòng chảy của cảm xúc hay hình tượng then chốt của bài thơ. Phải chăng việc lắp ghép một đoạn của bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) với một đoạn của bài thơ Đêm mít tinh(1949) rồi kéo dài thêm để tạo ra Đất nước(1955) đã quy định đặc điểm riêng đó của bài thơ?
Trên ý nghĩa khách quan, quá trình hình thành độc đáo của bài thơ phản ánh khá rõ một chặng đường từ nhận diện để đi đến thấu hiểu về đất nước của nhà thi sĩ. Tất cả không diễn ra một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có sự trải nghiệm, nghiền ngẫm, đòi hỏi tự nhà thơ phải vượt lên trong cuộc hòa mình vào đời sống chiến đấu của toàn dân tộc. Đối với việc bộc lộ tâm hồn của nhà thơ, cái vẻ lỏng lẻo ở kết cấu bề mặt của bài thơ lại trở nên một sáng tạo lí thú. Vì vậy, trong ý đồ sáng tạo, chưa hẳn nhà thơ đã muốn che dấu hoàn toàn những mối “hàn ghép”.
Phần đầu bài thơ - phần vẫn được đánh giá là hay hơn cả - chứa đựng rất nhiều ấn tượng cụ thể về một mùa thu đất nước. Thoạt tiên, đó là một cảm giác thư thái như muốn nhẹ nhàng bay lên theo hai câu thơ có đến 12/14 âm tiết mang thanh điệu có âm cực cao:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.
Một sự tương đồng gợi nhớ. Một liên tưởng của nét đẹp trường cửu của mùa thu xứ sở với hơi may phảng phất và hương cốm dìu dịu tỏa bay. Mùa thu nay cũng như mùa thu xưa, thiên nhiên vẫn đẹp đến nao lòng. Có khác chăng là lòng người và hoàn cảnh xã hội. Nỗi nhớ của tác giả đã thực sự làm một đối chiếu tự nhiên để hình ảnh của ngày qua được dịp trở về vô cùng sống động:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Còn có thể nói gì thêm về câu thơ ấy? Một tiết trời dễ khiến lòng ta xao xuyến. Một chút thoáng heo may se se khơi gợi biết mấy nỗi niềm. Thu tới - không gian chợt yên ắng để tiếng nói của nội tâm cất lời. Các dãy phố như dài thêm và đượm vẻ trầm u đặc biệt, tạo nên một bối cảnh xao xác rất thích hợp cho hình ảnh người ra đi xuất hiện. Người ra đi ở đây là ai, tác giả không nói rõ cụ thể chỉ biết rằng Người ấy rời Hà Nội yêu dấu với rất nhiều quyết tâm, tương tự các tráng sĩ xưa đã lên đường là đi một mạch chẳng ngoảnh đầu trở lại.
Phải chăng đó cũng chính là mẫu người từng được Thâm Tâm nhắc tới "Một giã gia đình một dửng dưng" Và chắc chắn giống nhân vật của Tống biệt hành, người ấy tuy bên ngoài có vẻ lạnh lùng nhưng lòng thì để lại đang trăn trở thao thức với “ thềm nắng lá rơi đầy” ở phía sau lưng. Cả đoạn thơ rất giàu chất điện ảnh, trong đó câu cuối đặc tả cận cảnh để tự cảnh đó kể với người đọc bao điều.
Bắt đầu mờ dần để tiếng nói công nhân sang sảng cất lời. Thời gian mở ra (từ “sáng chớm lạnh” của kỉ niệm riêng đến những năm đau thương, “ngày nắng đốt theo đêm mưa dội” của cả dân tộc), không gian mở ra (từ “thềm nắng lá rơi đầy”) Hà Nội quen thuộc đến quê hương, đất nước, “trời đất mới” không còn của riêng của một con người và lịch sử cũng mang chiều kích mới (từ lịch sử một tâm hồn đầy “nhớ”, đầy “xao xác”, thậm chí cả “phấp phới” đến lịch sử một đất nước vận động từ “đau thương”, “căm hờn” đến “ đứng dậy”, “vỡ bờ”).
Trong bài thơ này, nét mặt quê hương đã ngời lên với những vẻ đa dạng thông qua sự cảm nhận, khám phá của một tâm hồn thi sĩ rất giàu nội tâm cũng như rất giàu ý thức công dân. Nhưng về cơ bản, sự phát hiện của Nguyễn Đình Thi chủ yếu hướng vào truyền thống anh hùng, bất khuất của đất nước - một phẩm chất càng trải qua gian khó, qua thử thách chiến tranh nó càng rạng ngời tỏa sáng. Đây là một góc nhìn vừa của riêng nhà thơ lại vừa của lịch sử trong một thời kỳ nhất định.
Mẫu 10
Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Đình Thi là người đa tài. Thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện sự tìm tòi về hình ảnh. Bài thơ “Đất nước” chính là những tìm tòi độc đáo nhất. Bài thơ lấy hình tượng đất nước làm trung tâm với hai màu sắc vừa tươi đẹp vừa bất khuất.
Trước hết, Nguyễn Đình Thi cảm nhận đất nước trong mùa thu hoài niệm và mùa thu hiện tại. Mùa thu trở thể hiện nối tiếp từ hiện tại về quá khứ rồi trở lại hiện tại. Thi sĩ mở đầu “Đất nước” bằng một vài chiêm nghiệm:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”
Không gian vô cùng tươi sáng của một buổi sớm thu đặc trưng quê hương Việt Nam. Một chút mùi vị “hương cốm” gợi lòng người bao điều. “Cốm làng vòng thơm mát những vòng tay”. Người ta bỗng nhớ những câu văn đầy đặc sắc Hà Nội trong thơ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng… Người ta nhớ về người mẹ, người bà, người em thảo thơm. Thật bình dị và thân thương! Từ hương cốm, mùa thu năm xưa hiện về:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
Hai câu đầu là cảnh, hai câu sau là người. Cảnh và người hợp hảo trong cuộc chia ly năm ấy. Mỗi câu từ chứa một nét chạm khắc thú vị như cái buồn vắng lặng của “những phố dài”, chút “chớm lạnh” cô đơn, đẹp nhưng buồn của cái “xao xác” và chút “hơi may”. Thiên nhiên đẹp nhưng buồn còn lòng người cũng không nguôi cảm giác đơn côi. Người ra đi tựa thế Kinh Kha đầy quyết tâm. Người ở lại chùn chân dưới lá thu bay. Hình ảnh thơ vừa giàu chất cổ điển vừa đầy tinh thần hiện đại.
Cuối cùng, thi sĩ về với mùa thu hiện đại. “Mùa thu nay khác rồi”. Thi sĩ reo vang về thu nay với tâm trạng phơi phới. Từ trong tư thế “đứng vui”, “phấp phới” mà tác giả cảm nhận được thiên nhiên như “thay áo mới”, “Trong biếc”, “nói cười”… Mùa thu ngày nay đầy hứng khởi và niềm vui sống. Từ đó, tâm trạng đơn côi xưa cũ đã thay thế cho tâm trạng hào phóng, tấm lòng rộng mở.
Nó được chứng minh từ những hình ảnh trải rộng về địa lí “trời xanh”, “núi rừng”, “cánh đồng”, “ngả đường”, “dòng sông”… Phụ từ “đây” như khoe như mời mọc tận hưởng. Hẳn thi sĩ đang tự hào về quê hương lắm!
Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi rất đặc sắc trong cách sáng tạo ngôn từ, diễn đạt liền mạch đầy cảm xúc, giọng thơ phong phú và nhiều hình ảnh thú vị giàu sức gợi. Nguyễn Đình Thi đã mang tới một bài ca về đất nước đậm nét đặc trưng và tinh thần chung của người Việt.
Lời giải
Dàn ý
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác và nội dung chủ đề của bài thơ
2. Thân bài
Phân tích theo khổ:
- Khổ thơ đầu: “cành mận… con trẻ”. Phân tích nội dung và hình thức của khổ thơ
+ Hoa mận trắng muốt mang theo không khí mùa xuân
+ Màu hoa mận cũng là màu của tuối thơ
+ Màu hoa mận đi cùng năm tháng, lặng lẽ nhìn ngắm mọi sự thay đổi
- Khổ thứ 2: “cành mận… làm đu”
+ Mùa hoa mận là một phần của buôn làng
+ Mùa hoa mận là dấu hiệu để dân làng nhận ra một mùa xuân mới đã về
+ Màu hoa mận là biểu tượng của màu xuân
- Khổ thứ ba: “canh mận… trở về”
+ Mùa hoa mận là của hiện tại
+ Mùa hoa mận là sự tiếp diễn
+ Mùa hoa mận là vòng lặp
+ Mùa hoa mận là hồi ức, kỉ niệm
3. Kết bài
Kết luận về mùa hoa mận, về dân làng và về mối quan hệ giữa dân làng và mùa hoa mận, đưa ra nhận xét của bản thân.
Mẫu 1
Mùa hoa mận là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Chu Thùy Liên. Bài thơ là nỗi lòng của "người đi xa" về những nối nhớ da diết cùng với hình ảnh gần gũi, quen thuộc của quê hương mình.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã cho ta thấy một khung cảnh mùa hoa mận dưới cái nhìn đầy sự tinh tế:
Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ.
Cảnh "cành mận bung cánh muốt" đã báo hiệu rằng mùa xuân đã về cùng với nhiều điều mới mẻ làm bừng sáng khắp khung trời nơi đây. Dưới cành mận ấy, chúng ta lại thấy những hình ảnh vô cùng gần gũi, quen thuộc, đó là hình ảnh "lũ con trai háo hức chơi cù, lũ con gái rộng ràng khăn áo". Cùng với tâm thế rộn ràng, vui tươi ấy, cành mận cũng được gắn liền với tuổi thơ của những đứa trẻ nơi đây, nó theo suốt quá trình trưởng thành và chứa đựng những ước mơ nhỏ bé của con trẻ. Tiếp nối về khung cảnh sinh hoạt của dân làng, ta lại thấy nơi đây đầy sự rộn ràng, tấp nập, nhộn nhịp:
Cành mận bung cánh muốt
Giục mẹ xôn xang lá, gạo
Giục cha vui lòng căng cánh nỏ
Giục người già bản hối hả làm đu
Mọi người nơi đây đều đang chuẩn bị để đón một mùa xuân cùng với những điều tốt lành. Hình ảnh người mẹ "xôn xang lá, gạo" để làm bánh, một món bánh đặc trưng cho mùa xuân, người cha thì "căng cánh nỏ", người già bản "làm đu" để phục vụ cho trò chơi dân gian của bản địa. Tất cả đã hiện lên không khí của mùa xuân, chất chứa bao niềm vui, nỗi buồn, gắn bó với bản làng suốt năm tháng.
Và rồi, một lần nữa, tác giả sử dụng điệp ngữ lại lần thứ ba với câu thơ "Cành mận bung cánh muốt". Nó như nhấn mạnh thêm vẻ đẹp của mùa hoa mận cùng với cảnh vật, con người nơi đây, tạo nên một khung cảnh hết sức nên thơ:
Cành mận bung cánh muốt
Nhà trình tường ủ hương nếp
Giục lửa hồng nở hoa trong bếp
Cho người đi xa nhớ lối trở về
Trong ngôi nhà truyền thống "nhà trình tường ấy", mùi "nếp" lan toả ra khắp căn phòng với ánh lửa hồng biến căn nhà ấy trở nên gần gũi, ấm cúng hơn. Để rồi khi "người đi xa", họ luôn hướng về quê hương với những thứ mộc mạc, gần gũi và thân quen, đặc biệt là vào mùa hoa mận nỗi niềm đó lại nhân lên gấp bội, gợi nhớ về những kí ức xa xưa. Hoa mận như dẫn lối họ trở về với những hoài niệm, nhớ nhung, nhớ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày đang diễn ra một cách hối hả, xốn xang của các mẹ, cha, người già bản, sự vui vẻ, háo hức của lũ con trai, con gái trong bản làng.
Nhờ những hình ảnh được miêu tả tinh tế dưới ngòi bút của nhà văn Chu Thùy Liên, em như hình dung ra mình đang lạc vào khung cảnh đẹp đẽ ấy với tất cả sự bình yên đến lạ. Qua đó, ta cũng thấy được vẻ đẹp của miền núi Tây Bắc, tất cả được gói gọn trong ba khổ thơ, đã lột tả được bức tranh nên thơ ấy. Để rồi dù ta có đi xa đến đâu thì lòng ta thì mãi luôn nhớ về quê hương, nơi chăn rau cắt rốn của mình với những điều rất đỗi giản dị, nhưng lại chan chứa nhiều kỉ niệm đau đáu.
Với người dân vùng núi Tây Bắc sắc trắng của hoa mơ, hoa mận không chỉ là tín hiệu của mùa xuân mà còn là tín hiệu của quê hương. Với những người xa quê chỉ nhìn thấy sắc trắng hoa mơ, hoa mận qua hình ảnh trên tivi, báo đài thôi cũng thấy xao xuyến và bồi hồi khó tả. Bài thơ “Mùa hoa mận” được tác giả Chu Thuỳ Liên sáng tác đúng tháng chạp năm 2007 đã thể hiện nỗi nhớ sâu sắc về quê hương, buôn làng của những người đi xa thông qua sắc trắng quen thuộc đó.
Mẫu 2
Mùa hoa mận là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Chu Thùy Liên. Bài thơ là nỗi lòng của "người đi xa" về những nối nhớ da diết cùng với hình ảnh gần gũi, quen thuộc của quê hương mình. Mở đầu bài thơ, tác giả đã cho ta thấy một khung cảnh mùa hoa mận dưới cái nhìn đầy sự tinh tế:
Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ.
Cảnh "cành mận bung cánh muốt" đã báo hiệu rằng mùa xuân đã về cùng với nhiều điều mới mẻ làm bừng sáng khắp khung trời nơi đây. Dưới cành mận ấy, chúng ta lại thấy những hình ảnh vô cùng gần gũi, quen thuộc, đó là hình ảnh "lũ con trai háo hức chơi cù, lũ con gái rộng ràng khăn áo". Cùng với tâm thế rộn ràng, vui tươi ấy, cành mận cũng được gắn liền với tuổi thơ của những đứa trẻ nơi đây, nó theo suốt quá trình trưởng thành và chứa đựng những ước mơ nhỏ bé của con trẻ. Tiếp nối về khung cảnh sinh hoạt của dân làng, ta lại thấy nơi đây đầy sự rộn ràng, tấp nập, nhộn nhịp:Cành mận bung cánh muốtGiục mẹ xôn xang lá, gạoGiục cha vui lòng căng cánh nỏGiục người già bản hối hả làm đuMọi người nơi đây đều đang chuẩn bị để đón một mùa xuân cùng với những điều tốt lành. Hình ảnh người mẹ "xôn xang lá, gạo" để làm bánh, một món bánh đặc trưng cho mùa xuân, người cha thì "căng cánh nỏ", người già bản "làm đu" để phục vụ cho trò chơi dân gian của bản địa. Tất cả đã hiện lên không khí của mùa xuân, chất chứa bao niềm vui, nỗi buồn, gắn bó với bản làng suốt năm tháng.Và rồi, một lần nữa, tác giả sử dụng điệp ngữ lại lần thứ ba với câu thơ "Cành mận bung cánh muốt". Nó như nhấn mạnh thêm vẻ đẹp của mùa hoa mận cùng với cảnh vật, con người nơi đây, tạo nên một khung cảnh hết sức nên thơ:Cành mận bung cánh muốtNhà trình tường ủ hương nếpGiục lửa hồng nở hoa trong bếpCho người đi xa nhớ lối trở vềTrong ngôi nhà truyền thống "nhà trình tường ấy", mùi "nếp" lan toả ra khắp căn phòng với ánh lửa hồng biến căn nhà ấy trở nên gần gũi, ấm cúng hơn. Để rồi khi "người đi xa", họ luôn hướng về quê hương với những thứ mộc mạc, gần gũi và thân quen, đặc biệt là vào mùa hoa mận nỗi niềm đó lại nhân lên gấp bội, gợi nhớ về những kí ức xa xưa. Hoa mận như dẫn lối họ trở về với những hoài niệm, nhớ nhung, nhớ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày đang diễn ra một cách hối hả, xốn xang của các mẹ, cha, người già bản, sự vui vẻ, háo hức của lũ con trai, con gái trong bản làng.Nhờ những hình ảnh được miêu tả tinh tế dưới ngòi bút của nhà văn Chu Thùy Liên, em như hình dung ra mình đang lạc vào khung cảnh đẹp đẽ ấy với tất cả sự bình yên đến lạ. Qua đó, ta cũng thấy được vẻ đẹp của miền núi Tây Bắc, tất cả được gói gọn trong ba khổ thơ, đã lột tả được bức tranh nên thơ ấy. Để rồi dù ta có đi xa đến đâu thì lòng ta thì mãi luôn nhớ về quê hương, nơi chăn rau cắt rốn của mình với những điều rất đỗi giản dị, nhưng lại chan chứa nhiều kỉ niệm đau đáu.
Mẫu 3
Chu Thùy Liên là một hồn thơ đẹp, những tác phẩm của ông được đánh gia cao và còn giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ ngành văn hóa. Mùa hoa mận là một trong những tác phẩm tiêu biểu về vẻ đẹp của thiên nhiên, được in trong tập Thuyền đuôi én. Bài thơ là nỗi lòng của một người xa quê, nỗi nhớ quê hương da diết. Bài thơ được Chu Thùy Liên dùng những tình cảm tha thiết nhất của một người con xa quê khi viết về quê hương của mình.
Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ
Ngay trong khổ thơ đầu tiên, cành mận đã là một điểm nhấn quan trọng. Màu trắng của hoa mận bung nở giữa bức tranh chính là lời báo hiệu mùa xuân đã về. Xuân tới, khung cảnh đặc trưng trên những bản làng dân tộc chính là cánh rừng trắng muốt của hoa mận. Hình ảnh này cũng được tác giả đưa vào để làm một dấu hiệu để biết mùa xuân đã tới. Dưới những tán mận rợp trời, hình ảnh nam thanh nữ tú sửa soạn đi chơi vô cùng rộn ràng. Đó đều là những khung cảnh vô cùng quen thuộc với tác giả, với những đứa trẻ vùng cao. Nó theo giấc mơ của những đứa trẻ qua thời gian để trưởng thành, chứng kiến những con người thành tài.
Cành mận bung cánh muốt
Giục mẹ xôn xang lá, gạo
Giục cha vui lòng căng cánh nỏ
Giục người già bản hối hả làm đu
Vẫn mở đầu bằng hình ảnh cánh hoa mận bung nở trắng đầy trời, bên dưới tán cây lại thay bằng hình ảnh sinh hoạt của thôn làng nơi đây. Cảnh sinh hoạt ấy vô cùng tấp nập, rộn ràng, hòa theo không khí mùa xuân mọi người chuẩn bị để đón một cái Tết mới. Những phong tục trong ngày Tết của những người dân bản. Người mẹ bận bịu bên lá, gạo làm bánh. Cha căng cánh nỏ để chuẩn bị cho cuộc đi săn. Những người già hối hả làm xích đu để trẻ em, mọi người vui chơi. Đây đều là những hình ảnh gần gũi và quen thuộc vào mùa xuân, khung cảnh mà tác giả cảm thấy thân thuộc. Dịp lễ Tết luôn là thời gian nhộn nhịp và vui vẻ nhất trong năm, đó cũng chính là những hình ảnh tác giả ghi nhớ sau nhiều năm xa quê của mình.
Cành mận bung cánh muốt
Nhà trình tường ủ hương nếp
Giục lửa hồng nở hoa trong bếp
Cho người đi xa nhớ lối trở về
Ở khổ thơ cuối cùng, một lần nữa cánh hoa mận bung nở trắng rừng lại được tác giả nhắc đến. Trong bài thơ, nó đã được điệp lại 3 lần, đều là hình ảnh mở đầu cho một bức tranh bên dưới. Đó cũng được coi là hình ảnh quan trọng nhất trong bức tranh xuân, là hình ảnh gợi nhớ về quê hương của tác giả. Trong ngôi nhà nhỏ, mùi hương nếp ấy chính là mùi hương của bánh ngày Tết. Những nồi bánh bên lửa hồng, bốc hơi nghi ngút cũng là một trong những hình ảnh gần gũi trong dịp Tết. Không chỉ riêng một hay hai nơi, mà là cả trên đất nước Việt Nam. Tất cả những hình ảnh ấy đều như lời thúc giục nhưng người con xa quê trở về. Có thể là màu hoa trắng muốt, có thể là hương thơm thanh mát dịu dàng, tất cả chúng như lòi nhắc nhở, lời chỉ dẫn những người con xa quê trở về.
Chu Thùy Liên đã rất sáng tạo và tinh tế khi lồng ghép hình ảnh hoa mận trắng muốt vào bài thơ. Sự kết hợp tuyệt vời giữa thiên nhiên và cảnh sinh hoạt náo nhiệt của con người dịp xuân về đã khiến cho bài thơ trở nên vô cùng uyển chuyển, xinh đẹp. Đó là một bức tranh Tây Bắc vào mùa xuân làm cho những người xa quê hương lưu luyến, cũng khiến cho những người đọc da diết khôn nguôi.
Mẫu 4
Bài thơ có ba khổ thơ, mỗi khổ thơ đều bắt đầu bằng hình ảnh hoa mận nở trắng muốt “cành mận bung cánh muốt”, sắc trắng tinh khôi của hoa mận nở khắp vùng trời Tây Bắc dường như chính là tín hiệu của mùa xuân. Và cũng từ đây nó là cái cớ để nhà thơ tuôn trào những cảm xúc về quê hương mình. Dưới tán mận, dưới sắc trắng tinh khôi của hoa mận, toàn bộ sinh hoạt bình dị của dân làng hiện ra, thân thương mà thiêng liêng làm sao:
Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ
Vui nhất và háo hứa nhất khi xuân về chính là lũ trẻ nhỏ. Chúng rộn ràng, sung sướng vì được mặc áo mới, được chơi những trò chơi dân gian mà không sợ cha mẹ mắng. Con trai thì “háo hức chơi cù”, “con gái thì rộn ràng khăn áo”... niềm vui ấy như lan toả sang cả không khí xung quanh. Các từ láy “háo hức”, “rộn ràng” khiến ý thơ tươi vui, rộn rã, dường như ta thấy được nụ cười trong trẻo của lũ trẻ. Dường như cành mận cũng đã cùng vui với lũ trẻ, chứng kiến bao ước mơ và theo con đường trưởng thành của chúng.
Cành mận bung cánh muốt
Giục mẹ xôn xang lá, gạo
Giục cha vui lòng căng cánh nỏ
Giục người già bản hối hả làm đu
Không khí thật nhộn nhịp, tất bật và khẩn trương. Dưới tán mận mẹ vội vàng rửa lá, ngâm gạo để chuẩn bị thổi xôi, làm bánh cúng tổ tiên, mong mỏi một vụ mùa no ấm. Cha đi căng cánh nỏ, người già hối hả làm đu, để chuẩn bị cho những trò chơi dân gian vào năm mới. Động từ “giục” xuất hiện liên tiếp ở ba dòng thơ “giục mẹ”, “giục cha”, “giục người già”... tất cả gợi một không khí thật khẩn trương, rộn rã, tưng bừng. Cả buôn làng từ già đến trẻ đều đang háo hức, phấn khởi chờ đón một mùa xuân mới về.
Cành mận bung cánh muốt
Nhà trình tường ủ hương nếp
Giục lửa hồng nở hoa trong bếp
Cho người đi xa nhớ lối trở về
Trong những ngôi nhà truyền thống mùi hương nếp tỏa ra thơm lừng. Dân làng thổi xôi, làm cơm rượu nếp, ủ men lá, thịt lợn, làm bánh… căn bếp không khi nào hết ánh lửa bập bùng. Không khí thật ấm cúng, hạnh phúc làm sao. Tác giả thật tinh tế khi viết “giục lửa hồng nở hoa trong bếp”, khiến chúng ta cảm nhận được hương vị của mùa xuân đã lan tỏa khắp các ngõ ngách của buôn làng.
Màu trắng của hoa mận, cánh trắng tinh khôi, sắc trắng bao trùm cả những con đường, ven suối, bản làng làm cho quê hương đẹp hơn. Chính màu sắc ấy cũng dấy lên trong lòng những người xa quê cảm xúc bồi hồi, nhớ thương da diết. Ai đi xa chẳng mong trở về, nhất là khi năm mới đến, con người ta lại càng da diết với nỗi nhớ quê hương hơn. Hoa mận như là hoài niệm, như là tín hiệu dẫn lối con người ta trở về với quê hương, nơi ta sinh ra và gắn bó suốt những năm tháng tuổi thơ.
Bài thơ có ba khổ, viết theo thể thơ 5 chữ, không gieo vần, không nặng nề về hình thức. Mạch cảm xúc của nhà thơ chi phối đến mạch chung của bài thơ. Bằng những nét vẽ tinh tế nhà thơ đã giúp bạn đọc cảm nhận được vẻ đẹp cùng không khí rộn ràng của quê hương vào những ngày xuân sang. Qua đó dấy lên trong lòng mỗi người tình yêu tha thiết với nơi chôn nhau cắt rốn.
Lời giải
Mẫu 1
Đất nước là một đề tài quen thuộc từ xưa đến nay của các nhà thơ nhà văn. Nguyễn Đình Thi chính là một gương mặt tiêu biểu cho đề tài này, Đất nước Nguyễn Đình Thi không giống với bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Các câu thơ trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi là các câu dài, ngắn xen kẽ nhau, nhịp điệu biến đổi linh hoạt. Hình ảnh sinh động, biểu cảm, có những đoạn hình ảnh tương phản, có sức khái quát cao. Nhà thơ chú ý diễn tả sâu sắc, tinh tế tiếng nói nội tâm của nhân vật. Trong đó có sự kết hợp giữa cảm xúc và suy tưởng.
Mẫu 2
Từ việc cảm nhận bài thơ Đất nước, ta thấy được nhiều nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ. Tác giả lựa chọn thể thơ tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên. Bằng việc sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục – tập quán sinh hoạt của nhân dân đến các thể loại của văn học dân gian như ca dao – dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích, …Điều đặc biệt là tác giả sử dụng một cách sáng tạo, không trích dẫn nguyên văn mà chỉ trích một vài từ nhưng người đọc cũng có thể hiểu về thi liệu dân gian ấy. Giọng thơ trữ tình – chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người.. Bài thơ như một lời ca, lời hát chạm đến trái tim người đọc
Mẫu 3
Đất nước là đề tài lớn, xuyên suốt trong lịch sử văn học mà các nhà thơ luôn tìm đến để khai thác. Nguyễn Đình Thi chính là một gương mặt tiêu biểu cho đề tài này, nổi tiếng vời bài thơ Đất nước. Bài thơ đã nói về một đất nước mỗi lúc lại hiện ra với một vẻ mặt mới lấp lánh, đa dạng và hàm chứa một nội dung cụ thể lịch sử. Các câu thơ trong bài có độ dài, ngắn xen kẽ nhau cùng nhịp điệu biến đổi linh hoạt. Ngoài ra, bài có sự kết hợp với những hình ảnh sinh động, biểu cảm, có những đoạn hình ảnh tương phản, có sức khái quát cao tạo cho đoạn thơ như một áng văn hay ca ngợi về tình yêu quê hương, đất nước. Đồng thời, nhà thơ chú ý diễn tả sâu sắc, tinh tế tiếng nói nội tâm của nhân vật trữ tình. Trong đó có sự kết hợp giữa cảm xúc và suy tưởng.
Mẫu 4
Đất nước là một trong những bài thơ hay nhất của tác giả Nguyễn Đình Thi. Bài thơ có thời gian thai nghén suốt một thời gian dài, là một bản tổng kết về hành trình dài của đất nước từ những năm thực dân Pháp giày xéo, đau thương trong chiến tranh đến ngày ca khúc ca chiến thắng. Bài thơ khá dài, có nhiều khổ thơ hay, đặc biệt là khổ thơ đầu tiên:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
…………………………..
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
7 câu thơ đầu chính là nỗi nhớ của người ra đi trước mùa thu của Hà Nội. Mang tâm sự của người lính ra đi,chưa có ngày trở về, nhà thơ vô cùng bồi hồi, xao xuyến khi nhớ về mùa thu Hà Nội, một mùa thu đẹp với bao nhiêu cảnh, bao nhiêu tình:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Mùa thu trong nỗi nhớ hiện ra qua cái không khí rất đặc trưng “sáng mát trong”: gợi ra không gian mát lành của hồn thu, trời thu. Phép so sánh sáng mát trong với như sáng năm xưa, gợi lên một mùa thu trong quá khứ, không rõ là thời điểm nào nhưng chắc chắn đó là những ngày tháng tươi đẹp nhất của mùa thu Hà Nội. Đó có thể là mùa thu năm 1945, trước quảng trường Ba Đình lịch sử mà chủ tịch đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, hoặc là mùa thu của những ngày tháng còn hoà bình. Mùa thu ấy hiện ra qua không khí, tiết trời và qua những thức quà rất giản dị “hương cốm mới”, “trái hồng chín đỏ”, “trái na thơm lừng”... thật bình dị, thân thương mà ý nghĩa làm sao.
Chính trong không khí như vậy nhà thơ hồi tưởng về “ những ngày thu đã xa”. Ở thời điểm hiện tại nhà thơ nhìn về những năm tháng quá khứ, “nhớ” đồng hiện cả quá khứ và hiện tại trong một khổ thơ.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Lúc này đương độ thu chín nhất nên cảm nhận rõ được cái chớm lạnh, chưa gay gắt, khắc nghiệt như mùa đông nhưng cũng đủ để gợi cảm giác mơn man nơi da thịt. Trong không khí lành lạnh của mùa thu đó là hình ảnh của những con phố dài đang trong mùa thay lá, xao xác những chiếc lá vàng rụng, từ láy “xao xác” kết hợp với “hơi may” khiến cho câu thơ có nhịp điệu trầm, buồn. Phải chăng đó cũng là tâm trạng của những con người đã lâu không được cảm nhận cái không khí của mùa thu Hà Nội.
Kết thúc khổ thơ là hình ảnh của người ra đi “đầu không ngoảnh lại”. Người ra đi ở đây ta có thể hiểu là những người lính quyết tâm ra đi vì non sông đất nước, đi để bảo vệ Hà Nội, với quyết tâm đất nước thoát khỏi giày xéo của chiến tranh. Người ra đi ôm bao hoài vọng, chí lớn nên có tư thế ngang tàng, quyết tâm “không ngoảnh lại”, nghe như âm vang của lời thề “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” . Cái quay lưng đi quyết tâm như thế nhưng tấm lòng, sự vương vấn với Hà Nội sao có thể dứt khoát ngay được, thế nên mới có cảnh “sau lưng thềm…rơi đầy:”
Một đoạn thơ ngắn nhưng đã thâu tóm được trọn vẹn cái hồn của mùa thu miền Bắc nói chung và mùa thu của Hà Nội nói riêng. Mùa thu đẹp đến nao lòng nhưng cũng có cái gì đó buồn đến tê tái. Nhất là khi ấy đất nước còn đang bị giày xéo đau thương do chiến tranh mang lại. Thông qua bài thơ chúng ta cảm nhận được tình yêu kín đáo nhưng sâu sắc của nhà thơ dành cho Hà Nội, tự hào về mảnh đất nghìn năm văn hiến này.
Mẫu 5
Nguyễn Đình Thi làm thơ từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông mang bản sắc và giọng điệu riêng vừa tự do, phóng khoáng, vừa hàm súc, vừa sâu lắng suy tư. Đặc biệt, Nguyễn Đình thi co những bài thơ đằm thắm, thiết tha về quê hương đất nước Việt Nam lam lũ, đau thương đứng lên chiến đấu và chiến thắng. Đất nước là một thi phẩm xuất sắc nhất cho sự nghiệp thơ ca của ông. Chỉ vài nét phác họa, phát thảo nhẹ nhàng, nhà thơ đã gợi lên được cái hồn của mùa thu Hà Nội năm xưa, cổ kính, đẹp một cách hắt hiu, vắng lặng và còn phảng phất nỗi buồn.
Tác giả mở ra một không gian vô cùng an lành, êm đềm gợi bao cảm xúc:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Tín hiệu gợi nhắc về mùa thu Hà Nội: sáng mát trong và gió thổi mùa thu hương cốm mới, đây là những nét đặc trưng quen thuộc của mùa thu Bắc Bộ, mùa thu Hà Nội. những hình ảnh trong hiện tại có sức gợi nhớ về ngày rời Hà Nội cổ kính, thơ mộng. Mùa thu Hà Nội ngày xưa trở về trong ký ức nhà thơ:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Từ láy gợi tả gợi lên cảnh mùa thu với nét quen thuộc, có nắng, có lá vàng rơi, có gió heo may – một mùa thu rất nhẹ, rất thơ mang nét buồn xao xuyến đọng lại trong lòng người ra đi. Bức tranh mùa thu có hình khối, đường nét, màu sắc những chứa đầy tâm trạng của người ra đi “Người ra đi… lá rơi đầy”. Cảnh sắc mùa thu chân thực, thi vị, mang đậm đặc trưng mùa thu Hà Nội nhưng thoáng buồn: những buổi sáng mát trong, gió thổi, hương cốm, chớm lạnh, hơi may xao xác, nắng lá, phố phường Hà Nội. Người ra đi: “đầu không ngoảnh lại, sau lưng thềm…”. Hình ảnh con người ra đi với tư thế và dáng đi tỏ ra kiên quyết, dứt khoát nhưng tâm hồn vẫn lưu luyến với trời thu Hà Nội, với những gì thơ mộng của thủ đô yêu dấu. Những chàng trai Hà Nội sẵn sàng từ biệt căn nhà, góc phố ra đi làm nghĩa vụ của một công dân. Cảnh thu và con người Hà Nội cũng chính là niềm tự hào của tác giả.
Trong hoài niệm của nhà thơ, mùa thu Hà Nội với những cảnh vật thiên nhiên và con người hiện ra thật cụ thể và sinh động. Còn tâm trạng của nhà thơ phảng phất một nỗi buồn hiu hắt. Mùa thu Hà Nội đẹp nhưng buồn thấm thía bởi nhân vật trữ tình phải ly biệt Hà Nội để đi tìm con đường thoát vòng nô lệ đau thương, tủi nhục.
Mẫu 6
Đối với mảnh đất quê hương của mình, ai mà chẳng có những kỉ niệm, sự gắn bó, thân thương. Bài thơ “Đất nước” ra đời với tất cả sự nâng niu, ấp ủ của tác giả trong một thời gian dài 1948 - 1955. Mặc dù dựa trên những suy ngẫm của tác giả về đất nước và con người Việt Nam từ “Sáng mát trong như sáng năm xưa” (1948) và “Đêm mít tinh” (1949). “Đất nước” vẫn có được tính chỉnh thể của một tác phẩm nghệ thuật và người đọc vẫn cảm nhận được nó một cách sâu sắc.
Khơi nguồn cho những cảm xúc và suy ngẫm về đất nước là những cảm giác trực tiếp trong một buổi sáng mùa thu gợi lên nỗi nhớ về đất nước:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những mùa thu đã xa”
Hà Nội hiện lên trong tâm tưởng người thanh niên trí thức đi theo tiếng gọi cách mạng với tất cả những hình ảnh thân thuộc ngày nào: buổi sáng mùa thu trong lành, gió nhẹ thổi và đặc trong gió thoang thoảng mùi hương cốm mới - một mùi hương rất đỗi quen thuộc của Hà Nội - đã gợi lên trong tâm trí nhà thơ một nỗi nhớ da diết, bồi hồi. Chỉ bằng vài nét phác họa tác giả đã gợi lên cả không gian và thời gian, cả màu sắc và hương vị. Một điều gây thắc mắc cho ta là tại sao giữa vùng rừng núi Việt Bắc lại có được mùi “hương cốm mới” ấy. Nhưng nếu liên hệ, đến hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, có lẽ mùi hương cốm ấy là có thật và điều này cũng có thể được hiểu: các chiến sĩ hoạt động ở vùng rừng núi rất ít khi có điều kiện về Hà Nội thăm gia đình, do đó mỗi lần về Hà Nội họ đều nhớ mang theo đặc sản của quê hương - cốm. Khi trở lại Việt Bắc và mùi hương cốm vào buổi sớm tinh mơ có lẽ bắt nguồn từ đó. Ắt phải là một người yêu quê hương ghê gớm lắm tác giả mới cảm nhận được mùi hương ấy. Và có lẽ mùi hương cốm mới đã dẫn nhà thơ ngược dòng thời gian, sống lại những kỉ niệm xưa:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Mùa thu Hà Nội với những cảnh vật thiên nhiên và con người hiện ra trong hoài niệm thật cụ thể, sinh động và gợi cảm. Sự nhạy cảm, tinh tế đã giúp nhà thơ nhận ra cái “chớm lạnh” của buổi sáng mùa thu, cảm giác thật cụ thể cái “xao xác hơi may trên những phố dài”. Câu thơ rất gợi cảm, đầy ấn tượng, một phần là nhờ cách đảo ngữ: “Những phố dài xao xác hơi may”. Cả Hà Nội dường như trở thành một thành phố trống không, chỉ có những chiếc lá vàng bị những đợt gió heo may cuốn bay. Nhân vật người ra đi - có lẽ là người duy nhất và cuối cùng giã biệt Hà Nội để lên chiến khu Việt Bắc để lại thềm nắng đầy lá vàng rơi cho nên “đầu không ngoảnh lại” nhưng là cả một sự xao xuyến, bâng khuâng trong tâm tưởng. Hình ảnh người ra đi giữa không gian đầy màu sắc ánh sáng, tạo một ấn tượng sâu đậm, chất chứa những nỗi niềm, những tâm trạng. Với bảy chữ “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” tác giả đã vẽ nên một bức tranh cực kì gợi cảm: Một người đang bước đi, sau lưng là thềm nhà đầy nắng vàng và lá rụng. Có thể nói bốn câu thơ viết về mùa thu Hà Nội trong niềm hoài niệm của nhà thơ là những câu thơ hay nhất, đẹp nhất của bài thơ. Quả là một mùa thu buồn. Mùa thu thường buồn nhưng mùa thu ở đây có một nét buồn khó hiểu hơn. Đó là cái buồn của người công dân trong cảnh nước nhà đang rơi vào vòng máu lửa, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, mọi người rời lên chiến khu để tham gia kháng chiến, phố phường trở nên hoang vắng và hiu hắt buồn.
Mẫu 7
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ tài hoa. Ông có sự gắn bó mật thiết đối với nền văn học Cách mạng ở Việt Nam từ những ngày đầu trứng nước (từ ngày thành lập Hội Văn hóa Cứu Quốc (1943) cho đến nay). Ông cống hiến tích cực trên nhiều lĩnh vực văn học (thi ca, truyện, kịch, phê bình văn học), thảo luận triết học, sáng tác nhạc. Ông được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - 1996). Trong lĩnh vực sáng tác thi ca, Nguyễn Đình Thi đã để lại cho đời tác phẩm Đất nước. Bài thơ được sáng tác trong quãng thời gian 8 năm (1948 - 1955), diễn tả quá trình nhận thức về kháng chiến, sự hình thành, nảy nở tình cảm yêu nước, căm thù bè lũ cướp nước và khái quát những chặng đường kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng anh dũng, gian khổ nhưng vĩ đại của dân tộc ta.
Chúng ta hãy tìm hiểu phần thứ nhất của bài thơ (từ câu đầu đến câu 21):
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Nguyền Đình Thi cảm nhận về đất nước thân yêu của mình bắt đầu từ buổi sáng tinh khiết của mùa thu. Trời thu mát mẻ, trong trẻo “mùi hương cốm mới” hòa quyện trong những làn gió nhẹ mơn man gợi cảm giác thi vị và cũng gợi cho chúng ta nhớ đến hương vị thơm ngon của lúa nếp trong câu thơ của Hoàng Cầm “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng” (Bên kia sông Đuống). Từ mùa thu nơi núi rừng Việt Bắc, mùa thu độc lập, tự do, mùa thu của quê hương cách mạng, Nguyễn Đình Thi đưa điểm nhìn về “Những ngày thu đã xa”. Có thể nói, nhà thơ chỉ:
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng bay.
Lòng tác giả nhớ về mùa thu Hà Nội:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Khung cảnh Hà Nội hiện lên thật đẹp, bàng bạc chất thơ. Tiết trời chỉ “chớm lạnh” - cái lạnh rất đặc trưng của Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Cái lạnh làm rung động hồn người. Cái lạnh gợi thi hứng khác hẳn cái lạnh lẽo của mùa đông. Những cơn gió heo may xao xác đầu mùa rải trên đường phố tĩnh lặng làm cho phố phường dài hơn, rộng hơn. "Xao xác” là từ láy được nhà thơ dùng “rất đắt”. Đặc biệt những tia nắng hanh vàng soi trên “thềm nắng lá rơi đầy” gợi được thần sắc riêng biệt của vẻ đẹp mùa thu. Chính vì Hà Nội luôn ở nơi hồng trái tim của Nguyễn Đình Thi nên nhà thơ mới miêu tả đúng vẻ đẹp của mùa thu Hà Nội như thế. Tuy nhiên, cảnh sắc ấy dưới điểm nhìn của tác giả có chút xao xuyến, bâng khuâng, buồn lặng lẽ. Nhưng không thể vui được khi Hà Nội vẫn còn bóng dáng của quân cướp nước, bán nước. Cho nên, “Người ra đi đầu không ngoảnh lại'’. Câu thơ đã vẽ lên bức chân dung tự họa của thi sĩ Nguyền Đình Thi. Tâm trạng người ra đi mang nặng niềm thương mến, vấn vương. Vì lí trí nhắc nhở trách nhiệm của người công dân nên “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Còn tinh cảm có sự lưu luyến với nếp sống quen thuộc trong căn nhà bé nhỏ và nỗi nhớ nhung Hà Nội bốn ngàn năm văn hiến. Vì vậy, nhà thơ “đầu không ngoảnh lại” nhưng tâm hồn thì không thể không ngoảnh lại:
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Tóm lại, bằng một hồn thơ đất nước rộng mở, bằng tình cảm mạnh mẽ, bằng điếm nhìn từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại về quá khứ, bằng các thủ pháp nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Đình Thi vừa miêu tả được nét đẹp tuyệt vời của đất nước Việt Nam trăm quý ngàn yéu, hết lời ca ngợi đất nước, vừa bày tỏ được cảm hứng về đất nước và dân tộc anh hùng một cách nhất quán, chân thành.
Mẫu 8
"Tháng tám mùa thu, lá rơi vàng chưa nhỉ? Từ độ người đi, thương nhớ âm thầm, ..." Nhắc về mùa thu của non sông Việt Nam thì chẳng đâu hơn mùa thu của Hà Nội, cái mùa mà mỗi con người Việt Nam luôn cảm thấy bồi hồi, thân thương nhất. Mùa thu của một Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn hiến cứ vấn vương, da diết trong ta biết bao điều. Thu Hà Nội thật đẹp, thật nên thơ, trữ tình. Chẳng vậy mà bất cứ người con nào của Hà Nội đi xa cũng đều nhớ về quê hương, nơi có Hồ Tây chiều hôm, có hương sen thơm, có "hương cốm mới" và có một mùa thu thật dịu dàng. Với Nguyễn Đình Thi cũng vậy, Hà Nội trong ông, quê hương đất nước trong ông là một mùa thu của Hà Nội thật bình yên, vương vấn tâm hồn người:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những con phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy."
Chẳng phải mùa xuân với những đóa hoa thơm rực rỡ khoe sắc màu, không phải mùa hạ với tiếng ve kêu râm ran, cũng chẳng phải mùa đông với những vạt sương bảng lảng trên mặt hồ Gươm buổi sớm, mùa thu của Hà Nội mới là thứ khiến cho Nguyễn Đình Thi luôn bâng khuâng mỗi khi nhớ về. Bởi Hà Nội đẹp nhất, dịu dàng nhất có lẽ chính trong những ngày với sắc trời thu này. Mang tâm sự của một người ra đi, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lại mùa thu ly biệt thật đặc sắc đã từ nửa thế kỉ trước thế mà vẫn khiến tâm hồn người đọc chúng ta vương vấn mãi không thôi.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã viết trong nỗi nhung nhớ đến cháy lòng, nhớ một mùa thu đã xa. Ông đã xúc động mà viết lên cái hồn của đất nước muôn đời để mở đầu cho bài thơ "Đất nước":
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới".
Những rung động sâu thẳm trong tâm hồn tác giả đã khiến ông tái hiện lên một mùa thu trong nỗi nhớ miên man của mình. Những sáng mùa thu với hương gió lạnh se se áo, với những chùm hoa sữa ngất ngây lòng người, với bầu trời xanh, với khí trong lành, ... Như Nguyễn Khuyến cũng đã gợi tả:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt"
Phải, bầu trời ấy thật trong lành, "mát trong" biết bao nhiêu như những ngày tháng "năm xưa". Chỉ với hai từ "mát trong" dường như khiến cho tâm hồn của chúng ta được đắm trong cái không khí của làn gió thu mơn man khắp da thịt, thổi mát của tâm hồn con người khiến cho ta thật lâng lâng. Chỉ với hai chữ này thôi, cả một mùa thu với khí thu, hồn thu của sông núi được tóm lại thật gọn gàng, với màu sắc thật đẹp đẽ. Ở đây, Nguyễn Đình Thi đã sử dụng phép so sánh giữa hiện tại và quá khứ "sáng mát trong" của ngày hôm nay với "sáng năm xưa". Đặt vào thời điểm sáng tác bài thơ này, chúng ta mới thật hiểu được ý của tác giả. Bài thơ được sáng tác trong vòng tám năm, tám năm trời thai nghén từ 1948 đến 1955, biết bao mùa thu đã đi qua Hà Nội, có những năm tháng chiến tranh tàn khốc, có những năm tháng thật êm dịu. Thế nhưng, sáng mùa thu này, thu Hà Nội trở lại là thu Hà Nội, dịu dàng, trong trẻo như xưa, như những ngày thu êm đềm, chiến tranh chưa bắt đầu. Hay cũng có thế là mùa thu độc lập đầu tiên sau những năm tháng dài của chiến tranh khi Bác Hồ thân yêu của chúng ta đứng giữa quảng trường Ba Đình lịch sử dõng dạc đọc bản Tuyên Ngôn khai sinh ra một nước Việt Nam độc lập tự do? Nhưng dù là gì thì mùa thu Hà Nội vẫn "mát trong" như thế, vẫn đẹp và bình yên như thế.
Câu thơ thứ hai, Nguyễn Đình Thi đã viết:
"Gió thổi mùa thu hương cốm mới"
Nếu nhắc về thu Hà Nội mà không nhắc tới món cốm gói trong lá sen thì có lẽ sẽ là một thiếu sót lớn. Thế nên, trong cái nhớ lưu luyến của một người sắp đi xa, thức quà đặc sản mà Nguyễn Đình Thi nhớ nhất là món cốm làng Vòng. Hương gió thu thoang thoảng thổi qua đây mang theo "hương cốm mới". Cái hương cốm ấy quyện sánh lại trong làn gió thu, lướt qua những con phố, phả vào lòng người nỗi nhớ bâng khuâng mùi lúa nếp non, mùi cốm mới thơm nồng. Nó khiến cho con người bừng lên nỗi nhớ da diết không thôi cái hương vị đậm đà của quê hương xứ sở. Người Hà Nội đi đâu cũng không thể nào quên được cái vị thơm nồng của những hạt cốm được gói trong từng lớp lá sen. Cũng như Hữu Thỉnh, ông nhận ra cái thứ mùi riêng biệt, đặc trưng của mùa thu - "hương ổi", cái mùi hương ấy quấn quýt trong làn gió thu khiến cho ai cũng phải vương vấn:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió thu
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Chẳng phải đến thơ Nguyễn Đình Thi ta mới biết đến món đặc sản ấy của Hà Nội, mà từ trong những bài văn xuôi của Vũ Bằng, của Thạch Lam cũng luôn nhắc nhở rằng: cốm vòng Hà Nội là "thức quà riêng của đất nước", "thức quà thanh nhã và tinh khiết". Nhưng đến với thơ Nguyễn Đình Thi, người ta lại cảm nhận được nét đẹp thoáng chút buồn của hồn quê hương đất nước, của Hà Nội trong hương cốm mùa thu.
Dòng hồi tưởng miên man đưa Nguyễn Đình Thi trở về những năm tháng của quá khứ, nhắc ông nhớ tới những hoài niệm xưa kia. Lòng ông trải ra với bao xúc cảm dồn nén, những kỉ niệm xưa ùa về, dâng tràn trong nỗi lòng người thi sĩ:
"Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may"
"Những ngày thu đã xa" mà Nguyễn Đình Thi nhắc tới phải chăng là những ngày thu trước ngày giã biệt quê hương, Hà Nội ra đi vì sông núi non sông, vì dân tộc yêu dấu. Những ngày thu đó giờ đã trở thành miền kí ức "đã xa", hằn in dấu lên tâm hồn người con của Hà Nội. Ra đi vì chí lớn, nhưng nỗi lòng mang nặng niềm thương với Hà Nội thân yêu, để đền giờ đây bao nhiêu nỗi nhớ cứ ùa về trong lòng thi sĩ, nhắc ông nhớ về sáng thu "chớm lạnh" của thành phố quê hương. Cái "chớm lạnh" se se của đầu thu ấy đã gieo vào lòng người biết bao nhung nhớ. "Chớm lạnh" nghe sao mà gợi tả gợi tình, nó không chỉ diễn tả những cơn gió vừa se se hiu hắt của những buổi sáng mùa thu mà còn ẩn trong đó là cảm nhận của con người. Vậy giữa những ngày "chớm lạnh trong lòng Hà Nội" ấy, ta có gì để nhớ? Ta nhớ "những con phố dài xao xác hơi may". Hà Nội ba mươi sáu phố phường, mỗi con phố lại gợi lên những cảm giác riêng, không khí riêng, để làm lên cái riêng khác biệt của Hà Nội.Chẳng vậy mà Nguyễn Đình Thi lại nhớ da diết "những con phố Hà Nội" lúc mùa thu "chớm lạnh" đến thế! Bởi hình ảnh của những con đường với những chiếc lá vàng bay trong gió thu, mang theo cái hơi thu hiu hiu, khiến cho lòng người thêm se sắt. Nguyễn Đình Thi đã khéo léo lồng vào trong câu thơ một từ Hán Việt "hơi may", vừa tinh tế lại quá đỗi giàu sức tưởng. "Hơi may", cũng có nghĩa là gió lạnh, thế nhưng đọc lên hai tiếng "hơi may", người ta thấy nó sao tình tứ, ngọt ngào quá! Nếu đặt hai từ "gió lạnh" ở đây để thay thế thì không khí của câu thơ chẳng phải cái không khí se se kia sẽ nhuốm màu lạnh giá hay sao?
Trong thơ xưa, Nguyễn Khuyến cũng đã có lần dùng từ "hơi may" để gợi tả những cơn gió thu, cái từ mà chỉ gợi lên cái không khí lành lạnh, se se chứ không phải cái lạnh giá mang hơi thở của mùa đông:
"Lác đác ngô đồng mấy lá bay
Tin thu heo hắt lọt hơi may".
Không những vậy, tác giả còn đặt ở đây từ láy "xao xác". Chỉ nghe thôi người ta đã cảm nhận được âm thanh của những chiếc lá bay, đang nhẹ cuốn trên từng vỉa hè, con phố. Đó là tiếng lá rơi, âm thanh của những nhánh cây đang khẽ rùng mình trong cái "chớm lạnh" đầu thu.
"Những con phố dài xao xác hơi may"
Phố Hà Nội xưa nay luôn nổi tiếng với những vẻ đẹp cổ kính và thu Hà Nội cũng vậy, cũng khiến cho người ta man mác buồn, bâng khuâng một nỗi nhớ tha thiết. Chỉ với vài nét bút, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lên một Hà Nội của "những ngày đã xa" với cái chớm lạnh se sắt đầu thu của những cơn gió thu, với cái âm thanh "xao xác hơi may" của những chiếc lá vàng. Ông đã để lại trong lòng chúng ta một cảm nhận rất riêng về thu Hà Nội. Phải yêu thương Hà Nội đến thế nào, hiểu rõ Hà Nội thế nào, ông mới trân quý, mới gợi tả được mùa thu Hà Nội đẹp đến như thế?
Và hai câu cuối của khổ thơ, Nguyễn Đình Thi lại cất lên nỗi lòng của mình trong tâm trạng của người ra đi. Giọng thơ ông vẫn vậy, vẫn buồn thương da diết, nhưng ở đây, cái buồn ấy như nhân lên gấp bội lần vừa sâu lắng lại vừa thiết tha, non nỉ:
"Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy".
"Người ra đi" vì chí lớn non sông, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, biết là thế nhưng sao trong lòng còn vấn vương, còn lưu luyến quá đỗi thế này. Mang trong lòng biết bao kỉ niệm về Hà Nội, về mùa thu của Hà Nội với hương cốm mới, với cái chớm lạnh, cái xao xác của những lá sấu, lá me bay, đó là hành trang để người chiến sĩ bước ra đi. Câu thơ vang lên mà ta nghe thấy cả tiếng lòng quyết tâm đến tột độ của người chiến sĩ. "Không ngoảnh lại" phải chăng đó là sự quyết tâm ra đi để đem về hòa bình, đem về những sáng mùa thu trong mát "như sáng năm xưa"? Nghe đâu đây âm vang của những lời thề "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" của những người lính năm nào!
Câu thơ sau tiếp nối quả là một câu thơ đặc sắc. Người ra đi để lại sau lưng là những giọt nắng thu vương vãi trên thềm nhà, là lá thu rơi trên nền đất, trải rộng trên "những phố dài". Câu thơ không chỉ dùng để tả cảnh mà còn dùng để nói lên nỗi lòng của chính tác giả. Đó là sự lưu luyến, sự ngập ngừng chẳng muốn rời xa. Mặc dù ra đi với quyết tâm "đầu không ngoảnh lại", khí thế là thế, nhưng chẳng thể tránh khỏi những phút lưu luyến, nghẹn ngào nhớ thương. Cái quay lưng của người chiến sĩ quyết tâm là thế, nhưng nghe sao bâng khuâng quá đỗi, bởi người thi sĩ - chiến sĩ ấy còn lưu luyến với quê hương, với mùa thu quê nhà. Cảm xúc ấy dường như là cảm xúc chung của lứa thanh niên trí thức ra đi vì Tổ quốc thời ấy bởi Quang Dũng cũng đã từng viết:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Từ chiến khu xa xôi, người chiến sĩ nhớ về quê nhà với bao tình thương mến, nỗi nhớ man mác sâu nặng chứa chan cả niềm tự hào.
Đoạn thơ trên là đoạn mở đầu của tác phẩm "Đất nước" được thai nghén trong vòng tám năm của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, không chỉ về mặt ý nghĩa mà là cả nghệ thuật nữa. Đã bao người viết về thu Hà Nội, nhưng chưa ai có cái nhìn vừa cảm quan lại sâu sắc như ông, bởi ông là người con của Hà Nội, gắn bó với Hà Nội suốt những tháng năm tuổi thơ. Mùa thu Hà Nội trong ông mang nỗi buồn day dứt, khó tả, mang theo cả hồn thơ sông núi muôn đời nữa. Một chút "xao xác hơi may", "hương cốm mới", cái "chớm lạnh" trên "những phố dài" cổ kính, tất cả đều làm nên một mùa thu khó quên trong lòng người ly biệt. Vậy nên, dù quyết tâm ra đi vì chí lớn non sông, người khách ly biệt cũng chẳng thể nào thôi lưu luyến nắng thu, lá thu đang "rơi đầy" ngoài "thềm" trong gió thu kia.
Đoạn thơ đã gợi tả xuất sắc hình ảnh của mùa thu Hà Nội trong nỗi nhớ của người ly biệt. Nguyễn Đình Thi đã giúp cho chúng ta càng thêm yêu hơn dáng hình non sông quê hương mình, yêu thêm những con phố cổ kính của Hà Nội -Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Mẫu 9
Có lẽ không có một nhà thơ nào trên thế gian này, trở thành một nhà thơ chân chính mà lại không có một vần thơ, một bài thơ viết về đất nước, về quê hương. Bởi vì đất nước là nguồn cảm hứng vô tận đối với thi sĩ muôn đời. Nhưng tình cảm đất nước ở mỗi con người lại hình thành theo một con đường riêng, mang nội dung màu sắc riêng và dựa trên những cảm nhận riêng.
Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ viết nhiều về đất nước. Nhưng có lẽ chưa ở đâu, trong thơ và trong văn của ông, cảm hứng về đất nước lại nổi bật, tập trung đặc sắc như ở bài thơ Đất nước.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành, so với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi ngắn hơn, thế mà Hoàng cầm sáng tác chỉ trong một đêm, còn Nguyễn Đình Thi đã viết trong bảy tám năm ròng rã. So sánh như vậy để thấy cảm hứng về đất nước của hai nhà thơ ngay ở mặt này đã có cái gì rất khác nhau:
Bên kia sông Đuống là cảm hứng tuôn tràn, Đất nước là tình cảm nung nấu: Những đêm dài hành quân nung nấu. Lần giở lại "tiền sử" của bài thơ và đọc kĩ phần thứ nhất Đất nước, ta càng thấy rõ đó là một tình cẩm nang nấu, nung nấu nỗi nhớ, nung nấu niềm vui, niềm tin yêu của người làm chủ.
Là một thanh niên sống và hoạt động ở Hà Nội, Nguyễn Đình Thi viết về đất nước, trước hết là viết về Hà Nội, thủ đô của đất nước, thủ đô của trái tim ông, Hà Nội với hương sắc xao động long lanh trong nắng gió mùa thu.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Chẳng phải ngẫu nhiên chút nào khi nói đến đất nước là nói đến Hà Nội và nói đến Hà Nội lại nói đến mùa thu. Đất nước ta tươi đẹp bốn mùa nhưng đẹp nhất là vào mùa thu và có mùa thu ở đâu lại đẹp, lại "mát trong" hơn mùa thu Hà Nội? Nhất là mùa thu nơi đây lại từng điểm một cái mốc vàng son vào lịch sử - "Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình" giữa "Tháng Tám mùa thu xanh thẳm" (Tố Hữu). Cho nên, chẳng phải chờ đến bốn câu tuyệt tác, ngay từ những đồng đầu đã có cái gì xôn xao, xào xạc trong hồn:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Đất nước gắn với nỗi nhớ, nỗi nhớ khởi từ mùa thu, mùa thu "đã xa" được gợi lại từ "mùa thu nay". Rõ ràng là có hai mùa thu như đang soi chiếu vào nhau làm cho mọi phía đều long lanh lấp lánh hơn lên trong tâm hồn thi sĩ. Cái cảm giác "mát trong" là chung, là muôn thuở đối với mọi mùa thu Việt Nam, mùa thu Hà Nội.
Cái riêng biệt cái "đã xa" đã "khó rồi" giữa hai mùa thu, còn lại là gì? Trong những ngày thu đã xa Hà Nội "mát trong" vẫn "mát trong" vẫn đẹp và thơ mộng. Nhưng đó là cái đẹp buồn. Phố xá vắng vẻ, xao xác, sân thềm đầy nắng, đầy lá vàng rơi. Gió heo may mang theo khí lạnh đầu mùa thổi dài theo những dãy phố cổ vắng người. Có một cái gì buồn, thật trang trọng trong thời khắc chuyển mùa, thời khắc chia xa.
Mùa thu nay vẫn "mát trong" như "sáng năm xưa" ấy nhưng cũng "đã khác rồi". Khác rồi bởi cái "Người ra đi đầu không ngoảnh lại" của "những ngày thu đã xa", giờ đây đã "đứng giữa núi đồi", đúng từ một tầm cao của chiến khu kháng chiến Việt Bắc để mà "nhớ' mà "nghe". Lòng người đã đổi nên ngọn gió cũng đổi, âm thanh cũng đổi, sắc hương cũng đổi:
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Đó là cơn gió thổi, sắc áo mới, tiếng nói cười giữa một cuộc hồi sinh. Có một thay đổi nhỏ trong cách xưng hô ở trên là "tôi nhớ", "tôi đứng vui nghe". Đến đoạn thơ tiếp theo, đất trời mùa thu lại vang vọng tiếng "nói cười thiết tha" của "chúng ta".
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Nước chúng ta...
Mấy chữ "của chúng ta", "chúng ta" ấy vang lên thật rắn rỏi, kiêu hãnh tin yêu, "chúng ta" tự hào về "nước chúng ta" có chủ quyền, tự hào vì "nước chúng ta" giàu đẹp rộng lớn.
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa...
Tự hào vì truyền thống "không bao giờ khuất" của cha ông mình:
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Ở trên, ta nghe một "tiếng nói cười thiết tha" vọng lên đâu đó giữa tầng trời "trong biếc", ơ đây trong những dòng khép lại phần thứ nhất bài thơ, ta lại nghe tiếng nói thiêng vọng lên từ lòng đất thiêng mà nhà thơ gọi là "tiếng đất". Như vậy, cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong phần thứ nhất của bài thơ là niềm vui của người làm chủ.
Đó là niềm vui, là nỗi nhớ vừa sâu lắng vừa náo nức trong lòng, một thứ nỗi niềm vọng trong tâm thức thành một thứ tiếng nói riêng, "tiếng thu" riêng, nghe mênh mang sâu thẳm: sâu thẳm giữa bầu trời, sâu thẳm trong lòng đất và sâu thẳm giữa hồn người đi kháng chiến.
Như trên đã nói, Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác từ năm 1948 đến 1955 mới hoàn thành. Phần thứ nhất được hoàn thành năm 1948 ("Sáng mát trong như sáng năm xưa"), ("Đêm mít tinh") phần thứ hai, được viết tiếp từ 1949 đến 1955.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ đặc sắc về đề tài này. Đặc sắc nhất là ở cảm hứng rất riêng về đất nước của ông: Một đất nước gắn liền với mùa thu, gắn liền với niềm vui nỗi nhớ của con người làm chủ, một đất nước thật đẹp ngay trong cảnh gian khổ đau thương. Chính nhà thơ đã từng viết:
Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần
(Nhớ)
Có lẽ vì vậy mà giữa bao nhiêu bài thơ hay về đất nước của bao nhiêu nhà thơ, người đọc vẫn không thể quên được những câu thơ tuyệt tác của ông về phố Hà Nội, về "Những cánh đồng quê chảy máu - Dây thép gai đâm nát trời chiều" và về "Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy sáng lòa".
Mẫu 10
Đất nước là đề tài lớn, xuyên suốt trong lịch sử văn học, nhưng ở mỗi thời kì văn học, đề tài này được các nhà thơ khai thác ở những góc độ khác nhau. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất hiện rất nhiễu bài thơ tập trung khắc họa hình ảnh đất nước đau thương nhưng anh hùng quật khởi, nổi bật nhất là Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ là cả một chặng đường nhận thức về đất nước của tác giả.
Từ ba bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít linh (1949), và Đất (1965), Nguyễn Đình Thi đã tập hợp lại thành Đất nước. Qua những cảm nhận tinh tế về mùa thu đất nước, qua hình tượng Tổ quốc đau thương mà anh hùng, bài thơ thể hiện sâu sắc ý thức độc lập tự chủ, tình cảm yêu nước, căm thù giặc và niềm tự hào về sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ là sự tập hợp, ghép nối từ nhiều bài thơ nhưng không hề mất đi tính thống nhất chỉnh thể, trái lại đã phát triển theo một mạch cảm xúc tinh tế và khá nhất quán về tư tưởng. Bài thơ mở đầu với dòng cảm xúc về mùa thu đất nước, nhưng là trong những thời điểm và không gian khác nhau:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương, cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Trong một sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, nhà thơ bỗng có cảm giác cái mát mẻ, trong sáng của sớm mùa thu ấy giống như “sáng năm xưa” khi nhà thơ ra đi, hơn nữa trong gió thu nhẹ thổi còn thoảng bay hương cốm mới, gợi nhớ tới một mùi hương rất đặc trưng của Hà Nội vào thu. gần với cuộc sống sinh hoạt của người dân Thủ đô. Nhịp thơ như chậm rãi, nhẹ nhàng, dòng hồi tưởng của nhà thơ trong không khí ấy dào dạt tuôn chảy:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Đó là “những ngày thu đã xa” – những ngày thu trước Cách mạng, nhà thơ phải tạm biệt Thủ đô để lên đường. Cũng là viết về cảnh thu nhưng có bao nhiêu mơ hồ, mặc cảm trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến; bao nhiêu lãng mạn trong thơ Xuân Diệu, bao nhiêu cái ngơ ngác của con nai vàng đạp trên lá khô trong thơ Lưu Trọng Lư.
Trong thơ Nguyễn Đình Thi, cảnh thu Hà Nội chỉ hiện ra trong hồi tưởng nhưng thật đẹp, tuy nhiên vẫn có cái tĩnh lặng và buồn man mác. Đó là cảnh thu đất nước trong những năm đau thương: Sương chớm lạnh trong lòng Hà Nội. Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời tiết thu được nói đến “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” – đó là thời tiết chính thu. Thơ Nguyễn Đình Thi cũng nói về mùa thu nhưng là độ đầu thu.
Hai chữ “chớm lạnh” thật gợi cảm: chút se lạnh trong mùa thu tuy mới đến nhưng không phải là “những hiện tượng da thịt bên ngoài” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) mà đã thấm thía tận “trong lòng Hà Nội”. Nghĩa là tất cả không gian, cỏ cây, hoa lá, con người, phố phường đã cảm nhận sâu sắc được cái lạnh của mùa thu. Cái “chớm” ấy không ngọt ngào như cái rét đầu mùa. nhưng không phải là cái mát mẻ trong mùa hè mà đã là sự pha trộn trong cả hai mùa.
Có lẽ chỉ mùa thu, khí thu Hà Nội mới mang lại cho con người cái cảm giác về thời tiết như vậy. Hà Nội vào thu, gió thổi trên những dãy phố dài cổ kính lại rất nhẹ, chưa phải gió “heo may” mà mới chỉ dừng lại ở độ “hơi may”. Nghĩa là cũng mới chỉ ở độ “chớm” mà thôi.
Dường như tất cả mới chỉ đang ở độ bắt đầu, hết sức nhẹ nhàng nhưng đã làm cho người đọc cảm nhận được sự thay đổi, sự mới bắt đầu ở ranh giới ấy. Nhà thơ đã nhận ra, người Hà Nội đã nhận ra được “hơi thở dịu dàng” ấy của mùa thu. Lẽ tất nhiên, con người ra đi trong hoàn cảnh ấy, dù có mục đích gì chăng nữa tuy bê ngoài có tạo ra dáng vẻ mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát “đầu không ngoảnh lại” nhưng từ trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tràn đầy lưu luyến, nhớ thương, vẫn nhận ra rất rõ những gì của Hà Nội ở phía sau: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy .
Câu thơ có cả chất nhạc, có cả chất họa trong cái rơi đầy của nắng, lá. Phải chăng đó là điều đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội? Màu vàng của nắng quyện vào màu vàng của lá tạo nên một khung cảnh tràn đầy sắc vàng, xua đi cái “chớm lạnh” của “hơi may”. Khung cảnh ấy làm nền cho tâm trạng ấy mới thật hợp. Dường như không gian và thời gian đã có sự biến đổi, cái lắng lại dịu dàng của màu tím Hà Nội rất phù hợp với tiếng lòng thi sĩ, phù hợp với tâm trạng người ra đi.
Đất nước gây ấn tượng sâu sắc bởi chất chứa tình kết hợp với chất chính luận, bởi hình thức câu thơ linh hoạt, nhịp thơ phóng khoáng, hình ảnh thơ đẹp đẽ, chọn lọc, ngôn ngữ thơ cô đọng mà gợi cảm. Những ấn tượng sâu sắc, rõ nét hơn cả là bài thơ đã tạo dựng thành công một tượng đài hùng vĩ bằng thơ về Đất nước, Tổ quốc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì gian khổ nhưng anh dũng và tất thắng.
Câu 4
Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm Hồi trống Cổ Thành (La Quán Trung). (10 mẫu)
Lời giải
Dàn ý
I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả La Quán Trung và tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa
- Giới thiệu khái quát về đoạn trích Hồi trống cổ thành
II. Thân bài:
1. Trương Phi và những hiểu lầm đối với Quan Công
a. Phản ứng của Trương Phi khi nghe xong lời của Tôn Càn:
- Chẳng nói chẳng rằng lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa.
- Dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa Bắc.
⇒ Hành động bột phát, trong tâm thế chiến đấu với kẻ thù.
b. Khi Trương Phi gặp Quan Công:
- Trương phi:
- Diện mạo: mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược.
- Hành động: hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công.
- Xưng hô: mày – tao.
- Lập luận buộc tội Quan Công.
- Nguyên nhân: Trương Phi hiểu lầm Quan Công đã phản bội lại mình.
⇒ Trương phi là người ngay thẳng, cứng cỏi, không dung thứ cho kẻ hai lòng.
- Quan Công:
- Gọi Trương Phi là “hiền đệ”, “em”.
- Lời lẽ mềm mỏng.
- Nhờ hai chị dâu giải thích hộ.
2. Sự xuất hiện của Sái Dương, giải hiềm nghi và hai anh em đoàn tụ
- Ý nghĩa việc xuất hiện của Sái Dương:
- Đẩy mâu thuẫn của hai anh em lên đến cao trào.
- Là mở nút để minh oan cho Quan Công.
- Trương Phi khi thấy Sái Dương xuất hiện:
- Suy nghĩ: Nghĩ Quan Công đem quân đến bắt mình.
- Hành động: Múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công.
- Yêu cầu: Đánh ba hồi trống để Quan Công chém chết tướng giặc thể hiện lòng thành, thẳng tay đánh trống để thách thức Quan Công.
⇒ Thái độ dứt khoát, kiên quyết của con người ngay thẳng.
⇒ Quan Công chấp nhận thử thách.
- Quan Công giết Sái Dương khi chưa hết một hồi trống:
+ Thái độ, hành động của Trương Phi: rỏ nước mắt, thụp lạy Quan Công.
⇒ Thái độ bao dung, phục thiện đúng lúc.
⇒ Trương Phi là con người giàu tình cảm, nóng nảy, thô lỗ nhưng khôn ngoan và biết trọng lẽ phải.
3. Ý nghĩa của hồi trống cổ thành
- Hồi trống thách thức, minh oan, đoàn tụ của các anh hùng.
- Biểu dương tính cương trực của Trương Phi.
- Ca ngợi lòng trung nghĩa của Quan Công.
III. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 1
Là tác phẩm tiểu thuyết viết theo lối chương hồi, "Tam quốc diễn nghĩa" - một tác phẩm văn học viết về đề tài lịch sử, xã hội Trung Quốc thời kì cát cứ phân tranh, chiến tranh liên miên, người dân trải qua nhiều đau khổ, mọi diễn biến của thời kì biến loạn đó được tác giả La Quán Trung tái hiện lại rõ nét qua tác phẩm giàu giá trị hiện thực. "Hồi trống cổ thành" là một trích đoạn tiêu biểu của tác phẩm "Tam quốc diễn nghĩa", đoạn trích tái hiện lại rõ nét chân dung của những con người nhân nghĩa Trương Phi, Vân Trường, đó chính là những con người đại diện cho lòng "trung", cho chữ "nghĩa" trong quan hệ vua tôi, huynh đệ.
Nếu trong nền văn học Việt Nam có tác phẩm chương hồi giàu giá trị lịch sử, giá trị thời đại là "Hoàng Lê nhất thống chí" của các tác giả Ngô Gia Văn Phái thì ở một nền văn học lớn như Trung Hoa cũng không thiếu những tác phẩm lớn của các tác giả tài ba, trong số các tác phẩm lịch sử đó, nổi bật lên hẳng chính là tác phẩm "Tam Quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung, cả một giai đoạn dài nhiều thăng trầm, với sự đổi thay của biết bao nhiêu thời đại đều được tái giả khắc họa lại trong tác phẩm của mình. Trở lại với trích đoạn "Hồi trống cổ thành", như đã nói, tác phẩm này đề cập đến lòng chung nghĩa, tình cảm huynh đệ giữa hai nhân vật chính là Trương Phi và Quan Vân Trường, và đặc biệt, tình cảm ấy còn được đặt trong một tình huống éo le, gây cho các nhân vật nhiều sự đấu tranh, giằng xé để có được quyết định cuối cùng giữa chữ trung và chữ nghĩa.
Theo dõi "Tam quốc diễn nghĩa" nói chung, trích đoạn "Hồi trống cổ thành" nói riêng ta có thể thấy cả Quan Vân Trường và Trương Phi đều là những vị tướng tài giỏi, những người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất. Là những con người tiêu biểu đại diện cho chữ "dũng". Nói qua như vậy để ta hiểu hơn về tính cách, con người của những nhân vật này, họ là những người thà chết chứ không chịu nhục, thà mất đi mạng sống chứ không chịu phản bội lại chủ. Nhưng ở đây, để thửu thách tấm lòng trung nghĩa của hai nhân vật này, tác giả La Quán Trung đã đặt họ vào một tình huống ngặt nghèo, mà ở đó những phẩm chất, con người thật của mỗi người được bộc lộ một cách rõ nét.
Ba anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi ẩn náu dưới trướng của Tào Tháo, biết được Tào Tháo là một con người gian hùng nên họ đã tìm cách bỏ đi. Trên đường trốn chạy, tránh sự truy sát của Tào Tháo thì ba huynh đệ đã mỗi người một ngả. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mọi hiểu lầm sau này của hai huynh đệ Quan Công và Trương Phi. Vì phải dẫn theo hai chị dâu, vốn là hai bà vợ của Lưu Bị nên Quan Công không thể rút chạy an toàn mà bị Tào Tháo vây bắt. Vì biết Quan Công là một người tài hiếm có nên Tào Tháo không những không giết mà còn tìm mọi cách để Quan Công quy phục mình.
Nếu có một mình, thì dù phải hi sinh tính mạng thì Quan Công cũng không chịu hang Tào Tháo, nhưng vì đảm bảo sự an nguy cho hai người chị dâu, cực chẳng đã Quan Công đã phải tạm hang Tào Tháo, dù là tạm hang nhưng Quan Công cũng khẳng định mạnh mẽ, tuyên bố rõ rang việc mình hang ở đây không phải hang Tào Tháo mà là hang vua Hán, vì lúc này vua Hán đang bị Tào Tháo không chế. Quan Công đợi thời cơ, một khi có tin tức của anh mình, tức Lưu Bị thì sẽ lập tức đi ngay. Ta có thể thấy, Quan Công là một con người ngay thẳng, tuyệt đối trung thành với Lưu Bị, vì dù được Tào Tháo tìm mọi cách lấy lòng, "ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn, lại ban thưởng chức tước, vàng bạc, mĩ nữ…" nhưng Quan Công cũng không hề đái hoài, không bị tác động dù chỉ một chút "Thân tại Tào doanh, tâm tại Hán".
Nhân vật Quan Công còn hiện lên là một vị tướng kiêu hùng, dũng mãnh hơn người, vì khi đã nghe ngóng tin tức, xác định được vị trí của huynh đệ thì Quan Công lập tức lên đường, khi ấy các tướng dưới trướng của Tào Tháo ngăn cản thì Quan Công đã vung đao chém luôn sáu tướng, vượt được năm cửa quan để đến Cổ Thành gặp người huynh đệ Trương Phi. Hành động oai dũng ấy tuy đươc miêu tả qua một vài chi tiết ngắn gọn, nhưng ta cũng phải thấy được mức độ hiểm nguy, khó khăn của tình huống này, bởi Quan Công chỉ có một thân một mình, lại phải bảo vệ cho sự an nguy của các chị dâu thì việc chiến thắng tướng của Tào Tháo và qua các cửa quan là một việc hết sức phi thường.
Khi đến được Cổ Thành, Quan Công đã rất vui mừng khi sắp tới sẽ gặp được người em thân thiết Trương Phi, bởi Trương Phi không những trốn chạy thành công mà còn chiếm thành công Cổ Thành, nhưng niềm vui đoàn tụ ấy chưa kịp xảy ra thì một tình huống bất ngờ mà Quan Công không thể lường trước đã xảy ra, Trương Phi không những không chào đón mình bằng cái ôm nồng nhiệt của huynh đệ mà tiếp đón bằng đao, vẻ mặt hung dữ như thể nghênh chiến kẻ thù "Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công". Vì không thể lường trước được tình huống này sẽ xảy ra nên Quan Công rất bất ngờ, vội tránh mũi mâu "Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa đào ru?"
Quan Công đã nhắc lại tình nghĩa huynh đệ với Trương Phi và hoài nghi về sự manh động của Trương Phi, ta có thể nhận thấy Quan Công là một con người điềm tĩnh, luôn bình tĩnh giải quyết mọi thứ, dù trong tình cảnh khó khăn, ngặt nghèo nhất. Dù Trương Phi một mực khẳng định Quan Công là kẻ phản bội thì sự điềm đạm trong khí chất đã giữ cho Quan Công sự bình tĩnh trước mọi việc mà rành rọi giải thích đầu đuôi mọi sự hiểu lầm. Và khi Trương Phi vẫn nhất quyết không chịu tin và muốn Quan Công chứng tỏ sự trong sạch bằng cách lấy đầu của tướng giặc qua ba hồi trống, dù khó khăn nhưng vì phẩm tiết ản thân, vì tình huynh đệ thì Quan Công vẫn chấp nhận. Và cuối cùng, sau khi chém chết tướng giặc thì Quan Công đã làm tỏ rạng mối hàm oan của Trương Phi đối với mình, tình huynh đệ gắn kết trở lại.
Nếu Quan Công là một con người điềm tĩnh, biết suy xét, nhận biết tình hình thì Trương Phi lại ngược lại, tuy là một người tướng giỏi nhưng Trương Phi tính tình lại nóng nảy, không nghe những lời giải thích, dù có lí, thuyết phục đến đâu. Vì vậy mà chỉ khi Quan Công giết chết được tên tướng giặc thì Trương Phi mới chấp nhận sự trong sạch của Quan Công, dù trước đó Quan Công có giải thích đến đâu, dù người chị dâu có làm chứng thì Trương Phi cũng một mực không nghe. Tuy nhiên, sự cố chấp này của Trương Phi cũng xuất phát từ chính tấm lòng trung thành với Lưu Bị, vì quá trọng chữ "trung" nên không cho phép sự phản bội, hai lòng làm hoen ố, ảnh hưởng. Ta cũng không thể phủ nhận được sự dũng mãnh, tài ba hơn người của Trương Phi, vì chỉ có dưới trướng khoảng hơn trăm người nhưng Trương Phi đã đoạt được Cổ Thành về tay và làm chủ nơi đây.
Đây không hề là việc đơn giản nếu như không muốn nói đây là một hành động quá sức phi thường. Là người trọng sự trung thành nên dù tình cảm huynh đệ có gắn bó nhưng một khi đã phản bội thì Trương Phi cũng kiên quyết chống lại đến cùng. Hành động ấy, suy nghĩ ấy rất đúng nếu như Quan Công là con người hai mặt thực sự. Nhưng ở đây sự thật không như những phán đoán mơ hồ của Trương Phi nên sự nông nổi, cứng nhắc của anh ta khiến cho hành động nhân vật này trở nên mù quáng. Tuy nhiên, Trương phi cũng là người biết hối lối khi nhận ra những sai lầm của mình, khi iết Quan Công không hề phản bội thì Trương Phi đã tạ lỗi, khóc lóc, quỳ lạy Quan Công để hối lỗi "..nhỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường…"
Như vậy, đoạn trích "Hồi trống cổ thành" đã khắc họa thành công và chân thực hình ảnh của hai người anh hùng trong Tam Quốc chí, là Trương Phi và Quan Công. Tuy có những đối lập về tính cách, một người điềm tĩnh, một người nóng nảy, bộc trực nhưng cả hai đều có điểm chung đó chính là một lòng chung thành, coi trọng tình nghĩa huynh đệ, đều là những tướng lĩnh tài giỏi, dũng mãnh. Và hơn hết, cả hai người anh hùng này đều là đại diện cho chữ "dũng", là những nhân tố tạo nên sức mạnh cho Lưu Bị.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 2
“Tam quốc diễn nghĩa” được coi là một trong bốn tác phẩm cổ điển nổi tiếng nhất Trung Quốc. Tác phẩm gây ấn tượng với người đọc bởi “tuyệt nhân” – Lưu Bị, “tuyệt trí” – Khổng Minh, “tuyệt gian” – Tào Tháo. Trích đoạn “Hồi trống Cổ Thành” đặc biệt làm nổi bật vẻ đẹp và phẩm chất tuyệt nghĩa của Trương Phi, đồng thời qua đó, ta cũng thấy ý nghĩa của vấn đề “trung thành hay phản bội” được đặt ra trong đoạn trích.
Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nằm giữa hồi thứ 28 của bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, kể về việc Trương Phi gặp lại Quan Công sau bao ngày xa cách nhưng với thái độ tức giận, đòi đâm Vân Trường. Dù Quan Công ra sức giải thích, mọi người can ngăn, Trương Phi lại càng tức giận. Thậm chí, khi quân mã của Tào Tháo đến, lửa giận lại càng bừng lên dữ dội. Chỉ đến khi Quan Công lấy đầu Sái Dương – tướng của Tào Tháo sau một hồi trống thì Trương Phi mới nguôi giận. Khi nghe tên lính kể chuyện thực hư, Trương Phi mới tin, khóc lóc thụp lạy Vân Trường.
Trước tiên, đoạn trích khắc họa cảnh gặp mặt và mâu thuẫn giữa Trương Phi và Quan Công. Lúc này, vẻ đẹp của hai nhân vật thể hiện qua việc nghe tin báo. Quan Công khi nghe tin em thì mừng rỡ vô cùng, nôn nóng muốn gặp mặt và tin tưởng Trương Phi sẽ mừng rỡ đón mình. Qua đó, nhân vật toát lên vẻ đẹp là một người giàu lòng trung nghĩa, giàu tình nghĩa và biết nghĩ cho mọi người. Trái với Quan Công, Trương Phi nghe tin Quan Công đến bèn “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác xà mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân” chạy lại đâm Quan Công. Hành động dứt khoát, quyết liệt ấy khẳng định vẻ đẹp cương trực, khảng khái, trắng đen rõ ràng của Trương Phi.
Vẻ đẹp của hai nhân vật còn toát lên khi cả hai gặp mặt. Quan Công khi mới gặp Trương Phi vội tránh mũi mâu, nhắc lại tình nghĩa vườn đào và ra sức thanh minh cho bản thân mình: “Chuyện này em cũng không biết, ta cũng khó nói. May có hai chị ở đây, em đến mà hỏi”. Lời nói dứt khoát cùng hành động từ tốn, điềm đạm ấy chứng minh Quan Công là một người kiên nhẫn, nhẹ nhàng dù rơi vào tình huống khó xử. Trái lại, Trương Phi khi vừa gặp Quan Công bèn quát mắng, nổi giận đùng đùng cho Quan Công là kẻ bội nghĩa, thậm chí không nghe những lời khuyên can của mọi người, lời thanh minh của Quan Công. Qua đó, vẻ nóng nảy, cương trực của con người tuyệt nghĩa đã được đề cao.
Chi tiết Hồi trống hóa giải mâu thuẫn của cả hai càng tô đậm vẻ đẹp của hai nhân vật. Khi nhìn thấy quân mã của Tào Tháo kéo đến, Quan Công đưa ra gợi ý chém tên tướng Sái Dương để tỏ lòng. Dường như tấm lòng trung nghĩa, trước sau như một ấy nhất quát với tính cách điềm đạm của Quan Công. Trương Phi đưa ra lời thách đố khi đánh ba hồi trống, Quan Công phải chém đầu tên tướng giặc. Trong khi Trương Phi đánh trống, Quan Công múa đao xô lại, hành động dứt khoát chém đầu Sái Dương.
Có thể nói, chi tiết hồi trống Cổ Thành đã giải quyết mâu thuẫn một cách chóng vánh, đồng thời khắc sâu và làm nổi bật tấm lòng trung nghĩa của Quan Công, vẻ thẳng thắn mạnh mẽ của Trương Phi. Hồi trống cũng đem lại không khí chiến trận đặc trưng, mọi mâu thuẫn đều được giải quyết bằng đường gươm, mũi giáo trong không khí thúc giục, binh mã ngập trời. Chi tiết này cũng thể hiện thủ pháp phóng đại, cường điệu đặc trưng trong tiểu thuyết chương hồi. Có thể nói, qua đoạn trích “Hồi trống Cổ Thành”, vẻ đẹp trung nghĩa của Quan Công và vẻ thẳng thắn của Trương Phi được tái hiện một cách chân thực.
Tình anh em với quan niệm tín nghĩa, chân thành cùng lối ứng xử của người quân tử được gửi gắm qua tác phẩm là bài học không bao giờ cũ dành cho mỗi chúng ta.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 3
La Quán Trung là người đầu tiên đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử thời Minh - Thanh ở Trung Quốc, ông chuyên sưu tầm và biên soạn dã sử như Tam quốc diễn nghĩa, Bình yêu truyện, Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa… trong đó tam quốc diễn nghĩa có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam, nó phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa mà đường nét nổi bật là “cát cứ phân tranh”, cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh liên miên, nhân dân đói khổ, điêu linh. Trong một thời kì như vậy , nhân dân mong muốn hòa bình, ổn định, thống nhất. Đoạn trích “Hồi trống cổ thành” thuộc hồi 28 nói lên việc tranh quyền của ba tập đoàn phong kiến quân phiệt: Ngụy – Thục –Ngô và ý nghĩa sâu xa của hồi trống cổ thành.
Hồi trống cổ thành có bố cục khá chặt chẽ gồm sáu phần gồm trình bày, mở mối, phát triển, đỉnh điểm, mở nút và kết thúc.
Mở đầu đoạn trích “từ đầu… bảo Trương Phi ra đón hai chị”. Quan Công vì phải hộ tống hai chị dâu nên tạm hàng Tào với điều kiện chỉ hàng Hán chứ không hàng Tào. Khi nghe tin Lưu Bị đang ở bên Viên Thiệu lập tức trả hết ấn tín, vàng bạc châu báu, lên ngựa đi tìm anh. Trên đường đi nghe ngóng được tin Trương Phi đang nắm giữ Cổ Thành, quân đội hùng mạnh, lương thực rồi rào, Quan Công được tin hay vui mừng khôn xiết, không ngờ anh em thất lạc nay lại tìm thấy nhau ở đây, sai người đi báo tin cho Trương Phi để anh em đoàn tụ và đón hai chị về.
Trương Phi là người nóng nảy, thẳng thắn như tên bắn, mạnh mẽ, nói chuyện với kẻ thù bằng gươm giáo, trắng đen phải rõ ràng, không chấp nhận sự quanh co, lắt léo phức tạp. Vì vậy mà sau khi Tôn Càn vào chào hỏi, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp vác vâu lên ngựa dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa Bắc. Hành động vô cùng giận dữ “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công” vì Phi tưởng Quan Công phản bội, đầu hàng Tào Tháo cầu vinh. Lời nói hầm hầm “Mày đã bội nghĩa, còn mặt nào đến gặp tao nữa?” Phi rất tức giận và lòng hận thù dâng ngùn ngụt như lửa. Quan Công vui mừng vô cùng cứ tưởng đoàn tụ vui vẻ ai ngờ mọi chuyện lại như thế. Quan bình tĩnh hỏi lại Trương Phi, Phi càng bốc hỏa lên mà quát rằng “Mày bỏ anh em, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước, nay lại đến đây đánh lừa tao!” và quyết liều sống chết phải giết được Quan Công cho hả giận.
Quan Công không thể giải thích được, bèn nhờ hai chị dâu, nhưng Phi bỏ ngoài tai mọi lời can gián. Hai chị dâu kể lại việc Quan Công nương nhờ bên Tào là bất đắc dĩ, đã không ngại hiểm trở, đưa hai chị tới đây bình an, khuyên Phi không được nghĩ lầm như thế , Trương Phi phớt lờ và nêu ra đạo lí với hai chị “Hai chị bị lừa dối đấy”, bề tôi trung có chết cũng không chịu nhục, người đàn ông tài năng lại thờ hai chủ. Quan Công đau lòng thanh minh với đệ của mình, nhưng chỉ chút thêm dầu vào lửa. Tôn Càn thấy vậy cũng can ngăn Trương Phi, bị Trương Phi mắng mỏ : “mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây tất là để bắt ta đó.” Qua đó càng nổi bật lên con người nóng nảy nhưng rất cương trực, trung nghĩa và vô cùng cẩn thận cảnh giác. Quan Công bình tĩnh thuyết phục Trương Phi, nhưng Trương Phi phát hiện ra quân lính phía xa đã hăm hở xông lại đâm Quan Công. Lúc này Phi đang rất tức giận, không gì có thể ngăn cản được, Quan Công cảm nhận được sự tức giận của hiền đệ nên đã nói là chém đầu tên tướng giặc cho Trương Phi. Phi ra điều kiện là đánh xong ba hồi trống phải chặt được đầu giặc không thì mạng khó giữ, Trương Phi thẳng tay đánh trống. Trong con người Trương Phi toát ra sự thẳng thắn, quyết liệt, mạnh mẽ, dứt khoát, muốn biết rõ trắng đen như thế nào. Chưa hết một hồi trống thì đầu Sái Dương đã rơi dưới đất. Trương Phi lúc này chưa tin, bắt tên lính hỏi cho thật kỹ rồi mới tin vô cùng thận trọng và khôn ngoan. Vào thành nghe hai chị kể lại chuyện Quan Công, Trương Phi khóc, quỳ lạy anh mình mong anh mình bỏ qua mọi chuyện. Con người Trương Phi tuy nóng nảy, thô lỗ nhưng cương trực, trung nghĩa, thẳng thắn, đó là một phẩm chất tốt đẹp. Quan Công tuy là vai phụ nhưng đã hiện ra người hùng dũng, giàu nghĩa khí, tấm lòng son sắt. Nỗi oan của Quan Công là nỗi oan đặc biệt, ông làm vì chủ tướng nhưng công việc ấy trái với khí phách của kẻ anh hùng, phải tự minh oan bằng tài nghệ và sự dũng cảm của chính mình.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 4
Trong dòng lịch sử Trung Quốc có bốn tác phẩm lớn đã làm nên tứ đại danh tác của dòng văn học Trung Hoa bao gồm Tây Du kí, Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử và Tam Quốc Diễn Nghĩa. Trong số đó, Tam Quốc Diễn Nghĩa là tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến văn hóa và quân sự của Việt Nam ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới.
Tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa ra đời vào đầu thời Minh, ra đời trong âm hưởng của cuộc chiến đấu chống lại sự thống trị xưng bá của Mông Nguyên để khôi phục nhà Hán. Tác phẩm được sáng tác dựa một phần vào lịch sử và những truyện kịch dân gian.
Tam Quốc Diễn Nghĩa là một tiểu thuyết chương hồi bao gồm một trăm hai mươi hồi, kể lại quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của ba triều đại phong kiến Trung Hoa là Ngụy, Thục, Ngô đồng thời thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân.
Cuốn tiểu thuyết của tác giả La Quán Trung về tư tưởng đã vạch trần được bản chất tàn bạo, xấu xa, giả dối của giai cấp thống trị xã hội, phơi bày cục diện chính trị của Trung Hoa thời kỳ "cát cứ phân tranh" khi mà chiến tranh liên miên, người dân loạn lạc. Nó còn phơi bày cuộc sống đầy bất trắc, bi thảm, loạn li của người dân trong xã hội đó đồng thời thể hiện ước mơ về một đất nước yên bình, thịnh trị với vua hiền, tướng giỏi của nhân dân. Đó là khát vọng hòa bình, thống nhất, một nền hòa bình nhân đạo mà tác giả La Quán Trung cũng như muôn dân muốn gửi gắm.
Về phần nghệ thuật, Tam Quốc Diễn Nghĩa mang giá trị không chỉ về lịch sử mà còn về mảng quân sự. Cùng với đó là nghệ thuật kể chuyện vô cùng hấp dẫn, lôi cuốn của tác giả khiến người đọc say mê từ chương này qua hồi khác, đặc biệt phải kể tới phần miêu tả các trận đánh cực kì sinh động. Cuốn tiểu thuyết với lượng nhân vật đồ sộ và mỗi nhân vật chính đều có nét cá tính riêng biệt, sinh động. Tác giả cũng đặt ra những mâu thuẫn gay gắt trong từng chương hồi, dùng chính mâu thuẫn để giải quyết từng mâu thuẫn.
Đoạn trích Hồi trống Cổ thành là nửa sau hồi thứ hai mươi tám của tác phẩm khi mà Quan Công đưa hai người chị dâu của mình sang Nhữ Nam, đến Cổ thành thì gặp Trương Phi. Việc Quan Công hàng Tào Tháo để bảo vệ hai người chị đã bị người em hiểu nhầm là sự bội nghĩa, một hai đòi giết chết Quan Công mà không chịu nghe ai khuyên can. Để chứng minh lòng trung trong sạch của mình, Quan Công đã ngỏ ý chém đầu Sái Dương (tên tướng của Tào Tháo) trong ba hồi trống của Trương Phi. Chưa dứt hồi đầu, đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Đến lúc đó, Trương Phi mới cởi bỏ được mối nghi ngờ với Quan Công, nghe kể lại sự việc, nhỏ nước mắt mà thụp lạy Quan Công.
Hồi trống Cổ thành là linh hồn của hồi thứ hai mươi tám, là hồi trống của sự đoàn tụ, minh oan, của sự trung thành. Nó còn biểu dương sự trung thành trung nghĩa của hai người anh hùng Quan Công và Trương Phi.
Đoạn trích mở ra bằng cảnh gặp gỡ của hai anh em Quan Công và Trương Phi. Muốn đến được Nhữ Nam đoàn tụ với Lưu Bị, Quan Công buộc phải đưa hai người chị của mình qua Cổ thành, đến đây thì bất chợt nghe tin Trương Phi đang có mặt tại đây. Vui mừng khôn xiết, Quan Công cho mời Trương Phi ra trước cổng thành. Thế nhưng, nhận lại chỉ là sự đối mặt giữa hai người và một ngàn binh lính phía sau Trương Phi. Nguyên cớ bởi vì Trương Phi cho rằng Quan Công đã hàng Tào Tháo mà phản bội ơn nghĩa vườn đào của ba anh em. Là một người có tính cách nóng nảy, bộc trực, thẳng tính, dứt khoát và cương trực, Trương Phi vừa hay tin đã nổi giận đùng đùng. Trái lại Quan Công lại là một người biết từ tốn, khoan dung và cẩn trọng, tuy thế cả hai đều là những người anh hùng trung nghĩa.
Ở đây, tác giả đã xây dựng lên cuộc đối mặt vô cùng kịch tính với hai nhân vật có nét tính cách trái ngược hoàn toàn nhau. Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật ở đây vô cùng xuất sắc, qua đó mà La Quán Trung đã bộc lộ được cá tính cũng như làm rõ thêm những mâu thuẫn trong câu chuyện.
Đầu tiên phải kể tới là nhân vật Trương Phi. Ấn tượng đầu tiên đến với người đọc là một Trương Phi cực kì nóng nảy, uất hận, dứt khoát. Khi nghe tin người anh của mình đã hàng Tào, một hai đòi giết chết cho hả giận. Thế nhưng cũng là Trương Phi ấy khi nghe được đầu đuôi câu chuyện đã nhỏ lệ mà thụp xuống lạy Quan Công, một con người vô cùng giàu tình cảm.
La Quán Trung không đưa ra những lời nhận xét trực tiếp về từng con người trong câu chuyện mà ông lại dùng những cử chỉ, những nét tính cách riêng biệt, những hành động và đặt vào trong mối quan hệ với nhân vật khác để nhân vật chính tự bộc lộ nét tính cách của mình. Với Trương Phi, ông để nhân vật đưa ra hành động vô cùng quyết liệt "Trương Phi mắt tròn xoe, râu vểnh ngược, hò thét như sấm. múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công", cùng với đó là những lời nói vô cùng tức giận: "hầm hầm quát;" Mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa?". Hành động và ngôn từ của Trương Phi hết sức bộc trực, nóng nảy, biểu lộ cho một cá tính cực kì nóng nảy, dứt khoát và cương trực của bậc đại trượng phu.
Trong mối quan hệ với các nhân vật khác, mặc dù được Tôn Càn cùng hai người chị dâu ra sức thanh minh cho Quan Công, nhưng Trương Phi không hề thay đổi ý định của mình. Qua đó có thể thấy, hành động đối đầu của Trương Phi khi gặp Quan Công ở Cổ thành là một hành động đã được suy nghĩ cẩn trọng, không phải là hành động bộc phát trong lúc nóng giận. Bởi xưa nay, lời thề trung nghĩa của những bậc trượng phu vô cùng thiêng liêng, nếu vi phạm thì chỉ có cái chết mới có thể bù đắp nổi.
La Quán Trung đã đặt Trương Phi vào một tình huống vô cùng kịch tính nhằm bộc lộ tính cách của nhân vật, đồng thời sử dụng phương pháp miêu tả trái ngược, một Trương Phi tuy nóng nảy, bộc trực nhưng lại cực kì trọng tình cảm, tình nghĩa huynh đệ.
Đối mặt với Trương Phi là Quan Công, tác giả đã đặt nhân vật này vào trong một tình huống hết sức kịch tính khi bị nghi ngờ trở thành kẻ phản bội anh em của mình. Cũng như Trương Phi, Quan Công được tác giả miêu tả thông qua những hành động, cử chỉ của mình. Với bút pháp miêu tả cổ điển, tác giả đã dựng lên điển hình của người trượng phu trượng nghĩa.
Đoạn trích Hồi trống Cổ thành được xây dựng với một kết cấu hoàn chỉnh, có mở đầu, phát triển sự việc, với nút thắt được hình thành và mở nút một cách triệt để. Nếu như mở đầu là hình ảnh Quan Công đến Cổ thành và gọi Trương Phi ra đón thì cách triển khai câu chuyện là khi mâu thuẫn nảy sinh giữa hai anh em. Những xung đột kịch tính diễn ra giữa Quan Công và Trương Phi được mở ra với nguyên do Trương Phi vô cùng tức giận với Quan Công vì cho rằng Quan Công đã bội nghĩa, phản bội huynh đệ đi theo kẻ thù, bất trung bất nghĩa. Thế nhưng Trương Phi đâu biết rằng mọi nước đi của Quan Công đều vì bảo hộ hai người chị dâu yếu đuối nên mới trái lời thề, với khí phách anh hùng của mình.
Xung đột được phát triển liên tục một cách hết sức logic. Trước khi gặp mặt, nếu như Trương Phi vừa nghe tin Quan Công tới đã không nói năng gì mà chỉ “mặc áo giáp, vác mau lên ngựa, dẫn quân ra cửa bắc”, “mặt trợn tròn, râu hùm vểnh ngược, hò hét, múa mâu đòi đâm Quan Công”, một tâm trạng hết sức kích động, cực kì giận dữ tới sục sôi thì Quan Công lại hoàn toàn trái ngược.
Không hề biết rằng người em kết nghĩa đang vô cùng giận dữ với mình, Quan Công khi gặp mặt Trương Phi thì vô cùng mừng rỡ, “giao long đao cho Chiêu Thương cầm, tế ngựa lại đón”. Đến khi thấy người em cầm mâu đâm thẳng về phía mình, Quan Công mới giật mình vừa tránh mũi mâu vừa nhắc hỏi em rằng tại sao làm vậy “hiền đệ cớ làm sao, há quên nghĩa vườn đào ru?”. Thái độ của Quan Công vừa hết sức điềm tĩnh, lại hết sức mềm mỏng, nhượng bộ. Trong khi Trương Phi tức giận xưng hô mày – tao, mắng anh rằng “mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao?”, khẳng định hai người chị dâu bị lừa, Trương Phi cho rằng đã là người trung nghĩa thì phải trung thành, “thà chết chứ không chịu nhục”. Trương Phi - một con người chính trực có cái nhìn rất rõ ràng về chữ trung, chính vì vậy khi Tôn Càn cất lời bênh vực Quan Công thì Trương Phi đã mắng rằng “mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó đến đây dễ bắt ta đó”. Bộc lộ cho người ta thấy một vị tướng quân vô cùng dũng mãnh nhưng cũng vô cùng nóng nảy, cương trực, có phần thô lỗ nữa. Trái lại, Quan Công lại vô cùng điềm tĩnh, nói với Trương Phi bằng những lời lẽ vô cùng nhẹ nhàng, thái độ khuyên bảo, nói câu nào cũng xưng là hiền đệ, hơn thế, Quan Công còn cầu cứu hai người chị dâu, dùng lời của hai người chị mà thanh minh với người em của mình “hiền đệ nói vậy thì oan uổng cho ta quá”, “nếu ta đến bắt em tất phải mang theo quân mã chứ?”. Từng lời nói vô cùng nhẫn nại giải thích, dù rằng Quan Công đang trong tình thế vô cùng ngặt nghèo nhưng vẫn luôn điềm tĩnh, khoan dung mà giải quyết vấn đề.
Thế nhưng, mối mâu thuẫn giữa hai anh em còn chưa sáng tỏ thì nút thắt của câu chuyện lại được tác giả buộc chặt hơn nữa bằng sự kiện Sái Dương đem theo quân mã đến Cổ thành. Chính sự việc này tuy ngẫu nhiên mà lại vô cùng hợp lý đã đẩy mâu thuẫn, mối nghi ngờ của Trương Phi với Quan Công lên tột đỉnh gay gắt, buộc phải giải quyết vấn đề bằng hành động.
Chính trong lúc này, Quan Công đã mở lời với người em kết nghĩa vườn đào rằng “hiền đệ hãy khoan, xem ta chém tên tướng ấy, để tỏ lòng thực của ta”. Một lời nói thốt ra vừa tỏ lòng trung nghĩa, vừa giãi bày nỗi oan khiên của mình. Thế nhưng, Trương Phi lại không dễ dàng để Quan Công thực hiện nhiệm vụ của mình, Trương Phi đã thẳng thắn bắt Quan Công phải chém đầu Sái Dương chỉ trong vòng ba hồi trống. Không những vậy, Trương Phi còn thẳng tay đánh trống, không chút chần chừ, bởi lẽ hắn đã quyết tìm ra sự thật và lẽ phải, cái mong muốn ấy thôi thúc hắn muốn biết được sớm nhất. Giờ đây, nhiệm vụ này không còn là một nhiệm vụ bình thường nữa mà trở nên vô cùng khó khăn, đầy nguy hiểm. Vậy nhưng, Quan Công để chứng minh cho lòng thành của mình đã không ngần ngại nhận lời, và quả đúng là người anh hùng dũng mãnh, hồi trống đầu tiên còn chưa dứt, đầu Sái Dương đã rơi. Quan Vũ quả không hổ danh là một bậc tướng quân đầy oai phong, tài giỏi.
Thử thách qua đi, Trương Phi mới phần nào bình tâm lại, suy nghĩ mọi vấn đề của câu chuyện, hỏi kĩ tên lính cùng hai người chị dâu của mình, lúc bấy giờ, hắn mới thực tin Quan Vũ, “rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường”. Có thể nói, Trương Phi là một người tướng dũng mãnh, nóng nảy, nhưng lại cương trực, hắn biết nhận ra sai lầm, biết sửa sai và phục thiện. Còn Quan Vũ đã chứng tỏ mình là một bậc đại trượng phu không chỉ có tài năng hơn người mà khí phách cũng vô cùng bất khuất.
Hồi trống Cổ thành kết thúc nhưng dư âm trong lòng người đọc chúng ta còn lại vô cùng mạnh mẽ. Hồi trống vang lên trong lòng Cổ thành như tiếng trống của sự thử thách tấm lòng trung kiên, sự minh oan và sự đoàn tụ. Đặt tên là Hồi trống Cổ thành vừa gợi lên không khí trận mạc, gợi lên mâu thuẫn giữa hai người anh em Trương Phi và Quan Công, giữa Quan Công và Sái Dương, đó là những mâu thuẫn vừa gay gắt, vừa là điểm chính, là nút thắt đẩy câu chuyện lên cao trào. Hồi trống ấy gióng lên với điều kiện của Trương Phi, vừa là quan tòa phán xét Quan Vũ, buộc Quan Vũ phải chém đầu Sái Dương trong thời gian nhanh nhất, nó cũng thúc đẩy khát vọng minh oan của Quan Vũ và khiến hắn có thêm sức mạnh để tỏ bày tấm lòng của mình. Cuối cùng, hồi trống đó là không khí hào hùng của chiến trận, thúc giục tinh thần, sĩ khí chiến đấu, vừa ngợi ca khí phách của những người anh hùng, ca ngợi sự chiến thắng, niềm tin vào họ.
Về phần nghệ thuật, La Quán Trung đã vô cùng xuất sắc khi xây dựng lên những hình tượng nhân vật điển hình, mang tính biểu tượng vô cùng lớn. Ông cũng không trực tiếp bộc lộ tính cách nhân vật mà xây dựng nó qua cử chỉ, lời nói, hành động của từng người. Nghệ thuật kể chuyện theo tiểu thuyết chương hồi được tác giả sử dụng triệt để, xây dựng tình huống truyện với những xung đột kịch tính, tạo nên sức hấp dẫn vô cùng lớn cho người đọc.
Đoạn trích Hồi trống Cổ thành đem lại cho người đọc chúng ta thật nhiều cảm xúc. Không chỉ là sự hồi hộp chờ đợi sự minh oan của Quan Công, những hành động của Trương Phi mà còn cho chúng ta những âm hưởng của tình nghĩa huynh đệ gắn kết. Tam Quốc Diễn Nghĩa nói chung và đoạn trích Hồi trống Cổ thành nói riêng quả thực là tác phẩm vô cùng xuất sắc, xứng đáng là một trong tứ đại danh tác nổi tiếng nhất của Trung Hoa.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 5
Hồi trống Cổ Thành là tên do người biên soạn đặt cho đoạn trích ngắn ở giữa hồi 28, có hai câu thơ làm tiêu đề:
Chém Sái Dương anh em hòa giải,
Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên.
Chữ "hồi" trong câu thơ này có nghĩa là trở về, chứ không phải là hồi trống như trông tên đoạn trích.Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung có nhiều nhân vật, nhưng sinh động nhất, gây ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Tào Tháo, Khổng Minh, Quan Công và Trương Phi.
Lúc mới dựng nghiệp, nhà Thục còn yếu, trong khi quân Tào rất mạnh, vì thế nên quân Thục thua liên tiếp. Lưu Bị cùng Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Quan Công, Trương Phi bàn mưu kế chống lại Tào Tháo. Bị bại lộ, Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi kéo hai mươi vạn quân đánh Lưu Bị. Ba anh em Lưu, Quan, Trương thua trận, mỗi người chạy một ngả. Lưu Bị chạy sang Nhữ Nam ở nhờ Viên Thiệu, Quan Công bị khốn ở Thổ Sơn, Trương Phi tá túc ở Cổ Thành. Trong lúc hoạn nạn, Quan Công theo lời Trương Liêu đưa hai người vợ của Lưu Bị là Cam phu nhân và Mi phu nhân sang ở nhờ Tào Tháo. Tạm hàng Tào Tháo nhưng Quan Công ra điều kiện rằng nếu biết Lưu Bị ở đâu thì sẽ đi tìm ngay.
Biết tin Lưu Bị đang ở trên đất Viên Thiệu, Quan Công đưa hai chị dâu đi tìm. Tào Tháo vì muốn lưu giữ Quan Công để dùng nên không cấp giấy qua ải, nhưng cũng không sai tướng đuổi bắt. Các tướng của Tào Tháo không cho Quan Công qua ải nên ông phải mở đường máu mà đi: Quan Công đã phải chém sáu tướng Tào để vượt qua năm cửa ải: Qua ải Đông Lĩnh chém Khổng Tú. Đến ải Lạc Dương chém Hán Phúc và Mạnh Thần. Qua Nghi Thủy giết Biện Hỷ. Vượt ải Huỳnh Dương chém Vương Thực. Đến bờ Hoàng Hà giết Tần Kỳ.
Đoạn trích kể về cuộc "đụng độ" đặc biệt giữa hai anh em kết nghĩa là Quan Công và Trương Phi ở cổ Thành.
Trên đường sang Nhữ Nam tìm Lưu Bị, đến cổ Thành, Quan Công hỏi thăm được biết Trương Phi đang ở đấy nên xiết bao vui mừng. Trương Phi vốn nghi ngờ Quan Công ăn ở hai lòng đã lầm tưởng là Quan Công lừa mình để bắt nộp cho Tào Tháo nên giận dữ không thèm tiếp, đã thế còn sỉ mắng và dọa đánh. Ngẫu nhiên, lúc đó tướng Tào là Sái Dương dẫn quân ầm ầm kéo đến khiến Trương Phi càng khẳng định thêm nghi ngờ của mình là đúng. Thanh minh không được, Quan Công hứa sẽ chém đầu tướng Tào để tỏ lòng thành. Trương Phi ra điều kiện sau ba hồi trống, Quan Công phải chém rơi đầu tướng Tào thì mới tin. Nhưng Trương Phi vừa đánh dứt một hồi trống thì đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Trương Phi tạm nguôi giận nhưng chỉ sau khi nghe tên lính hầu của Sái Dương bị Quan Công bắt kể đầu đuôi mọi chuyện thì chàng mới tin, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường. Quan Công vào được Cổ Thành, "cửa ải thứ sáu" và cũng là cửa ải thử thách ghê gớm nhất đối với lòng trung nghĩa.
Đoạn trích Hồi trống cổ Thành rất giàu kịch tính, đậm không khí chiến trận và khí phách anh hùng. Lối kể chuyện của tác giả giản dị, không tô vẽ, không bình phẩm. Linh hồn đoạn trích kết tụ trong hồi trống của Trương Phi. Đó là hồi trống ra quân, cũng là hồi trống thu quân, hồi trống thách thức, giải oan và đoàn tụ. Chủ đề đoạn trích toát lên hai ý: Tính cách nóng nảy nhưng tuyệt vời trung nghĩa của Trương Phi và ý nghĩa sâu xa của hồi trống Cổ Thành.
Trương Phi là con người thẳng như làn tên bắn, sáng như tấm gương soi. Ông không chấp nhận sự quanh co, lắt léo. Đối với Trương Phi, đen trắng phải rõ ràng; với kẻ thù thì chỉ có thể nói chuyện bằng gươm giáo. Tính cách Trương Phi vốn dĩ là nóng nảy, bộc trực và đơn giản, song để xác định Quan Công trung thành hay phản bội, Trương Phi lại không đơn giản chút nào. Khi nghe tin Quan Công đến, Trương Phi giận dữ mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đầm Quan Công.
Câu hỏi của Quan Công: Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa vườn đào ư? làm cho Trương Phi bừng bừng nổi giận. Ý của Quan Công là muốn nhắc lại việc ba anh em kết nghĩa vườn đào để uốn nắn thái độ quá khích của Trương Phi, không ngờ lại như đổ thêm dầu vào lửa, càng làm cho Trương Phi thêm phẫn nộ. Theo Trương Phi, Quan Công ở chung với Tào Tháo một thời gian, nhận tước vị Tào Tháo phong cho đã là phản bội; đã phản bội mà còn dám động đến chuyện kết nghĩa vườn đào thì lại càng đáng căm thù và phỉ nhổ. Quan Công phản bội thì phải xử đúng như lời thề trước đây: Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời, người cũng giết. Những lời thanh minh cho Quan Công của hai chị dâu và Tôn Càn không làm dịu bớt cơn thịnh nộ của Trường Phi.
- Khoan đã chú Ba, khoan đã! Chớ hấp tấp mà làm càn bây giờ. Chú Hai không biết tin tức mọi người nên phải tạm nương mình bên Tào. Nay đã biết anh nhà ở Nhữ Nam, không ngại hiểm trở, đưa bọn ta đến đây. Chú không được nghĩ lầm như thế!
Mi phu nhân cũng nói: - Chú Hai trước ở Hứa Đô, thực là bất đắc dĩ.
Phi nói: - Hai chị bị lừa dối đấy. Trung thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?
Quan Công nói: - Hiền đệ đừng nói như vậy, oan uổng quá.
Tôn Càn cũng nói: - Vân Trường đến đây là cốt để tìm tướng quân.
Trương Phi mắng: - Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây tất là để bắt ta đó!
Tôn Càn bênh vực Quan Công không được mà Cam phu nhân, Mi phu nhân thanh minh hộ cũng vô hiệu. Với Trương Phi, dẫu có "trăm nghe" cũng không bằng "một thấy". Trước vấn đề trọng đại, Trương Phi đã hết sức cẩn trọng. Quan Công thanh minh: Nếu ta đến bắt em, tất phải đem theo quân mã chứ! Trương Phi trỏ tay đằng xa, nói: Không phải quân mã là gì kia? Sự hiểu lầm đã lên tới điểm đỉnh vì một chi tiết ngẫu nhiên : Lúc ấy, tình cờ tướng Tào là Sái Dương dẫn quân truy đuổi Quan Công đang tới gần. Để xoá bỏ mối nghi ngờ của Trương Phi, Quan Công chỉ có cách là chém đầu Sái Dương. Trương Phi ra điều kiện bất khả kháng là sau ba hồi trống, Quan Công phải chém rơi đầu tướng của Tào Tháo. Dứt lời, Trương Phi lập tức đánh trống. Bao nhiêu uất ức, căm giận của Trương Phi như dồn cả vào cánh tay thúc trống. Chỉ sau một hồi, đầu Sái Dương đã lăn dưới đất.
Tưởng thế là mọi việc đã rõ và câu chuyện nhanh chóng đi đến kết thúc, song thực tế lại diễn ra không đơn giản. Mãi đến khi nghe một tên lính bị bắt kể về lí do Sái Dương đến cổ Thành là để truy đuổi và trị tội Quan Công vì đã giết cháu ngoại hắn ; rồi Trương Phi còn hỏi kĩ việc ở Hứa Đô, bấy giờ Phi mới tin anh là thực. Tác giả vẫn chưa để Trương Phi vội biểu lộ rõ thái độ ngay lúc ấy mà cho tới lúc đã vào cổ Thành, nghe hai chị dâu kể lại những việc Quan Công đã trải qua thì Trương Phi nghe hết chuyện, "rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường".
Thô lỗ và tinh tế là hai nét tính cách đối lập song ở trong đoạn trích này, chúng lại xuất hiện trong cùng một nhân vật Trương Phi. Trong cuộc đời, Trương Phi đã từng dùng mưu mẹo tinh vi để bắt sống Lưu Đại, tướng giỏi của Tào Tháo và bắt sống Nghiêm Nhan ở đất Ba Thục mà không hề làm hao tổn một binh sĩ! Thô trung hữu tế (trong cái thô có cái tinh tế) là biện chứng của cuộc sống. Thô lỗ và tinh tế ở đây đều là biểu hiện lòng trung thành tuyệt đối của Trương Phi. Với Trương Phi, trong tình huống ở cổ Thành, việc hạ thủ Quan Công có lẽ còn dễ hơn, đơn giản hơn là kiểm nghiệm lòng trung thành của Quan Công. Cái khéo léo của tác giả là đã tạo ra những tình huống để cho cả hai nét trái ngược trong tính cách Trương Phi cùng bộc lộ vừa tự nhiên, vừa sinh động, hấp dẫn.
Trong đoạn trích Hồi trống cổ Thành, Quan Công tỏ ra rất độ lượng và từ tốn, thể hiện qua các chi tiết nổi bật như: sự hốt hoảng trước cách xử sự của Trương Phi, thái độ nhún mình thanh minh trước người em nóng nảy, cầu cứu hai chị dâu, chấp nhận điều kiện khắc nghiệt để minh oan. Nỗi oan của Quan Công cũng là nỗi oan đặc biệt: làm công việc vì chủ tướng nhưng lại trái với khí phách của kẻ anh hùng, phải tự minh oan bằng tài nghệ và lòng dũng cảm, phi thường.
Để đến được Cổ Thành, Quan Công đã phải vượt qua bao thử thách (năm cửa ải). Những kẻ cản đường trong hành trình gay go này là quân địch. Còn tại Cổ Thành, kẻ cản đường lại là anh em kết nghĩa. Chí với chiến công xuất sắc Chém đầu Sái Dương trong nháy mắt, vấn đề trung thành hay phản bội của Quan Công đã được làm sáng tỏ.
Điều thú vị là tác giả đã đặt Quan Công trong quan hệ đối sánh với Trương Phi. Người đời khen Quan Công "tuyệt nghĩa". Nhưng chữ "nghĩa" cũng có hai mặt: trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa là lòng trung thành với vua, với lý tưởng phò nhà Hán. Về mặt này, Quan Công tỏ ra kiên định. Tín nghĩa là lòng tin trong quan hệ giữa bạn bè, anh em, Quan Công cũng rất coi trọng. Đoạn trích có hai nhân vật, nhưng Quan Công chỉ là nhân vật làm nền để tính cách của Trương Phi nổi bật.
Cái tên Hồi trống cổ Thành rất hay vì trước hết, nó gợi lên không khí chiến trận. Ở đây không chỉ có mâu thuẫn chủ yếu giữa Trương Phi và Quan Công mà còn là mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương. Tuy đó chỉ là mâu thuẫn thứ yếu song nó cũng không kém phần căng thẳng và điều đáng nói hơn là nó đã làm cho mâu thuẫn chủ yếu thêm quyết liệt.
Ba hồi trống là điều kiện, hơn thế, là vị quan tòa nghiêm khắc có quyền phán xét Quan Công trung thành hay phản bội. Điều kiện ba hồi trống Trương Phi đặt ra là vô cùng khắc nghiệt: Quan Công không những chém được đầu Sái Dương mà còn phải chém được trong thời gian ngắn nhất. Mặt khác, Sái Dương là tướng giỏi của Tào Tháo đã từng công khai biểu thị thái độ không phục Quan Công, giờ lại mang quyết tâm trả thù rất cao cho cháu, đó cũng là thách thức to lớn với Quan Công. Nhưng lúc này, khát vọng minh oan đã làm tăng sức mạnh và tài nghệ siêu quần của Quan Công, cho nên Quan Công đã làm được một việc ngoài sức tưởng tượng của Trương Phi là chém rơi đầu Sái Dương trong giây lát.
Bởi vậy, Hồi trống cổ Thành dù mang đậm không khí trận mạc song rất khác tiếng trống trận thông thường. Nó đã trở thành một biểu tượng cho lòng trung nghĩa, tinh thần dũng cảm và tinh thần công minh chính trực.
Có thể coi Cổ Thành là cửa ải thứ sáu nhưng đó là cửa ải tinh thần, cửa ải khảo nghiệm lòng trung nghĩa. Với tài nghệ của Quan Công, vượt qua năm cửa ải kia còn dễ hơn nhiều. Trong tình thế "tình ngay lý gian" rất khó biện bạch, giải quyết thông suốt mắc mớ trong tư tưởng, tình cảm của một người nóng nảy như Trương Phi quả là cực khó.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 6
Tam Quốc diễn nghĩa là một trong tứ đại kiệt tác của nền văn học Trung Hoa, thuộc thể loại tiểu thuyết chương hồi, phát triển các sự kiện và cuộc đời nhân vật theo bối cảnh thời gian và bối cảnh lịch sử. Giá trị của tác phẩm nằm ở nhiều khía cạnh trong đó nổi bật là góc nhìn của tác giả về các nhân vật anh tài trong lịch sử có nhiều biến động của Trung Quốc xưa, lồng ghép vào đó là những bài học sâu sắc về cách nhìn nhận cuộc đời, nhìn người, cách đối nhân xử thế, các lĩnh vực chính trị, quân sự thông qua cuộc tranh giành kéo dài gần trăm năm của ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Một trong số những điểm đáng chú ý nhất của Tam Quốc là mối quan hệ của Lưu Bị - Trương Phi - Quan Vũ, vừa là tình anh em thân thiết kết nghĩa đào viên, vừa là mối quan hệ quân thần trung thành, tận tụy. Đoạn trích Hồi trống cổ thành là một trong những đoạn trích hay và đáng giá là nổi bật mối quan hệ của ba nhân vật này, cho người đọc những chiêm nghiệm, ý nghĩa sâu sắc.
Nhận thấy đầu tiên ở đoạn trích Hồi trống cổ thành ấy là sự ca ngợi mối quan hệ huynh đệ gắn bó, nghĩa tình sâu nặng giữa ba người Lưu Bị - Trương Phi - Quan Vũ. Ca ngợi bởi lẽ sự gắn kết ấy là đến từ sự cảm mến, ngưỡng mộ tài năng, đức độ lẫn nhau, dựa trên cơ sở cùng chung lý tưởng gây dựng giang sơn xã tắc, trừ gian diệt hại, lập nên nghiệp lớn. Để khẳng định tình cảm cao đẹp và lý tưởng nam nhi, ba người đã chọn hình thức kết nghĩa vườn đào, uống chén rượu nghĩa để bày tỏ tấm lòng khảng khái hào hiệp, coi trọng mối quan hệ huynh đệ hiếm có, tuy không sinh cùng cha mẹ, cùng ngày cùng tháng, nhưng nguyện được cùng vào sinh ra tử, tin tưởng, bảo bọc lẫn nhau. Có thể nói rằng trong chế độ phong kiến và dưới ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học Khổng Tử, tình huynh đệ kết nghĩa như của bộ ba Lưu Bị - Trương Phi - Quan Vũ là vô cùng đáng trọng, đáng quý, thậm chí là thiêng liêng hơn cả máu mủ ruột già. Lại nói đến hoàn cảnh trong đoạn trích Hồi trống cổ thành, chúng ta có thể nhìn nhận rõ được thứ tình nghĩa gắn bó và cao đẹp này thông qua việc Quan Vũ vì bảo vệ các vị phu nhân của Lưu Bị mà chấp nhận giả vờ hàng Tào Tháo. Tuy vậy trong suốt thời gian dù ở trong doanh trại địch nhưng lòng của Quan Vân Trường vẫn chưa từng dao động bởi những cẩm y ngọc thực và sự hậu đãi của kẻ thù, mà lòng ông chỉ hướng về nghĩa huynh Lưu Bị, hướng về vị quân chủ mình đang phò tá. Ngày ngày tìm cơ hội, chỉ đợi thời cơ tới là lập tức bảo vệ hai vị phu nhân chạy khỏi trướng giặc về với anh em.
Một nội dung nữa mà Hồi trống cổ thành muốn truyền tải ấy là ca ngợi vẻ đẹp của cuộc hội ngộ giữa những người anh hùng. Có thể nói rằng cuộc hội ngộ trong đoạn trích là một cuộc hội có nhiều điểm đặc biệt, khi mà tình cảm kết nghĩa của ba người tưởng chừng như bên bờ đổ vỡ vì những hiểu lầm nghi kỵ, thì sau đó nó lại càng trở nên bền vững, những người trong cuộc càng thâm sáng rõ về tấm lòng của nhau hơn. Sự kiện Quan Vũ giả vờ hàng Tào Tháo để bảo vệ hai chị dâu, sau đó một thời gian thì chạy thoát về cổ thành nơi Trương Phi trấn giữ, đã khiến Trương Phi nghi ngờ là Quan Vũ phản lại tình nghĩa huynh đệ, đầu hàng giặc quay về giết mình và Lưu Bị. Sự nghi kỵ của này của Trương Phi đã đem đến cho Quan Vũ một nỗi oan khó tả, ấy là nỗi oan bất nghĩa với anh em, bất trung với quân chủ. Hơn thế nữa bản thân Trương Phi tuy giỏi đánh đấm nhưng lại là một người nóng tính, lỗ mãng, không chịu nghe phân bua phải trái đã muốn kết tội, thế nhưng vào trường hợp của ông thì không thể không nghi ngờ, đó là cái ngờ chính đáng của một kẻ trượng phu hào kiệt, luôn tâm niệm kẻ bất trung bất nghĩa thì phải giết không tha, kể cả đó có là người từng xưng huynh gọi đệ. Từ đó dẫn đến cách minh oan anh hùng và đầy khí phách của Quan Công, không chỉ hàn gắn mối quan hệ, rửa sạch oan khuất mà còn bộc lộ những tài năng, đức độ của nhân vật này. Người anh hùng giải thích với nhau bằng trận đánh so tài, sự xuất hiện của một viên tướng giặc giữa lúc mâu thuẫn của Trương Phi và Quan Công đến hồi bế tắc, khi một người cố minh oan, còn một kẻ tràn ngập nghi kỵ đã trở thành giải pháp tháo gỡ nút thắt tuyệt vời. Giữa những hồi trống liên tiếp, thúc giục, hồi hộp của Trương Phi, cảnh Quan Vũ chém đầu Sái Dương chỉ trong một hồi trống đã hoàn toàn gỡ bỏ những nghi kỵ của Trương Phi, đồng thời giải oan cho Quan Vũ. Như vậy hồi trống cổ thành vừa là hồi trống cổ vũ ra quân, hồi trống thu quân về, lại là hồi trống giải oan và hồi trống đoàn tụ của hai anh em Trương Phi và Quan Vũ. Cách tạo lập và tháo gỡ các nút thắt của La Quán Trung trong tác phẩm mang đậm chất anh hùng, thể hiện được cái khí thế âm vang của các trận chiến thời cổ, khắc họa rất rõ nét phẩm chất đáng quý, đáng trọng của người anh hùng trên lưng ngựa, thời tam quốc phân tranh.
Ngoài ra đoạn trích còn là một bài học về cách dùng người, nhìn người, cách đối nhân xử thế. Trước việc đại sự quốc gia, người anh hùng muốn làm nên nghiệp lớn không chỉ biết trọng nghĩa tình, mà đứng trước những sự việc bất thường có ảnh hưởng to lớn đến đại cuộc thì cần phải có tấm lòng nghi kỵ một cách đúng đắn, không nên vì nề hà, cả nể mà làm hỏng cơ nghiệp. Đặc biệt với những kẻ có ý bất trung, bất nghĩa thì không nên tiếc mà giữ bên cạnh, tốt nhất là phải tiêu diệt để tránh đại họa mai sau.
Đoạn trích Hồi trống cổ thành, tuy chỉ là một đoạn trích ngắn với những lời đối đáp qua lại đầy căng thẳng của Trương Phi và Quan Vũ, cùng với sự kiện chặt đầu Sái Dương trong một hồi trống của Quan Vũ, nhưng đã để lại nhiều ý nghĩa cho độc giả muôn đời. Bộc lộ được cái tài cầm bút và phát triển cốt truyện của La Quán Trung và Tam Quốc diễn nghĩa xứng đáng là một trong tứ đại danh tác của Trung Hoa.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 7
Tam quốc diễn nghĩa là một trong những câu chuyện kinh điển về tình nghĩa anh em, quân thần thời phong kiến Trung Hoa và Hồi trống Cổ Thành là một trong những trường đoạn khiến người đọc phải lặng suy ngẫm về tình nghĩa giữa Quan Vũ và Trương Phi.
Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi là ba anh em kết nghĩa nhưng tình sâu hơn bể. Sự khác nhau về tính cách không khiến ba con người này trở nên mâu thuẫn bởi cả ba cùng chung một lí tưởng, một tâm nguyện. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan, ba anh em phải tạm li tán. Và chính sự ly tán đó dẫn đến sự nghi ngờ trong lòng Trương Phi ở đoạn trích Hồi trống Cổ Thành này.
Rời Tào doanh, đến Cổ Thành, biết tin Trương Phi đang trấn giữ ở đây, Quan Công mừng rỡ vô cùng. Trong khi đó Trương Phi chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân đi tắt ra cửa bắc. Nhưng tưởng Trương Phi sẽ thi lễ, đón hai anh chị vào thành, vậy mà lại múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công. Thái độ của Trương Phi hoàn toàn đối lập với thái độ của Quan Công và gần như trái ngược với đạo lí làm em. Lẽ nào Trương Phi đã quên nghĩa vườn đào, quên là em mà hành xử với Quan Công như vậy. Nhưng Trương Phi có lý do để hành động như vậy. Nhân vật của La Quán Trung đứng trên hai lập trường (tình nghĩa anh em và nghĩa vua - tôi) để định tội Quan Công. Nhà văn tiếp tục dẫn mâu thuẫn đi xa hơn bằng cách để Trương Phi để xưng mày - tao với Quan Công, luận giải tội trạng của Quan Công "bỏ anh, hàng Tào (…) lừa tao" và kết tội Quan Công bội nghĩa. Quan Công thanh minh, hai phu nhân cũng nói đỡ hộ nhưng Trương Phi vẫn không tin lời anh. Hồi trống Cổ Thành.
Mâu thuẫn truyện được đẩy lên một bậc khi quân của Sái Dương mang cờ Tào đuổi kịp Quan Công. Trương Phi càng có cớ để nghi ngờ lòng dạ Quan Công. Đám quân mã do Sái Dương dẫn đầu khiến Trương Phi nghĩ rằng Vân Trường đưa đến để bắt về qui hàng cho Tào Tháo. Tình thế éo le buộc Vân Trường phải hành động để chứng thực lòng với em: "Hiền đệ hãy khoan, xem ta chém tên tướng ấy, để tỏ lòng thực của ta!". Đến đây, La Quán Trung quyết định thắt nút truyện, đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm bằng tình tiết Hồi trống Cổ Thành.
Trước đề nghị của Quan Vân Trường, Trương Phi đã ra điều kiện - một điều kiện khắc nghiệt: "Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy". Ba hồi trống định mức thời gian để minh chứng cho một tấm lòng, ba hồi trống để giải oan, ba hồi trống để nhận diện nhân cách một con người cũng là ba hồi trống đầy thách thức. Nó quả là quá ngắn ngủi đối với một mạng người. Nó sẽ là một minh chứng nếu quả thật Quan Công do dự, dao động và không có tài nghệ, khí phách. Nhưng nó cũng là cơ hội để Quan Công minh oan, để hai anh em có thể đoàn tụ lẫn nhau, để lời thề vườn đào năm xưa được giữ trọn. Nếu không có ba hồi trống, mối nghi ngờ trong lòng Trương Phi chỉ có thể giải tỏa bằng bát xà mâu. Và lúc đó, khó có thể hình dung giữa Trương Phi và Quan Công hai anh em ngang tài ngang sức, ai sẽ là người chiến thắng, ai là người phải hy sinh. Tình huống đó bắt buộc Quan Vân Trường phải hành động gấp rút. Chưa dứt một hồi trống, đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Mâu thuẫn được hóa giải, nút thắt đầy kịch tính được tháo bỏ. Chi tiết Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường thể hiện tình cảm chân thành của người em cương trực, thẳng thắn, nghĩa dũng đối với người anh em của mình.
Đến cuối đoạn trích Hồi trống Cổ Thành, hồi trống mới xuất hiện nhưng nó đã thực thi nhiệm vụ quan trọng: hóa giải mối nghi ngờ giữa hai anh em Quan Vũ - Trương Phi. Trở lại với diễn biến câu chuyện phía trước, có thể thấy đó là hồi trống ra quân và cũng là hồi trống thu quân, hồi trống thách thức, minh oan và đoàn tụ. Cuộc hội ngộ của hai anh em không có rượu, chỉ có hồi trống trận. Nó cũng chính là một thành công trong nghệ thuật kể chuyện đặc sắc của nhà văn La Quán Trung.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 8
Có thể nói tiểu thuyết chương hồi là thể loại đạt được nhiều thành tựu nổi bật nhất trong kho tàng văn học thời Minh - Thanh ở Trung Quốc. Một trong những tác phẩm nổi tiếng thời kì này phải kể đến "Tam quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung. Ông là tác giả đã có những đóng góp xuất sắc cho thể loại tiểu thuyết lịch sử thời Minh - Thanh và "Tam quốc diễn nghĩa" có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam và các nước trên thế giới.
Đây là tác phẩm lớn gồm 120 hồi được ra đời vào đầu thời nhà Minh (1368 - 1644) kể chuyện "cát cứ phân tranh" của ba tập đoàn phong kiến Ngụy - Thục - Ngô với các cuộc chiến tranh diễn ra liên miên, đời sống nhân dân khổ cực trong gần 100 năm của nước Trung Quốc thời cổ. Đoạn trích "Hồi trống Cổ Thành" thuộc hồi 28 của tác phẩm. Nội dung của đoạn trích kể về việc Quan Công đưa hai chị đến Cổ Thành thì biết Trương Phi đang chiếm thành, tạm lấy chốn nương thân liền sai Tôn Càn vào thành báo tin để Trương Phi ra đón hai chị. Gặp lại Trương Phi, Quan Công "mừng rỡ vô cùng" còn Trương Phi do hiểu nhầm Quan Công "hàng Tào Tháo" nên "múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công". Đang trong lúc phân trần sự thật thì quân Tào kéo đến, Quan Công đã lấy đầu của Sái Dương - tên tướng cầm đầu quân Tào. Sau này, Trương Phi mới tin Quan Công và "mời hai chị vào thành".
Đoạn trích này đã khắc họa thành công hai nhân vật Trương Phi và Quan Công với những đặc điểm tính cách nổi bật. Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi là anh em kết nghĩa nơi vườn đào, có lời thề sống chết bên nhau. Họ cùng có chí khôi phục lại nhà Hán, mang lại thái bình cho đất nước và sự ấm no cho nhân dân. Kẻ nào phản bội lại nghĩa tình anh em thì đó là kẻ bất trung, bất nghĩa. Trước đó, họ nương náu dưới trướng Tào Tháo nhưng khi hiểu được bản chất gian hùng của Tào Tháo nên họ đã bỏ đi. Vì phải "hộ tống hai chị dâu nên Quan Công tạm hàng Tào Tháo với điều kiện hàng Hán chứ không hàng Tào". Tào Tháo tìm mọi cách thu phục Quan Công nhưng khi biết tin Lưu Bị đang ở bên Viên Thiệu thì Phi trả hết con dấu, châu báu, lên đường tìm anh. Đến Cổ Thành thì Quan Công gặp Trương Phi và bị Trương Phi hiểu nhầm.
Với tính tình nóng nảy, cương trực, Trương Phi "mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công". Trương Phi "hầm hầm quát" người anh em kết nghĩa vườn đào với mình năm xưa: "Mày đã bội nghĩa, còn mặt nào đến gặp tao nữa?" và quyết liều sống chết với Quan Công.Trương Phi không nghe bất cứ một lời giải thích nào từ Quan Công, Cam phu nhân, Mi phu nhân và Tôn Càn. Trương Phi không xưng hô lễ nghi như "nhị ca" -"tiểu đệ" mà xưng "tao" - "mày", gọi Quan Công là "nó", là "thằng phụ nghĩa". Điều ấy chứng tỏ Trương Phi là con người thẳng thắn, không thể dung tha cho kẻ đã phản bội anh em, làm những điều phi nghĩa. Nhân vật này còn quả quyết khẳng định: "Hai chị bị lừa dối đấy. Trung thần thà chịu chết chứ không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?" Đó là câu nói thể hiện lí lẽ, quan điểm và sự dứt khoát của Trương Phi. Bậc bề tôi quyết trung thành với vua, thà chịu chết chứ không chịu đầu hàng kẻ thù.
Mâu thuẫn giữa hai nhân vật được La Quán Trung đẩy lên cao trào khi Trương Phi trông thấy quân Tào kéo đến do Sái Dương dẫn đầu, "vác đao tế ngựa xông đến". Vốn đã nghi ngờ Quan Công ngay từ đầu nên khi trông thấy cảnh tượng "bụi bay mù trời, một toán quân mã kéo đến, cờ hiệu phấp phới chính là cờ Tào" như đến để bắt mình nên Trương Phi lại càng nổi giận và "múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công". Khi Quan Công tỏ lòng thực của mình bằng cách chém tên tướng Sái Dương thì Trương Phi cũng kiên quyết ra điều kiện: "Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy". Đây là cơ hội để Quan Công chứng minh được sự trong sạch và tấm lòng ngay thẳng, trung nghĩa của mình.
Chưa dứt một hồi trống, "đầu Sái Dương đã lăn dưới đất", "quân Tào chạy tan tác" nhưng kết quả ấy cũng chưa thuyết phục được lòng tin của Trương Phi. Chỉ khi nghe một tên lính kể chuyện Sái Dương nghe tin Quan Công giết cháu ngoại mình bèn "nổi giận đùng đùng" muốn sang Hà Bắc đánh Quan Công nhưng Tào Tháo không cho đi, "nhân sai Nhữ Nam đánh Lưu Tích" không ngờ đi đến Cổ Thành gặp Quan Công thì lúc đó Trương Phi mới "tin anh là thực" và "mời hai chị vào thành". Hai người chị kể cho Trương Phi nghe những việc mà Quan Công trải qua khiến Trương Phi "rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường". Trương Phi tuy tính tình nóng nảy nhưng khi hiểu hết câu chuyện và hoàn cảnh của người anh kết nghĩa thì đã tin tưởng và phục thiện. Đó là một trong những vẻ đẹp nhân cách của nhân vật này.
Bên cạnh đó, tác giả La Quán Trung cũng khắc họa nhân vật Quan Công với tính cách khiêm nhường, trung nghĩa, thủy chung với tình anh em kết nghĩa vườn đào. Khi gặp được Trương Phi, Quan Công "mừng rỡ vô cùng, giao long đao cho Châu Thương cầm, tế ngựa lại đón". Ngay cả khi bị Trương Phi gọi là "mày", "thằng","nó" nhưng Quan Công vẫn giữ cách xử sự đúng mực, độ lượng khi gọi Trương Phi là "em" và "hiền đệ". Quan Công hết sức bình tĩnh khi "tránh mũi mâu", nhờ hai chị làm nhân chứng cho sự trung thành của mình. Không những thế, Quan Công rất coi trọng tình nghĩa anh em đã có và muốn chứng minh điều ấy qua hành động chém Sái Dương "để tỏ lòng thực". Trước sự nghi ngờ của Trương Phi lớn như vậy nhưng Quan Công vẫn giữ được bình tĩnh và sự từ tốn của bản thân để minh oan.
Hồi trống có ý nghĩa thâu tóm toàn bộ linh hồn, mang lại không khí chiến trận cho đoạn trích. Đó là hồi trống thách thức, minh oan, đoàn tụ của ba anh em của Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi. Đoạn trích đã thể hiện được tính cương trực của Trương Phi và lòng trung nghĩa của Quan Công. Kết cấu của "Hồi trống Cổ Thành" như một vở kịch hoàn chỉnh và mang những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của tiểu thuyết chương hồi. Tác phẩm "Tam quốc diễn nghĩa" không chỉ phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa lúc bấy giờ mà còn để lại những bài học về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín của Nho giáo, các cách ứng xử của bậc quân tử. Đây cũng là nguyên nhân khiến tác phẩm luôn có sức hấp dẫn đối với các thế hệ bạn đọc.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 9
La Quán Trung là một nhà văn lớn của nền văn học Trung Quốc, tên tuổi của ông gắn liền với những tác phẩm mang tính dã sử, nổi bật nhất phải kể đến Tam quốc diễn nghĩa. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết lịch sử đồ sộ và có giá trị nhất của nền văn học Trung Quốc. Đoạn trích Hồi trống cổ thành cũng là một đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng và tầm vóc tư tưởng của nhà văn La Quán Trung.
Đoạn trích Hồi trống cổ thành thuộc hồi thứ hai mươi tám của tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa, trong đoạn trích này tác giả đã miêu tả cuộc hội ngộ của hai người anh em Quan Công và Trương Phi trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Thông qua việc xây dựng nên một tình huống đầy hấp dẫn, tác giả La Quán Trung đã thể hiện được tình huynh đệ cũng như những biểu hiện của lòng tín nghĩa.
Trước tiên, La Quán Trung đã đi khắc họa nhân vật Trương Phi. Trương Phi là một trong những vị tướng đắc lực dưới trướng của Lưu Bị, nhân vật này hiện lên với vóc dáng cao lớn “… cao tám thước, đầu cáo mắt tròn, râu hùm hàm én…”. Trương Phi có tính cách bộc trực, nóng nảy. Tuy là một vị tướng mưu lược nhưng trong nhiều trường hợp nhất định thì Trương Phi lại trở nên thô lỗ, không biết suy tính trước sau.
Nhân vật Trương Phi là đại diện của chữ Trung, là một con người có bản lĩnh cứng cỏi, thẳng thắn, thà chết chứ không chịu khuất phục, luồn cúi dưới trướng của kẻ thù, đặc biệt Trương Phi căm ghét sự phản bội, đây cũng chính là nguyên nhân của những hành động nóng nảy của Trương Phi với Quan Công khi nghi ngờ Quan Công đã phản bội lại tình nghĩa huynh đệ để theo Tào Tháo.
Vốn có những hiềm khích, hiểu lầm nên cuộc hội ngộ của an hem Quan Công và Trương Phi cũng thật đặc biệt, đó không lại sự sum họp trong sự vui mừng, nồng nhiệt đón tiếp mà là một trận giao chiến đầy căng thẳng. Để thoát khỏi sự kiểm soát của Tào Tháo, Quan Công đã phải mở con đường máu đưa hai chị dâu chạy trốn, sau đó gặp Trương Phi.
Quan Công những tưởng giây phút huynh đệ hội ngộ sẽ vô cùng cảm động và vui mừng mà không thể ngờ được Trương Phi lại đón tiếp mình bằng gương mặt đỏ bừng tức giận, hành động quyết dồn mình vào con đường chết. Trước những hành động của Trương Phi, Quan Công không thể hiểu vì sao người anh em thân thiết lại đối xử với mình như vậy.
Là một con người tỉnh táo, thức thời nên dù bị Trương Phi tấn công quyết liệt cùng cách xưng hô mày- tao đầy xa lạ thì Quan Công vẫn xưng huynh- đệ và cố dò hỏi nguyên nhân vì sao Trương Phi lại có những hành động như vậy. Qua những lời nói và hành động của Quan công, ta có thể thấy được ở con người này một sự nhẫn nại, một con người biết lí lẽ, phân tích tình tình hình dù trong tình thế căng thẳng nhất.
Sau khi đã biết được nguyên nhân khiến cho TRương Phi tức giận và có những hành động nông nổi là do hiểu lầm mình phản bội lại tình nghĩa huynh đệ, đi theo Tào. Quan Công đã rất bình tĩnh để giải thích cho Trương Phi hiểu nhưng dù có nói như thế nào thì Trương Phi cũng không tin. Cuối cùng, tình thế bị đẩy lên căng thẳng nhất khi Sái Dương đuổi tới chân thành, sự nghi ngờ ở Trương Phi ngày càng dâng cao. Cuối cùng, Trương Phi đã đưa ra một thử thách để chứng minh sự trong sạch của Quan Công, đó chính là trong thời gian của ba hồi trống thì Quan Công phải chém đầu Sái Dương.
Trước lời thách thức của Trương Phi, Quan Công đã chấp nhận, khi tiếng trống đầu tiên vang lên thì ngay lập tức Quan Công đã lao vào Sái Dương, bằng bản lĩnh và võ nghệ của một vị tướng tài ba, trong ba hồi trống mà Trương Phi đánh lên thì Quan Công đã chém được đầu của Sái dương.
Về phía của Trương Phi, sau khi Quan Công đã hoàn thành xong thử thách thì vẫn chưa tin tưởng hoàn toàn, trong lòng vẫn chưa thể gỡ bỏ hết được những nghi ngờ. Cuối cùng, trước những lời kể của ai chị dâu và một tên lính thì Trương Phi đã hiểu ra sự việc, sự hối hận tột cùng khiến cho Trương Phi quỳ rạp xuống van khóc, xin lỗi người anh em của mình về những hành động nông nổi.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, tên nhan đề của đoạn trích này chẳng phải ngẫu nhiên mà được đặt là Hồi trống cổ thành, đó là tiếng trống minh oan,tiếng trống hóa giải những hiểu lầm của hai anh em Quan Công và Trương Phi:
“Chém Sái Dương anh em hòa giải
Hồi cổ thành tôi chúa đoàn viên”
Qua đoạn trích Hồi trống cổ thành ta có thể thấy rõ nét tính cách của từng nhân vật, đồng thời đoạn trích cũng hướng đến ca ngợi tình anh em gắn bó, dù trải qua những khó khăn thì cũng sẽ có ngày đoàn tụ.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 10
Tam Quốc diễn tức là tác phẩm phản ánh chân thực giai đoạn lịch sử đầy biến động của lịch sử Trung Quốc với tam quốc phân tranh quyết liệt. Đoạn trích “Hồi trống cổ thành” là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất thể hiện cuộc đối đầu đầy căng thẳng của Trương Phi và Quan Công, những người huynh đệ từng kết nghĩa vườn đào, để khi hồi trống cổ thành vang lên mọi hiềm khích được hóa giải, người đọc lại một lần nữa cảm động về tình huynh đệ gắn bó, tấm lòng trước sau như một dù trải qua những thử thách khốc liệt nhất. Đoạn trích thành công xây dựng những nét tính nhữngh đặc trưng của từng nhân vật, đặc biệt người võ tướng Trương Phi được khắc họa với tính nhữngh nóng nảy, bộc trực cùng tấm lòng trung thành không gì rất có thể thay đổi.
Trương Phi là người võ tướng tài giỏi dưới trướng của Lưu Bị, khắc họa chân dung nhân vật này, tác giả La Quán Trung đã viết: “…tiếng vang như sấm, nhanh như ngựa, râu cọp hàm én, đầu beo mắt lồi”. Nổi tiếng với tính nhữngh bộc trực, thà chết chứ không chịu khuất phục, luồn cúi dưới trướng của kẻ thù, rất có thể nói Trương Phi là nhân vật đại diện cho chữ “trung”. Tuy nhiên, người võ tướng này tính tình lại nóng nảy, bộc trực, ghét sự phản bội, đây cũng là lí do của việc nghi ngờ Quan Vân Trường thất tín và cũng là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đối đầu căng thẳng ở cổ thành.
Nói về tính nhữngh nóng nảy, bộc trực của Trương Phi, dân gian cũng đã có câu “Nóng như Trương Phi, đa nghi như tào tháo”, thế mới thấy hình ảnh của một Trương Phi dung mạnh nhưng nóng nảy đã in đậm trong tiềm thức của mọi người. Là người trung thành, tôn vinh chữ Trung nên TRương Phi không thể chấp thuận được hành động phản bội, Trương Phi điển hình cho người anh hùng thời loạn tôn vinh trung nghĩa với lí tưởng “Trung thần thà chết chứ không chịu nhục”. Sự bộc trực, trung thành tuyệt đối của Trương Phi với Lưu Bị thể hiện ngay trong hành động đối đầu với Quan Công. Trong nhận thức của Trương Phi thì Quan Công đã phản bội lại tình nghĩa huynh đệ để đi theo Tào Tháo. Do đó khi thấy Quan Công đến Cổ Thành thì Trương Phi đã quyết tâm chiến đấu đến cùng “Phen này tao quyết liều sống chết với mày”. Vì sự trung nghĩa, TRương Phi đã tạm gác tình cảm cá nhân mà đối đầu với Quan Công như với kẻ thù vì lợi mà phản bội anh em.
Tính nhữngh trung thực, nóng nảy nên khi nghe báo tin Quan Công và hai chị dâu đang đi vào cổ thành, TRương Phi đã ngay lập tức mặc áo giáp, lên ngựa dẫn quân đi qua cửa Bắc để bắt Quan Công. Hành động quyết liệt, dữ dội cùng với thái độ tức giận “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Tuy nhiên, ở Trương Phi cũng tồn tại hạn chế của người võ tướng, vì nóng nảy mà Trương Phi mất đi khả năng đánh giá tình hình, cố chấp không chịu tin tưởng vào những lời giải thích của Quan Công.
Cuối cùng, khi Sái Dương kéo quân đến chân thành thì TRương Phi đã đưa ra một quyết định, đó là trong ba hồi trống, Quan Công phải chém được đầu của Sái Dương để chứng tỏ sự trong sáng. Trong ba hồi trống ấy, Quan Công đã chém được đầu của Sái Dương, tuy nhiên lúc này thì Trương Phi vẫn vẫn chưa dám tin tưởng hoàn toàn, chỉ đến khi hai chị dâu cùng một tên lính trung thành thuật lại mọi việc thì Trương Phi mới nhận thấy mình hiểu lầm Quan Công.
Sự ân hận đã làm cho Trương Phi quỳ xuống mà khóc, cầu xin Quan Công tha thứ. Như vậy ta rất có thể thấy Trương Phi là người nóng nảy, thô lỗ không biết nhận thức tình hình nhưng lại là con người sống ngay thẳng, tình cảm, Trương Phi rất có thể sẵn sàng cầm giáo xông vào Quan Công khi hiểu lầm người anh em nhưng cũng rất có thể quỳ sụp xuống xin lỗi vì biết mình đã hiểu nhầm anh.
“Chém Sái Dương anh em hòa giải
Hồi cổ thành tôi chúa đoàn viên”
Qua đoạn trích “Hồi trống cổ thành” ta rất có thể thấy được một Trương Phi nóng nảy, bộc trực hết lòng trung thành với Lưu Bị mà còn là người sống tình nghĩa, ghét sự bội nghĩa.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 11
La Quán Trung (1330-1400), quê ở vùng Thái Nguyên, Sơn Tây, Trung Quốc. Ông là người có tính tình cô độc, sống lẻ loi, thích ngao du đây đó nên có am hiểu sâu sắc về tình hình chính trị đương thời. Tam Quốc diễn nghĩa ra mắt vào khoảng đầu thời Minh (1368-1644), nội dung kể về chuyện một nước chia ba trong gần một trăm năm của Trung Quốc thời cổ (thế kỷ II, III), vào cuối đời Đông Hán (năm 184), quân thần ngu muội, nhân dân đồ thán, hàng trăm cuộc khởi nghĩa nổ ra khiến chính quyền trở thành bất lực. Từ đó nổi lên những quyền lực nổi lên với danh nghĩa dẹp khởi nghĩa, ủng hộ triều đình trong đó có ba quyền lực mạnh nhất là Tào Tháo (Ngụy), Lưu Bị (Thục) và Tôn Quyền (Ngô) tạo thành thế chân vạc. Cuối cùng kết thúc vào năm 280 khi nhà Tần lên ngôi. Đoạn trích Hồi trống Cổ thành thuộc hồi 28 của bộ tiểu thuyết này, kể về hiểu lầm giữa hai người Quan Công và Trương Phi, sau đó là sự đoàn viên và hóa giải hiểu nhầm làm sâu sắc thêm tình huynh đệ kết nghĩa trong thời loạn. Mà ở đây nhân vật Trương Phi hiện lên nổi trội với vai trò người anh hùng chính trực, ngay thẳng, tuy nhiên khá nóng nảy trong việc giải quyết xích míc.
Trương Phi là nhân vật nổi trội với tính nhữngh bộc trực ngay thẳng, không biết dối trá úp mở, điều đó thể hiện qua lập trường trung thần rõ ràng, rạch ròi trong câu nói với hai người chị dâu “trung thần thà chết cũng không chịu nhục, có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ”. Từ đó dẫn đến sự suy xét, lập luận về sự xuất hiện của Quan Công theo quan điểm của Trương Phi, Quan Vân Trường xuất hiện ở đây sau khi đã hàng Tào Tháo, tức là đã bội nghĩa nhận phong hàng tứ tước của kẻ thù, hôm nay đến đây là để đánh lừa Trương Phi, mang theo quân mã để cướp cổ thành.
Như vậy Trương Phi đã có đến ba lần buộc tội Quan Công, thứ nhất là “mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa”, tức là tội bất nghĩa, thứ hai “mày bỏ anh hàng Tào Tháo được phong hầu tứ tước nay lại đến đây đánh lừa tao, phen này tao quyết liều sống chết với mày”, tức là tội bất trung, và sau cùng là “mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó tiếp đây là để bắt ta đó”, tức là tội bất nhân. Cũng từ những lập luận trên mà dẫn đến sự phản ứng quyết liệt với Quan Công của nhân vật này, gồm có 6 phản ứng. Khi Tôn Càn báo tin mời Trương Phi ra đón Quan Công thì nhân vật này “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp vác mâu lên ngựa dẫn theo một nghìn quân đi tắt ra cửa Bắc”, khi vừa nhìn thấy Quan Công thì “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Khi Quan Công hỏi nguyên cớ, thì nhân vật này nổi giận quát, đổi xưng hô mày – tao và buộc tội Quan Công ba tội bất nghĩa, bất trung và bất nhân. Khi Quan Công, hai chị dâu và Tôn Càn thanh minh thì Trương Phi gạt bỏ toàn bộ, khăng khăng tin tưởng vào lập luận và suy xét của tớ. Khi toán quân mã mang cờ Tào kéo đến nhìn thấy bụi bay mù trời từ đằng xa thì Trương Phi lập tức nổi giận “mua bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công lần nữa”.
Khi Quan Công yêu cầu được xác thực lòng trung của tớ, thì Trương Phi chấp thuận nhưng đưa ra yêu cầu phải chém đầu tướng Tào trong ba hồi trống thì mới tin. Điều kiện thời gian là ba hồi trống bởi, nếu là năm hồi thì quá dài, không tương thích với tính nhữngh nóng nảy, bộc trực của Trương Phi, nhân vật này không thể đủ kiên nhẫn chờ đón hết năm hồi trống, thêm vào đó mốc thời gian này nếu đưa ra còn làm hạ thấp đi tài nghệ của Quan Công. Còn nếu như chỉ là một hồi trống thì đây lại là một thử thách quá nghiệt ngã, thực chất trong lòng Trương Phi vẫn rất hy vọng rằng anh mình không phải là kẻ bất trung bất nghĩa, ba hồi trống ấy đó là quảng thời gian vừa đủ để Quan Công xác thực được tấm lòng của tớ. Như vậy việc đưa ra ba hồi trống không những là thử thách mà còn gửi gắm cả niềm tin niềm hy vọng của Trương Phi với người anh kết nghĩa của tớ.
Sau ba hồi trống Quan Công đã chém được đầu của Sái Dương, một tướng của Tào Tháo cuộc hội ngộ, hòa giải của Quan Công và Trương Phi ra mắt cực kì xúc động. Nếu như trong cả tiểu thuyết cũng như trong phần đầu đoạn trích, Trương Phi hiện lên với tính nhữngh nóng nảy, bộc trực thiếu kiên nhẫn, thì riêng trong phần hòa giải nhân vật này lại rất cẩn trọng, khác hẳn với tính nhữngh thường ngày của nhân vật. Sau khi Quan Vân Trường chém được đầu Sái Dương, nhưng Trương Phi vẫn vẫn chưa tin hẳn, chỉ đến khi Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu của Tào Tháo hỏi chuyện đầu đuôi chuyện ở Hứa Đô, thì bấy giờ nhân vật Trương Phi mới tin anh mình trung thành tuyệt đối. Lại đến sau khi nghe tiếp hai chị dâu kể lại việc Quan Công đã trải qua thì lúc này Trương Phi mới thực sự hiểu được những khó khăn vất vả, đau khổ mà Quan Vân Trường đã phải chịu đựng. Thế nên nhân vật này đã rỏ nước mắt khóc thương và thụp lạy anh mình, giọt nước mắt ấy vừa sự đau lòng cho những vất vả, khó nhọc mà Quan Công đã phải chịu, bên cạnh đó đó còn là giọt nước mắt hối hận về những hành động hồ đồ thuở đầu của bản thân. Còn cái quỳ lạy thứ nhất là thể hiện sự cảm phục nghị lực, sự ẩn nhẫn và nhân nhữngh của Vân Trường, thứ hai là để tạ lỗi với anh của tớ.
Như vậy qua đoạn trích Hồi trống cổ thành, nhân vật Trương Phi đã xuất hiện với những nét tính nhữngh nổi trội, nóng nảy, thiếu kiên nhẫn, bộc trực, thẳng thắn, tuy nhiên đến lúc cần suy xét thì nhân vật này lại bộc lộ bản tính cẩn trọng khác xa tính nhữngh vốn có của tớ. Điều đó thể hiện sự trân trọng, niềm hy vọng mãnh liệt vào tấm lòng của người anh kết tức là Quan Công mà tổng thể những ý nghĩa sâu sắc này lại nằm gói trọn trong ba hồi trống ở cổ thành.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 12
Bên cạnh kho tàng văn học dân gian rất đồ sộ với tác phẩm Kinh Thi nổi tiếng, nhân dân Trung Quốc còn rất tự hào với hai đỉnh cao chói lọi là thơ Đường và tiểu thuyết Minh – Thanh. Văn học Minh – Thanh là giai đoạn phát triển sau cùngcủa văn học cổ trang Trung Quốc. Đây là giai đoạn nền văn học Trung Quốc khá đa dạng, phong phú và đạt nhiều thành công về mặt nghệ thuật. Trong số đó có sự lên ngôi đầy vẻ vang của tiểu thuyết.
Tiểu thuyết cổ trang Trung Quốc là một loại truyện dài, được kể thành chương hồi và theo trật tự trước sau của sự việc. Khái niệm tiểu thuyết trong văn học Minh – Thanh khác với tiểu thuyết hiện đạisử dụng ngày nay. Có thể kể tới những đỉnh cao tiêu biểu của tiểu thuyết Minh – Thanh đã rất quen thuộc với chúng ta ngày nay như Tây du kí, Nho lâm ngoại sử, Thuỷ hử truyện, Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng… Trong số đó, Tam quốc diễn tức là tác phẩm phản ánh một giai đoạn dài và đầy biến động của lịch sử Trung Quốc, đó là thời Tam quốc. La Quán Trung viết tác phẩm này dựa trên ba nguồn tư liệu đó là sử liệu (cuốn sử biên niên Tam quốc chí của Trần Thọ đời Tấn và cuốn Tam quốc chí của Bùi Tùng Chi người Nam Bắc triều) ; dã sử, truyền thuyết trong dân gian ; tạp kịch, thoại bản đời Nguyên (cuốn Tam quốc chí bình thoại). Vì thế tác phẩm vừa là một thiên sử kí, vừa là một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật.
Qua việc kể lại những mẩu truyện về trận đánh tranh cát cứ giữa ba tập đoàn lớn phong kiến Nguỵ, Thục, Ngô, bằng nhãn quan chính trị của tớ, La Quán Trung đã bày tỏ khát vọng về một xã hội công minh, ổn định với vua hiền tướng giỏi, nhân dân ấm no. Mặc dù, lấy đề tài từ những mẩu truyệnlịch sử đã lùi sâu vào quá khứ nhưng tác giả đã khắc hoạ một toàn cầu nhân vật sinh động trong những mối quan hệ rất chặt chẽ, với đủ những nét tính nhữngh không giống nhau. Không một nhân vật nào trùng lặp nhân vật nào trong toàn cầu hàng nghìn nhân vật ấy.
Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành đã phần nào bộc lộ một trong những nét tính nhữngh tiêu biểu của hai nhân vật xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm là Quan Vân Trường và Trương Phi. Đoạn trích rất ngắn so với sự đồ sộ của tác phẩm nhưng cũng đã thể hiện được một đặc trưng bút pháp nghệ thuật của La Quán Trung cũng như đặc trưng chung của tiểu thuyết cổ trang Minh – Thanh. Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành có kết cấu hoàn chỉnh và đầy kịch tính. Đây là một đặc trưng trong nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết cổ trang, mỗi chương hồi thường là một mẩu truyện có giới thiệu, mở mối, mở nút và thắt nút như kết cấu một vở kịch. Sau khi giới thiệu nhân vật và sự việc thì mở ra xích míc, rồi xích míc được đưa lên đỉnh điểm rồi được giải quyết bằng một hành động nào đó.
Trong đoạn Hồi trống Cổ Thành, mở đầu tác giả giới thiệu việc Quan Công đang trên đường tìm về Nhữ Nam gặp Lưu Bị, ngang qua Cổ Thành biết được Trương Phi ở đó bèn đưa hai chị dâu vào. Đồngthời tác giả cũng giới thiệu cảnh ngộ của Trương Phi. Mâu thuẫn bắt đầu khi Trương Phi nghe tin Quan Công đến, vác xàmâu, lao ngựa ra đánh Quan Công, và được đưa lên cao hơn khi quân mã Sái Dương xuất hiện. Là mẩu truyện đậm màu chiến trận nên mọi xích míc giữa những nhân vật đều được giải quyết bằng hành động. Mâu thuẫn giữa Quan Công và Trương Phi xuất phát từ sự hiểu lầm của Trương Phi nhưng cũng được giải quyết bằng hành động. Hành động chém đầu tướng giặc. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi đầu Sái Dương rơi xuống đất, còn mọi lời giải thích đều không tồn tại ý nghĩa sâu sắc gì.
Về mặt nội dung, đoạn trích là một mẩu truyện hoàn chỉnh, đặc trưng này giúp cho việc nắm bắt nội dung dễ dàng hơn. Mỗi hồi của tiểu thuyết chương hồi thường giải quyết hoàn chỉnh một xích míc hoặc hoàn thành diễn biến một sự kiện, đồng thời lại mở ra một mẩu truyện mới tạo thành phần nối kết với hồi sau. Vì thế kết thúc mỗi hồi lúc nào cũng có thể có câu : “muốn biết sự việc thế nào xem hồi sau sẽ rõ”. Mỗi hồi đều được kết thúc khi xích míc đang ở cao trào là một kiểu tạo sức hấp dẫn của nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết cổ trang.
Vốn là những truyện kể dân gian được sưu tập và ghi chép lại nên phương thức trần thuật của Tam quốc diễn nghĩa mang đặc trưng truyện kể rất rõ. Truyện được kể theo trật tự thời gian trước sau của sự việc. Nếu sự việc xảy ra đồng thờihoặc muốn chuyển từ nhân vật này sang nhân vật khác thì dùng từ chuyển “lại nói”. Truyện kể ít quyên tâm đến diễn biến tâm lí và suy nghĩ nội tâm của nhân vật. Tính nhữngh nhân vật được bộc lộ qua hành động và cử chỉ. Tác giả ít xen vào lời giới thiệu hoặc comment. Nếu comment một trận đánh hoặc một sự việc, hành động nào đó của nhân vật thì tác giả trích một bài thơ, một bài vịnh nào đó của người đời sau. Và tên mỗi chương lúc nào cũng là câu văn đối ngẫu tóm lại sự việc chính xảy ra trong hồi đó. Nội dung của mẩu truyện Hồi trống Cổ Thành được tóm lại trong câu : “Chém Sái Dương anh em hoà giải ; Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên”.
Đoạn trích này đã thể hiện khá rõ những đặc sắc nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa. Những nét tính nhữngh không thường nổi trội trong tác phẩm của hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được thể hiện trong đoạn trích. Quan Công vốn rất tự phụ, ít khi nhún nhường ai, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, trước cơn giận của Trương Phi, lại rất nhũn nhặn, mềm mỏng. Ở đây hiện lên một Quan Công oai hùng trong tư thế chém đầu tướng giặc nhưng cũng lại là một người anh chín chắn, đúng mực. Còn Trương Phi tính tình vốn xốc nổi, đơn giản nhưng mối nghi ngờ đã làm cho vị anh hùng này thận trọng hơn. Đó là những nét tính nhữngh khác tạo ra sự đa chiều trong nghệ thuật xây dựng tính nhữngh nhân vật của tác giả. Dù thế nào thì mỗi nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa vẫn có một tính nhữngh đặc trưng rất cá tính, không thể trộn lẫn vào đâu được
Đoạn trích này ca tụng tài năng phi thường của Quan Công, lòng dạ thẳng ngay của Trương Phi và trên hết là lòng trung nghĩa sắt son của cả hai người. Trương Phi nổi tiếng là người ngay thẳng, nóng nảy và trung thực. Nên mọi lí lẽ với Trương Phi đều không tồn tại sức thuyếtphục. Người như Trương Phi không lúc nào chấp thuận và cũng khó rất có thể hiểu được những uẩn khúc trong việc Quan Công về ở với Tào Tháo. Vì thế khi nghe tin Quan Công đến Cổ Thành, Trương Phi đã phản ứng rất quyết liệt : “Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa…”. Nhìn thấy Quan Công thì không thèm nói một lời, “Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”.
Không có lời comment, không mô tả tâm lí nhân vật nhưng tính nóng nảy và sự tức giận của Trương Phi được thể hiện rất rõ qua hành động, nét mặt, lời nói. Phản ứng của Trương Phi thể hiện tính trung thực, yêu ghét rõ ràng. Lời thanh minh của Quan Công, lời giải thích của Cam phu nhân, Mi phu nhân đều chỉ như dầu đổ vào lửa. Trương Phi không thích nghe lí lẽ, chỉ tin vào những điều mắt trông thấy. Cơn giận đang ngùn ngụt lại trông thấy quân mã kéo tới. Cơn giận của Trương Phi được đưa lên đỉnh điểm “múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công”.
Nhân vật của tiểu thuyết cổ trang tuy có tính nhữngh rất rõ nét nhưng vẫn mang tính ước lệ của văn học trung đại. Vì vậy, hành động của nhân vật lúc nào cũng minh hoạ cho tính nhữngh và tư tưởng giai cấp chứ không nhất thiết tuân theo lôgic tâm lí. Tình nghĩa anh em thuở hàn vi sẽ vô nghĩa sâu sắc gì nếu ai đó bị nghi ngờ là phản bội. Chỉ có lí tưởng trung tức là nguyên tắc ứng xử duy nhất. Và mọi xích míc chỉ được giải quyết trên cơ sở lợi ích xã hội. Anh em Quan, Trương đoàn viên khi đầu Sái Dương rơi xuống đất. Trương Phi thẳng tay đánh trống giục giã Quan Vũ và “rỏ nước mắt thụp lạy Vân Trường” khi nỗi nghi ngờ được giải toả.
Việc Trương Phi buộc Quan Công phải chém đầu Sái Dương trong ba hồi trống thể hiện một thái độ dứt khoát và cương quyết, đây cũng là chi tiết đậm màu sắc Tam quốc nhất. Trương Phi biết rõ tài năng của Quan Công, Quan Công từng chém rơi đầu Hoa Hùng, một viên tướng giỏi và trở về doanh trại mà chén rượu vẫn tồn tại đó nóng. Việc Quan Công chém được Sái Dương không phải là việc khó nhưng lại rất có ý nghĩa sâu sắc bởi đó là nhữngh duy nhất để Quan Công minh oan. Sự minh oan cũng không mấy khó khăn nhưng nó thể hiện thái độ dứt khoát và trắng đen rõ ràng của Trương Phi. Tác giả đã tạo thành một tình huống rất đặc sắc để vừa ngợi ca tình cảm anh em gắn bó nghĩa tình của Lưu, Quan, Trương vừa bộc lộ rõ tính nhữngh thẳng ngay của Trương Phi và đức độ của Quan Công.
Trương Phi và Quan Công là những tướng tài của nhà Thục, tiêu biểu cho nhà Thục. Lưu Bị và nhà Thục là nơi tác giả gửi gắm ước mơ của quần chúng nhân dân về một ông vua hiền, một triều đình chính nghĩa và nhân đạo. Với lối kể chuyện dân gian, đơn giản hoá tình tiết trong sự đa dạng của sự kiện, Tam quốc diễn nghĩa đã đạt đến chuẩn mực của nghệ thuật kể chuyện. Tam quốc diễn tức là tiểu thuyết cổ trang tiêu biểu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Thành công của tác phẩm không những bởi giá trị lớn của tác phẩm về quân sự, lịch sử và về đạo đức mà còn bởi toàn cầu nhân vật được xây dựng rất thành công. Những nhân vật tiêu biểu của Tam quốc diễn nghĩa trở thành rất quen thuộc đối với văn hoá và người đọc phương Đông.
Không đi sâu khai thác tính nhữngh bằng diễn biến tâm lí nhân vật như tiểu thuyết hiện đại mà xây dựng tính nhữngh nhân vật bằng những hành động, cử chỉ có ý nghĩa sâu sắc khái quát, La Quán Trung vẫn xây dựng được một toàn cầu nhân vật đa dạng có khả năng bao quát và tái hiện sinh động một giai đoạn lịch sử dài gần một trăm năm với rất nhiều biến động. Qua đây tác giả đã gửi gắm những suy nghĩ và thể hiện cái nhìn của tớ về xã hội Minh Thanh. Chỉ với cùng một đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nhưng hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã nổi lên vẻ đẹp sáng ngời về lòng nhân nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em, tôi chúa. Là tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc đã để lại rất nhiều những mẩu truyện giáo dục nghĩa tình, giáo dục lối sống, lối ứng xử theo tiêu chuẩn Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của người quân tử phương Đông.
Lời giải
Dàn ý phân tích bài Lính đảo hát tình ca trên đảo
Mở bài: Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm.
Thân bài:
- Phân tích cuộc sống của những người chiến sĩ biển đảo trong 4 câu thơ đầu.
- Khúc tình ca nới hải đảo đầy nắng gió.
- Đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ.
Kết bài:
Khái quát nội dung và cảm nhận về bài thơ.
Mẫu 1
Nếu nói những con chữ là tinh hoa nghệ thuật thì những thi nhân chĩnh là những nhà nghệ sĩ. Họ dùng con chữ để vẽ ra những bức tranh tuyệt đẹp. Trần Đăng Khoa chính là một nghệ nhân như vậy. Qua bài thơ Lính đảo hát bài ca trên đảo, những cảnh vật, con người xuất hiện lung linh. Vẻ đẹp ấy càng tôn lên được ý nghĩa của việc họ đang làm, của nhiệm vụ thiêng liêng canh giữ nói đất đảo. Hình ảnh của những người lính được ông khai thác dưới một góc nhìn vừa thơ mộng, vừa thể hiện được hết sự khó khăn của cuộc sống nơi hải đảo xa xôi.
“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Ngay đoạn mở đầu, người đọc đã thấy được hết những cái khắc nghiệt của hải đảo. Nơi đây chỉ thấy nắng và gió, đảo theo dòng nước mà luôn thay đổi hình dáng. Trên nền khung cảnh tưởng chừng như chẳng thấy điểm cuối ấy, chim hoang vẫy cánh làm cảnh vật càng thêm tiêu điều. Mỗi ngày, cuộc sống con người nơi đây đều phải chịu sự vất vả ấy. Nhưng chính do đó, họ dần quen thuộc và bình thản trước những sóng gió ấy. Trên nền cảnh vật xơ xác, sự mãnh liệt và quyết tâm của những người lính làm sáng lên cả bức tranh chỉ toàn gam màu vàng và xanh. Họ lạc quan, cổ vũ nhau tiến bước về phía trước mặc cho sự vất vả vây quanh. Với họ, có lẽ chỉ cần có “chiến hữu” thì chẳng còn khó khăn mà chỉ có niềm vui và những điều thú vị. Hình ảnh so sánh mây nước như một buổi biểu diễn, màn ấy là một sân khấu lơ lửng giữa đất trời. Đó là một cách liên tưởng vô cùng độc đáo và thú vị của tác giả.
“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh
Hóa ra là sư cụ hát tình ca”
Những câu thơ tiếp theo đây vẫn là hình ảnh khắc nghiệt của thiên nhiên vùng hải đảo. Không chỉ gò cát làm hoạt động những người lính khó khăn, mà nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe của họ. Những người lính hiện lên với hình ảnh ai nấy đều trọc đầu, kể cả già trẻ đều như nhau. Đó chính là do họ tự cạo hết tóc của mình để tránh dùng nhiều nước trong khi vệ sinh cá nhân. Bởi nơi đây, thứ hiếm hoi và cần tiết kiệm nhất chính là nước ngọt. Quanh đảo đều là nước, nhưng đó đều là nước biển mặn chát không thể sử dụng được. Thứ những người đất liền chúng ta không coi trọng, lại được những con người ở đó quý trọng đến từng giọt nhỏ. Để làm dịu đi bầu không khí nặng nề ấy, tác giả đã sử dụng những ngôn ngữ, hình ảnh hài hước. Đó là câu nói những người lính đầu trọc trông thật “tếu” và đùa vui so sánh họ với hình ảnh “sư cụ”. Sự đoàn kết của những người lính không chỉ còn là đồng chí, họ là những người anh em cũng chung hoạn nạn, là những người như một gia đình. Và cuối đoạn, bài ca ngân lên với giai điệu nhẹ nhàng như sóng biển. Đó chính là sự quyến rũ khi người và vật hòa quện vào nhau, khi thiên nhiên đàn, biển tấu và con người ngân nga khúc tình ca.
“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…
Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước
Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”
Giọng hát như con người, những người lính cất giọng được miêu tả là ngang tàng,đúng chất những người chiến sĩ. Tuy nhiên giai điệu họ đang ngâm lại là những khúc tình ca lãng mạn toàn nhớ với thương. Lời ca ấy thể hiện sự yêu đời, lạc quan, cũng là niềm khao khát về một tình yêu của những người lính trẻ. Trong đêm ấy, tạm bỏ hết những gánh nặng trên vai, họ cũng chỉ là những chàng trai qua đôi mươi đầy khao khát, mong chờ. Những hình ảnh tiếp theo là sự ao ước về một viễn cảnh hạnh phúc. Rời xa hiện thực, mọi người như chìm vào đó với biển đảo, những sự vật nơi đất biển. Hai câu thơ cuối, “Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này” như một lời tuyên thệ. Họ sẽ vẫn đứng đó để bảo vệ từng tấc đất. Bởi sự hòa bình, một đất nước toàn vẹn cũng là khởi đầu từ sự yên bình nơi hải đảo xa xôi.
“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”
Sau đoạn ngân lên đầy những cảm xúc, tác giả cũng thăng hoa trong những con chữ bay bổng. Bỗng “bàng hoàng” nhìn lại, như có gì kích động tác giả. Hóa ra đó là những “đầu trọc” của đồng đội, như đưa mọi người về lại hiện thực và trách nhiêm của mình. Tuy nhiên, khi đọc đến đây, người đọc lại chẳng cảm nhận được sự khó chịu của những người lính. Họ cam tâm làm tất cả vì Tổ Quốc thân yêu.
Với ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng lại như một bài ca du dương, Trần Đăng Khoa còn sử dụng rất nhiều từ gợi hình để làm người đọc hiểu rõ thêm về cuộc sống và con người ở vùng đảo xa xôi. Đó là những con người vừa dũng cảm, vừa mang trong mình tinh thần và tình yêu tha thiết. Cách trang giấy mà ta vẫn có thể hình dung được những người ấy, đẹp đẽ và nên thơ đến vậy!
Mẫu 2
Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi (puskin). Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình, là tiếng nói tình cảm là những rung động của trái tim con người trước cuộc đời. Ta say đắm trước áng mây hồng của buổi sớm mai bình minh hay áng mây buồn khi chiều tà khuất lối? Ta rung động trước cánh hoa đẹp lung linh kiều diễm hay những cánh đồng lúa úa tàn không sinh khí? Thơ không chỉ là những đóa hoa cao sang kiều diễm mà thơ đôi khi là những cơn gió rít lên từng hồi, là những làn sóng dồn dập vỗ về bờ cát trắng hay chỉ là những con người chân phương hiện lên đầy chất phác đến đáng yêu. Là một làn gió không mấy xa lạ, nhưng sức sống mà nhà thơ ấy thổi vào đem đến một làn gió mới mẻ gợi những rung cảm sâu xa cho người đọc. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo của nhà thơ Trần Đăng Khoa là một “bài ca” như vậy.
Thơ là cuộc hôn phối giữa con người và vũ trụ. Thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc sống nên “Nhà thơ tuy chẳng muốn, cũng thấy mình bị ràng buộc vào biến chuyển lịch sử”_ John Perse. Như vậy dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn chảy trong biển lớn của cuộc đời và nhà thơ không thể đứng ngoài dòng chảy ấy. Hơn ai hết họ là người cảm nhận cuộc sống mãnh liệt nhất, tinh tế nhất. Trần Đăng khoa đứng trong dòng chảy của thời đại để cất lên những vần thơ trong trẻo bình dị mang đến sức rung cảm mãnh liệt cho người đọc. Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sống với điều kiên khắc nghiệt… nhưng tâm hồn họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời hát của tự do của tâm hồn, bài hát của tình yêu tổ quốc tình yêu quê hương đất nước. Dù chưa biết “người thương” ở phương nào, họ vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề biết “bóng dáng nào sẽ đến” với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.
“Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa”
Trần Đăng Khoa được biết đến là nhà thơ viết nhiều về thiếu nhi và những sáng tác của ông dành nhiều cho thiếu nhi đã tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng của ông. Nhưng điều đó không có nghĩa là những sác tác của ông ở ngoài vùng sở trường lại mờ nhạt, nghèo nàn. Nếu ta đã quen với hình ảnh chú bộ đội cụ hồ xuất thân từ những người nông dân chân chất trong bài thơ Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu hay những chàng thanh niên yêu nước đi theo tiếng gọi của tổ quốc trong bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng hát chung khúc hát về người lính, “lính đảo hát tình ca trên đảo” mang một giọng văn riêng, âm sắc riêng – thật mới mẻ và đặc sắc giữa cõi văn chương. Vẫn là những anh lính đảo sống giữa muôn trùng sóng nước thiếu thốn đủ bề mà luôn lạc quan, yêu đời. Khổ thơ đầu tiên mở ra cho ta thấy về những buổi liên hoan văn nghệ của người lính đảo. Người lính đâu chỉ có khô cằn cứng nhắc trong điều lệ, nội quy, họ cũng có lúc bay bổng, thăng hoa trong lời ca tiếng hát. Với tâm hồn lồng lộng biển khơi, yêu đời, yêu cuộc sống, người lính đã tự làm sinh động cho nhịp sống thường nhật buồn tẻ chốn hoang sơ củ mình bằng những giai điệu du dương, ngang tàng chất lính. Ta đã quen với một sân khấu với giàn âm thanh ánh sáng lộng lẫy, những vũ công diễn viên xinh đẹp thì ở nhưng người lính sân khấu của họ thật đặt biệt. Sân khấu của họ chẳng cầu kì như lẽ thường phải thế. Sân khấu của họ được kê bằng đá san hô, còn cánh gà chôn mấy tấm tôn tạm bợ. Họ trang trí nơi biểu diễn nghệ thuật bằng những thứ chẳng có tính nghệ thuật – những thứ vốn có sẵn trong cuộc sống thường ngày. Điều đó nói lên rất nhiều những thiếu thốn, gian khổ của người lính chốn biển đảo xa xôi. Đất nước mình những năm 80 còn khó khăn vất vả gấp bội phần. Những thiếu thốn ấy đã được những chàng lính yêu đời, lạc quan biện luận bằng một lí do rất chân thực. Theo lời phân trần của người lính, thì sự tạm bợ của họ không hẳn vì họ không có phông màn trang trí cho sân khấu mà vì: “chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa” thật dễ thông cảm biết bao với cái lí do bất khả kháng ấy. Đọc câu thơ này của ông ta chợt nhớ đến bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:
“ Xe không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi..”
Những con người lạc quan luôn nhìn thấy trong khó khăn những điều thú vị như vật đó.
Qua sự phân trần của những người lính, người đọc mới hiểu hơn về một Trường Sa khắc nghiệt đến bội phần:
“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Lời thơ như khắc họa trong tâm trí người đọc một trường sa đầy nắng và gió. Gió mang cảm giác bỏng rát trên mặt trần, gió tùng sỏi cát như lũ chim hoang, gió làm biến đổi hình dạng của đảo mỗi ngày… hai câu thơ giàu sức gợi mang đến những những cảm nhận có phần khá lạ lẫm trong lòng người đọc về thiên nhiên trường sa, bởi không phải ai cũng từng được trải nghiệm sức mạnh khủng khiếp của nắng gió nơi đây. Cuộc sống mỗi ngày phải đối diện với khó khăn, vất vả thế nhưng thật thú vị, người lính nói về đièu đó một cách thản nhiên, bình thản như đó là một phần hương vị của cuộc sống, không có gì đáng bận tâm. Họ không lấy điều đó làm phiền, ngược lại họ vẫn sống lạc quan yêu đời.
“Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Người lính bỏ lại tất cả sau lưng những khó khăn để vui sống mỗi ngày. Niềm vui ấy là cùng các chiến hữu cất cao lời hát, niềm vui ấy không cầu kì mà đậm chất lính. Sự phối hợp hài hòa đối lập nhau giữa hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt trong những câu thơ trên và tâm hồn phơi phới của những chàng lính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Trần đăng khoa đã mượn gian nan, khắc nghiệt của cuộc sống làm đòn bẩy nâng cao vẻ đẹp tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính. Cách nói mây nước mở màn của nhà thơ thật lạ, thật thú vị. Màn ở đây là màn sân khấu. Sân khấu dựng giữa đất trời mênh mông nên mấy nước mở màn là một liên tưởng độc đáo. Sân khấu ấy thiế phông màn vải vóc sặc sỡ, được thay bằng mây nước biển khơi.
“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh
Hóa ra là sư cụ hát tình ca”
Sự khắc nghiệt của thiên nhiên không chỉ cản trờ người lính trong hoạt động nghệ thuật nữa mà còn khiến cho những người lính ấy phải cạo trọc đầu để chống chọi lại sự thiếu thốn ấy. Ở nơi biển đảo hẻo lánh ấy thứ còn quý hơn vàng có lẽ là nước ngọt. Một tài nguyên ta cho là tầm thường và hiện hữu quanh ta nên ta chẳng biết quý trọng. Chỉ khi ta đặt mình vào vị trí của những người lính ấy bốn bể đèo là cát trắng và nước biển mặn chát là gió rít từng hồi rát cả da thịt… ta mới hiểu được câu thơ “Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc” những anh chàng đầu trọc khiến ta liên tưởng tới những người lính đầu trọc trong tây tiến của Quang Dũng:
“Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữu oai hùm…”
Đều là những khó khăn xuất phát từ hoàn cảnh, nhưng ý chí kiên cường của người lính có lẽ còn cứng rắn hơn bất kì thứ gì khác. Diễn viên và khán giả ở đây đều là những anh chàng “trọc đầu” trông thật tếu. Những người thanh niên ấy đã hi sinh tuổi trẻ, thanh xuân của mình để bám trụ lại nơi địa cùng tổ quốc để giữ yên từng tấc đất nơi đây. Họ cũng như chúng ta, họ cũng biết làm đẹp cho bản thân chứ, ai lại muốn “đầu trọc” bao giờ, nhưng bởi vì nước ngọt ở đảo trường sa ấy còn khan hiếm lắm đâu chỉ dùng để tắm gội thôi đâu mà còn để uống để sinh hoạt nấu nướng.Điều kiện sống của những người làm nhiệm vụ ở Trường Sa còn có quá nhiều thiếu thốn, gian khổ, đến mức khắc nghiệt. Cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ ở đây còn nhiều khó khăn: thiếu nước ngọt, thiếu rau xanh, thiếu văn công và các hoạt động nghệ thuật. Nhưng, ở nơi đầu sóng ngọn gió, hàng ngày, thậm chí hàng giờ, những người lính canh biển luôn trong tư thế sẵn sàng. Không có sự yếu lòng trước những thử thách của cuộc sống. Khó khăn vất vả là vậy tình đồng chí đồng đội luôn thắp sáng và sưởi ấm con tim của những người cầm súng bảo vệ nơi đầu sóng. Họ biết yêu thương nhau, tạo niềm vui cho cuộc sống của mình. Họ cùng nhau lắng nghe khúc tình ca của biển cả, những cơn sóng ôm ấp chồng lên nhau tạo nên một giai điệu rất riêng mà có lẽ chỉ những người sống trên vùng đất này mới cảm nhận hết được vẻ đẹp này. Biển hiền hòa êm dịu, biển êm đềm khúc hát…. mãi mãi khúc tình ca. Con người và thiên nhiên hòa làm một, con người là trung tâm của vũ trũ và thiên nhiên là nền trời cho con người tỏa sáng. Khúc hát rì rầm ấy khi nghe người ta cũng chẳng biết được là trái tim của người lính đang thổn thức hay là lời thì thầm của biển cả.
Hơn bao giờ hết, bản tình ca này đặc biệt hơn thế:
“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…”
Đâu chỉ những nốt nhạc mới làm nên giai điệu, đôi khi chỉ là tiếng du dương rầm rì của sóng vỗ lao xao của gió biển lay đưa hàng dừa ….. chúng hòa trộn vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng đậm hương vị mặn mà của biển. Nói đến giai điệu, chắc hẳn ai cũng nghĩ rằng nó sẽ là sự êm ả vui tai, nhẹ nhàng mà trầm lắng nhưng với Trần Đăng Khoa giai điệu được ví ngang tàng như sóng biển. Lời ca ấy không chỉ là yêu đời, một tinh thần lạc quan mà còn chứa đựng một nỗi nhớ và tình thương sâu nặng. Lời ca nào mà chẳng có tình yêu, huống chi đó là lời ca xuất phát từ con tim của người chiến sĩ. Làm nhiệm vụ xa nhà chắc hẳn các anh rất nhớ đất liền. Nhưng tạm gác lại nỗi nhớ nhiệm vụ mà các anh gánh vác trên vai còn cao cả hơn thế. Đêm buông xuống, màn nhung đen phủ kín bầu trời chẳng còn nhìn rõ được gì nữa. Chỉ có tiếng hát là vang vọng mãi biển xa. Tiếng vỏ ốc va vào nhau sau từng đợt sóng được nhà thơ nhân hóa lên thành vỏ ốc cất lời làm cho lời như sống dậy, sinh động hơn.
“Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước”
Ở độ tuổi đẹp nhất đời người, đôi mươi sung sức có lẽ các anh chiến sĩ nơi đây cô đơn lắm vì chẳng ở gần người thương. Họ ao ước vào những đêm trăng sáng, được năm tay người mình yêu đi dạo, được ngắm nhìn khuôn mặt dịu dàng của em dưới ánh sáng lấp ló qua hàng cây… thật lung linh tuyệt đẹp. Nhưng khi mở mắt ra, mọi ao ước đều ảo mộng mơ phai, chỉ nghe bên tai tiếng sóng vỗ rì rào. Và tay mình lại nắm lấy chính tay mình. Khó khăn cô đơn là thế nhưng họ vẫn rất lạc quan, họ vẫn mong chờ người mình yêu đang ở một nơi nào đó đợi mình. Người ấy ở đâu, như thế nào cũng chẳng biết nữa chỉ biết là khi mở mắt ra, bốn phía bao quanh mình đều là mây nước lồng lộng.
“Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”
Dù ở hoàn cảnh nào, dù gặp khó khăn gì họ vẫn cất cao tiếng hát của tâm hồn, một tâm hồn cao cả và đa cảm. Dù chưa biết mai này mình sẽ yêu ai, chưa biết chủ nhân của bức thư tình là người nào nhưng các anh vẫn trung trinh một tấm lòng chung thủy. Lời hát cất lên như một lời thề son sắt, tình yêu vẫn còn trong tim dù là đứng trong đêm tối mịt mù tình yêu sẽ là ánh sáng dẫn đường , các anh vẫn sẽ ở đây, bảo vệ cho khoảng trời thân yêu này bởi Việt Nam bắt đầu tại nơi đây. Điệp lại cấu trúc thơ: “Nào hát lên; Rằng chúng ta, Rằng tình yêu”. Phép điệp cấu trúc giúp hai khổ thơ liên kết gần gũi, dễ đọc dễ nhớ giống đoạn điệp khúc của một bài hát.
“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”
Khúc tình ca ấy vẫn mãi ngân vang, bỗng chừng lại như một bản nhạc đang cao trào lên quãng 8 thì trầm xuống đến lắng đọng lòng người. Cảm xúc thăng hoa của tác giả như gặp điều gì đó bỗng trầm lắng xuống. Ngoài mép biển kia có gì đáng để nhà thơ phân tâm. Kết thúc bài thơ là một câu cảm thán mang ngữ khí bất ngờ, đặc biệt: “Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”, thể hiện thái độ bất ngờ về sự xuất hiện của những người lính đảo. Họ được ví như những hòn đá, chịu nắng chịu mưa để bảo vệ cho an nguy tổ quốc. Họ hi sinh thầm lặng, gạt bỏ những nỗi lòng riêng để cùng phục vụ cho một mục đích cao cả hơn hết đó chính là sự yên bình của đất nước nơi đầu sóng ngọn gió.
Với ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên pha chút đùa vui hóm hỉnh, những hình ảnh so sánh đối lập khá lạ. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là một bài ca hùng tráng về người chiến sĩ hải quân ở Trường Sa. Qua vài nét phác họa đơn sơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa ta có thể cảm nhận được những khó khăn, vất vả, thiếu thốn của người lính nơi biển đảo xa xôi ấy cũng như vẻ đẹp của tinh thần bất khuất, lạc quan yêu đời của họ. Tình cảm ưu ái và ngưỡng mộ của nhà thơ Trần Đăng Khoa dành cho họ cũng theo lời thơ mà bộc một cách tự nhiên, chân thành.
Mẫu 3
Một loạt bài thơ của Trần Đăng Khoa viết về biển đảo và người lính được bạn đọc hoan nghênh đón nhận như: Tự tình người lính biển, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài,... và đây là thi phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo. Bài thơ góp một giọng điệu rất riêng, vừa tươi vui, hóm hỉnh nhưng cũng cảm động, sâu lắng về cuộc sống của người lính nơi đảo xa. Nhờ đó, tác phẩm neo vào lòng người sâu sắc, bền chặt suốt mấy chục năm qua.
Khổ đầu trong bài thơ được Trần Đăng Khoa miêu tả sự khắc nghiệt về thời tiết nơi quần đảo Trường Sa nhiều nắng gió. Cái sân khấu dựng lên giữa trời biển bao la ấy phải kì công và độc đáo lắm mới chịu nổi cái gió như quăng quật, tấp táp vào mặt con người. Sân khấu kê lên từ đá san hô biển, cánh gà phải dựng bằng tôn, tất cả đều tạm bợ thế thôi, vì không có phông màn nào chịu nổi thông thốc của gió trời biển đảo:
Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn máy cánh gà
Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa.
Nhưng sự thú vị nhất lại nằm ở khổ thơ thứ hai. Ở đây có sự đối lập giữa cái khắc nghiệt của thiên nhiên và sự dũng cảm, lạc quan của người lính. “Gió rát mặt”, “sỏi cát bay như lũ chim hoang”, thuỷ triều xuống lên liên tục khiến cho đảo cũng thay hình đổi dạng không ngừng. Quả là một vùng đất đầy gian nan, thử thách đối với người lính. Tuy vậy, người lính vẫn hiên ngang, lãng mạn và hào sảng:
Gió rát mặt, Đảo luôn thay hình dáng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Máy nước đã mở màn...
Từ “mây nước mở màn”, hình tượng người lính đảo hiện lên thật độc đáo, tếu táo qua hình dáng bên ngoài lẫn vẻ đẹp tâm hồn, nhờ đó đã giúp cho Trần Đăng Khoa có được một giọng thơ hóm hỉnh, bông đùa nhưng tạo được cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
Cuộc sống trên đảo Trường Sa khắc nghiệt, gian khổ “đến một cái cây cũng không sống được”, thành ra người lính cũng phải chấp nhận để thích nghỉ với môi trường. Thiếu thốn đủ thứ, trong đó có nước ngọt, vì vậy phần lớn họ phải cạo trọc đầu cho đỡ rít khi không có nước ngọt gội tóc, thành ra “lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”. Đọc đến đây, hẳn chúng ta không thể quên hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, cũng tếu táo và có vẻ “bặm trợn” khác thường giữa cuộc sống núi rừng miền Tây Bắc khắc nghiệt: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm”:
Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng... rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau.
Họ gọi đùa nhau là “sư cụ”, là “bà con xa với bụt ốc”, thế hoá thành vui nhộn vì cảnh tượng “sư cụ hát tình ca” mới đưa duyên và “sóng sánh” làm sao! Quả vậy, chính cuộc sống gian nan giữa nước trời thăm thẳm ấy, hình tượng người lính Trường Sa hiện lên thật lãng mạn và hào hoa. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng: Khát khao một tình yêu chảy bỏng, bày tỏ sự nồng nàn và chung thuỷ thiết tha.
Cái giọng tình ca ở đây cũng thật kì lạ, cứ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ không chê vào đâu được, bồi hồi bỏng cháy “toàn nhớ với thương thôi”. Có lẽ chính những năm tháng sống cùng đồng đội nơi biển cả bạc trùng, nơi đảo nổi, đảo chìm của Tổ quốc giúp Trần Đăng Khoa có được chất liệu hiện thực chân thật và sâu sắc đến thế. Đọc thơ, người đọc không chỉ hiểu thêm về cuộc sống người lính Trường Sa mà còn để trái tim mình cảm thông và rưng rưng xúc động. Chính cái giọng phớt đời, tưng tửng lại là chỗ xót xa và lấy nhiều nước mắt của người đọc:
Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như vỏ ốc cất thành lời...
Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng
Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình.
Hóm hỉnh nhất là khổ thơ với các câu hỏi tu từ tự vấn về người yêu của người lính đảo. Họ hát tình ca, yêu đắm say và nhớ thương tha thiết chỉ qua tưởng tượng, thành ra họ hình dung về người yêu của mình cũng có năm bảy đường khác biệt. “Các em ở phương nào?”, “Các em cao hay thấp?” Xót xa nhất là bóng dáng nào sẽ đến với các anh như một câu hỏi xoáy sâu vào lặng lẽ, vào thăm thẳm ruột gan mong chờ khao khát mỗi khi đêm về trông ra chỉ bốn bề mây nước âm u:
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước.
Lãng mạn, hào hoa là thế, nhưng chất lính, sự kiên cường và dấn thân của người lính mới chính là vẻ đẹp cao cả về lòng yêu nước. Hát tình ca để khẳng định tình yêu thuỷ chung, khẳng định chủ quyền đất nước. Nhà thơ không nói hết, nhưng đó là tiếng nói phản kháng chiến tranh, là tiếng nói nhân văn sâu sắc. Cao hơn, hình tượng người lính đứng giữa trời nước bao la bảo vệ chủ quyền thiêng liêng cho Tổ quốc chính là trách nhiệm lớn lao, thiêng liêng không gì sánh được:
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngục ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này.
Đến cuối bài, giọng điệu và hình ảnh thơ vẫn sống động, hóm hỉnh và tếu táo mang đậm phong cách thơ Trần Đăng Khoa. Hình ảnh “toàn những đá trọc đầu” khi thuỷ triều vừa rút như một kết thúc bất ngờ và ám ảnh. Đó là cả một sự quan sát, một phút xuất thần để có những câu thơ hay:
Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ô, hoá ra toàn những đá trọc đầu....
Mẫu 4
Lính đảo hát tình ca trên đảo của Trần Đăng Khoa là một bài thơ hay, để lại ấn tượng sâu sắc từ khi ra đời cho đến nay. Từ cầu tứ, hình ảnh, giọng điệu, tất cả đọc lên cứ vừa tếu táo, bông đùa nhưng lại cảm thương sâu sắc về cuộc đời người lính biển. Họ trở thành tượng đài bất khuất giữa trùng khơi, như một minh chứng cho lòng quả cảm, sự kiên cường của một dân tộc chưa bao giờ khuất phục, sẵn sàng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Tình ca và hùng ca, hóm hỉnh và lắng đọng, trần trụi và đầy suy tư,... là những trạng thái cảm xúc hài hoà, gắn kết xuyên suốt bài thơ [...] Qua đó, khơi dậy niềm tự hào và tình yêu biển đảo đối với thế hệ trẻ, nhất là ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của người lính biển trong vai trò bảo vệ chủ quyền đất nước trong giai đoạn hiện nay.”.
Mẫu 5
Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sân khấu xếp bằng đá san hô, cánh gà chôn bằng mấy tấm tôn, ca sĩ toàn là những anh chàng đầu trọc (họ phải cạo trọc đầu để tiết kiệm nước ngọt vệ sinh)... nhưng tâm hồn của họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời ca tiếng hát, những tiếng hát ngang tàng, toàn nhớ với thương. Dù chưa biết "người thương" ở phương nào, họ vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề biết "bóng dáng nào sẽ đến" với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.
Câu 6
Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm Giang (Bảo Ninh).
Lời giải
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
· Giới thiệu tác phẩm và tác giả.
· Nêu nhận xét khái quát về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
b. Thân bài
· Cuộc gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” với Giang:
o Thời gian: những ngày giáp Tết, trời mưa rất mỏng cũng chưa tối hẳn
o Địa điểm: cái giếng xây ở đầu trấn
o Hoàn cảnh gặp gỡ: khi Giang đang đi gánh nước và nhân vât tôi (tác giả) cũng đến giếng để “ rửa ráy qua loa tí chút và xâu lại dép”. Giang giúp “tôi” múc nước.
o Hành động của Giang:
o “Không xối cho tôi tự gột mà cúi mình xuống một tay nghiêng gầu nước dội nhè nhẹ, một tay cô cọ bùn đất ở ngón chân, bàn chân và bắp chân tôi”.
o “Cô cọ kĩ cho tôi đôi dép đúc”
=> Hành động ân cần, chu đáo, tinh tế và khéo léo, “ ân tình hồn nhiên”.
o Thái độ của nhân vật kể chuyện: sững sờ đến bất động, hạnh phúc và biết ơn.
· Cuộc trò chuyện giữa nhân vật “tôi” và Giang tại nhà:
o Nhà của Giang:
o Đi sâu vào ngõ tối, một mình Giang một túp lều nhỏ, mái gianh vách đất.
o Một chiếc giường đơn, ngọn đèn hoa kì trên chõng tre, chiếc xe đạp Phượng Hoàng.
=> Hoàn cảnh gia đình cũng khó khăn, thiếu thốn.
o Giang dọn cơm mời “tôi” dùng bữa.
=> Ấm áp, mến khách.
o Cuộc trò chuyện giữa bố Giang và “tôi”:
o Bố Giang cũng là trung tá quân đội, là một người đàn ông cao lớn
o Ban đầu sắc mặt nghiêm nghị, nhìn chằm chằm hỏi chuyện
o Nhưng sau dịu nét mặt hơn, mỉm cười, động viên “tôi”
o Cho phép Giang lấy xe đạp đèo “tôi” về đơn vị
=> Người đàn ông mẫu mực, đường hoàng nhưng cũng rất tình cảm
· Cuộc chia tay giữa Giang và “tôi”:
o Giang đèo tôi bằng xe đạp vào tận đơn vị ở Bãi Nai.
o Nhắn nhủ nếu có cơ hội hoặc Tết mời đến nhà Giang chơi.
o Chiêm nghiệm của tác giả về cuộc sống chiến tranh khốn khó, nhiều mất mát đau thương.
=> Cuộc chia tay đầy xúc động, bịn rịn. Bên cạnh đó là những chiêm nghiệm về nỗi đau, những tổn thất quá lớn mà chiến tranh gây ra.
· Tổng kết:
o Về nội dung:
o Văn bản tái hiện cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ nhưng rất tình cảm giữa các nhân vật Giang, bố của Giang và nhân vật “tôi”, đằng sau nó ẩn chứa đầy ắp tình thương, tình người của đồng bào trong những ngày kháng chiến trường kì, gian khổ nhưng huy hoàng.
o Về nghệ thuật:
o Giọng văn tự nhiên, nhẹ nhàng
o Lối kể chuyện chân thật, tỉ mỉ nhưng giàu cảm xúc
c. Kết bài
Mẫu 1
Truyện ngắn Giang của Bảo Ninh là một truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh. Chủ đề của truyện ngắn cũng như hình thức nghệ thuật trong Giang rất nhẹ nhàng, nhưng khắc khoải, khiến cho con người ta phải suy nghĩ mãi. Đó có lẽ là sự thành công trong truyện ngắn này của nhà văn Bảo Ninh.
Chủ đề của Giang là sự gặp gỡ và nỗi nhớ của những con người trong chiến tranh. Không giống với hiện thực chiến tranh ở các tác phẩm văn học cách mạng vốn là sự chiến đấu hay anh dũng, hiện thực chiến tranh trong Giang của Bảo Ninh là một hiện thực khác. Đó là một hiện thực với cuộc gặp gỡ thoáng chốc mà nỗi nhớ đến cả đời người, day dứt. Chiến tranh đã chia cắt con người ta, đã chia cắt sự lãng mạn lứa đôi, không cho con người ta ngày gặp lại. Hiện thực ấy cũng rất tàn khốc chẳng kém gì máu và đạn bom nơi chiến trường. Với một chủ đề như vậy, Giang đã thành công để bạn đọc đón nhận.
Sự thành công của truyện ngắn này không chỉ nằm ở đề tài hay chủ đề mà còn nằm ở hình thức nghệ thuật. Với điểm nhìn của người kể chuyện xưng "tôi" - trực tiếp tham gia vào câu chuyện, truyện ngắn trở nên gần gũi hơn khi là lời chia sẻ của người trong cuộc. Người kể chuyện ở đây dẫu "hạn tri" nhưng lại đúng là bản chất của con người trong cuộc sống hiện thực - không bao giờ biết được tất cả.
Như vậy, có thể thấy chủ đề và hình thức nghệ thuật trong Giang đã làm nên sự thành công cho truyện ngắn này. Truyện ngắn Giang của Bảo Ninh đã cho tôi hiểu thêm về cuộc đời, số phận của con người trong chiến tranh.
Mẫu 2
Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, trải qua những cuộc phiêu lưu và chiêm nghiệm cuộc sống chắc hẳn ai cũng có cho mình những khoảng nhất định đễ giữ trong lòng mình, đó là những điều quý giá vô hình mà không một điều gì ở thực tại có thể mang lại được. Cuộc sống là chuỗi những sự kiện biến hoá, trôi chảy theo bánh xe thời gian, con người ta cứ men theo cái vành đai ấy mà chạy, mà đi để tìm kiếm những điều mới mẻ. Trải qua nhiều chuyện, có lúc vấp ngã, có lúc thăng hoa nhưng những gì mà ta đã từng trải qua nó quý giá vô cùng, đến độ ta cứ ngỡ là mãi mãi không bao giờ quên được. Việt Nam trải qua hàng nghìn năm chiến đấu chống giặc ngoại xâm, từ giặc phương Bắc đến phương Tây, dù trong những cuộc chiến nào những người lính trẻ vẫn luôn sẵn sàng đứng lên bảo vệ tổ quốc. Bởi họ yêu cuộc sống hồn nhiên mơn mởn của chính mình, họ yêu quê hương đất nước, họ muốn có được tự do để thoả sức vùng vẩy trong mưa bom bão đạn. Chính từ những trang chiến tranh đẫm máu, không gì có thể ngăn cản họ, họ luôn hừng hực ngọn lửa tình yêu bỏng cháy trong trái tim ấm nóng, chiến tranh qua đi, những kỉ niệm ấy như một khoảng trống không bao giờ được lấp đầy, thổn thức và nhớ mãi. Có những kỉ niệm mà chỉ khi hoà mình người ta mới dám bộc bạch, có những con người in sâu trong tâm trí đến nay mới được nhắc đến, có lẽ nổi nhớ là để bày tỏ, không phải cất trong lòng. Cũng từng là một người lính, cũng từng là một thanh niên xung phong, nhà văn Bảo Ninh cũng có những điều thật đẹp trong trí nhớ của mình về một cô gái, cứ ngỡ quen nhau thoáng chốc nhưng lại nhớ nhau một đời. Giang, Phạm Nhật Giang, bóng hồng khó phai trong kí ức của một người nghệ sĩ.
Mẫu 3
Nhà văn Bảo Ninh từng chia sẻ về nghiệp văn của mình như thế này : “Chiến tranh và văn chương song hành. Từ xưa đến nay, trong khói lửa chiến tranh luôn sản sinh những tác phẩm văn học. Cuộc chiến chống Mỹ của Việt Nam cũng vậy. Cũng như các bạn hữu cùng thời, đa số nhà văn, nhà thơ thế hệ chúng tôi, đều đã kinh qua chiến trận. Bản thân nếu như không trực tiếp lăn lộn trên các chiến trường, tôi đã không thể là nhà văn mà có lẽ đã làm một nghề khác”. Có lẽ nghiệp văn đến với ông không phải là một sự tình cờ, mà gắn liền với vận mệnh và tinh yêu đất nước. Từ những cuộc chiến tranh thành Troy mà Homero viết nên hai bản hùng ca Iliat và Odixe, hay từ những con đường mùa đông ảm đạm của nước Nga mà Puskin đã viết nên bản thi ca Con đường mùa đông. Hiện thực là nơi bắt nguồn của văn học, cái chất văn chương của Bảo Ninh cũng không ngoại lệ. Là một người lính thực thụ, ong cảm nhận được những điều nhỏ nhặt nhất trong những năm kháng chiến, từng chi tiết nhỏ nhất cũng đi len lỏi vào trong tâm trí nhà văn một cách thấm nhuần và đầy thăng hoa, để sau này khi hồi ức lại trong những tập truyện của chính mình ông đã thực sự mỉm cười và nhớ mãi.
Phạm Nhật Giang, một mảnh kí ức khó phai của nhà văn trong những tháng ngày tuổi mười bảy, đến nổi ông lấy cái tên ấy đặt bút danh cho mình. Đến độ vậy có lẽ nó hết mực cảm động, cô gái ấy chắc hẳn đã có một vị trí nhất định trong nhịp thở của nhà văn. Chỉ một cuộc gặp gỡ ở giếng nước đầu làng mà nhớ nhung suốt một đời dai dẳng, chỉ vì những hành động nhỏ ân cần dịu dàng của cô gái ấy mà làm cho chàng trai mới lớn như Bảo Ninh đã thực sự rung động. Một cuộc gặp gỡ mà khiến cho những tâm hồn hai con người xa lạ gắn lại với nhau, dù ngắn ngủi, dù bỏ lỡ. Mãi sau này Bảo Ninh mới bộc bạch những suy nghĩ của mình về “nàng thơ” ấy trong tập truyện ngắn của mình, tình cảm có thể có ở quá khứ, hiện tại, hay tương lai nhưng điều quan trọng nhất là nó ở trong trái tim của chúng ta bao lâu. Đọc truyện ngắn Giang ta ngỡ như quay về độ tuổi xuân thì, nhìn đời bằng con mắt xanh non, con bắt biếc rờn mà đắm chìm trong những thẹn thùng của tình yêu tuổi trẻ. Một chàng lính trẻ ban đầu vẫn ngơ ngác về một chuỗi những sư việc xảy ra quá bất ngờ và khó xử, cho đến maĩ sau này khi nhớ về mảnh ghép ấy bỗng chột dạ và như muốn nói thêm một điều gì đó, nhưng sao thắng nổi thời gian, mọi thứ nay đã muộn, chỉ còn lại những kỉ niệm trên giấy và cảm xúc xưa cũ.
Năm ấy, vừa tròn mười bảy tuổi, chàng lính trẻ Bảo Ninh vừa kết nạp vào một tiểu đoàn 5 tân binh đóng quân ở Bãi Nai, vì đạt điểm cao nhất đại đội môn thiện xạ mà được chỉ huy cho phép hai ngày nghỉ. Anh lính trở về nhà nhưng cũng nóng lòng trở lại tiểu đoàn, mười hai giờ trưa đã tức tốc chạy ra bến xe Kim Mã để bắt xe cho kịp. Chính sự nôn nao ấy đã mở ra một cuộc gặp gỡ định mệnh của anh và Giang, một cô gái hiền lành và dễ mến. Chính cuộc gặp gỡ ấy đã gây nên cho chàng lính trẻ bao nhiêu thổn thức, đi từ những cung bậc cảm xúc khác nhau, mãi là những gì đẹp nhất của tuổi trẻ ngây thơ hồn nhiên. Độ sáu giờ chiều anh rời xe xuống thị trấn Lương Sơn, trời vừa lạnh, lại bị cái đói giày xé cả một ngày trời, chân tay thì lấm lem bùn đất, anh mon men đi đến cái giếng đầu làng để kiếm ít nước rửa trôi lớp bùn kia. Từ xa qua màn mưa bụi trắng như sương, lại thêm cái tối của buổi chạng vạng, bỗng anh nhìn thấy bóng người đang gánh nước, đến gần thì nhận ra đó là một cô gái, liếc nhanh qua chiếc nón mà cô ấy bỏ trên thành giếng lúc múc nước một cái tên được viết bằng thứ mực tím, cả tên cả họ cả lót, Phạm Nhật Giang. Cái tên nghe sao đẹp quá, một cô gái trạc tuổi mình, một chàng trai nào ở cái tuổi ấy mà không có chút bồi hồi trong lòng chứ. Cô ấy lại chẳng để ý đến anh, thản nhiên xách gánh nước lên chuẩn bị đi thì một giọng nói làm cô ấy quay đầu lại, “Kìa, Giang, cho anh mượn cái gầu đã nào”. Có lẽ trong cái giọng điệu ấy có chút gì đó ngọt ngào hay sao, mà Giang lại có cảm tình với anh lính trẻ ngày từ một câu nói trong lần đầu gặp. Giang giúp anh múc từng gàu nước lên để rửa đi cái bùn đất dính cứng trên cả người và đôi dép, không phải cô ấy xối từng gầu nước thản nhiên mà một tay đổ nước một tay chà rửa, anh lính đứng bất động, một hồi lâu cả hai người chẳng nói gì với nau. Trong cái không khí tỉnh lặng đầu trấn chỉ nghe tiếng kéo gầu róc rách, tiếng nước dội rửa, kì cọ, một người thì đứng im lìm, còn người kia thì làm việc không một lời hỏi thăm nào. Chính sự ngại ngùng ấy đã đem đến cho hai trái tim trẻ những cảm tình về nhau phút ban đầu, mở ra một cuộc gặp gỡ thoáng chốc nhưng đầy nhung nhớ. Thế rồi Giang ngạc nhiên bảo sao anh lính lại biết tên mình, cuộc trò chuyện về cái tên cũng khiến hai người bắt đầu thoải mái hơn, không ngại ngùn im bặt đi giống như vừa nãy nữa. Giang biết anh ở xóm Đượm, cô ngỏ ý muốn mời anh về nhà xơi miếng nước rồi nghỉ một chút. Chần chừ một lúc sau anh cũng theo Giang về. Anh muốn gánh hộ Giang gánh nước nhưng cô gái ấy không chịu, thế là anh đi theo Giang về nhà, đi sau bóng lưng của cô gái ấy anh cũng không nghĩ nhiều, nghĩ ngợi bân quơ rồi cũng tới nơi.
Mãi đi theo Giang trong cái ngõ tối, rồi cũng tới một căn nhà nhó chẳng có gì trong đó cả, có mỗi một chiếc giường đơn, chiếc đèn hoa kì đang loe loét trên cái chõng tre, anh bước vào nhà rồi lấy gói bánh bit cốt ra, rót miến chè tươi vào bát, định là ăn bánh rồi uống trà. Giang mời cơm nhưng anh lính lại từ chối, thế vẫn không thể từ chối được. Anh lính trẻ nằm lên chiếc giường ở giữa gian nhà, chắc hẳn đang suy tư mọi việc, chuyện gì đang xảy ra tthế nhỉ, một cô gái xa lạ mình vừa mới gặp lại mời mình đến nhà chơi, rồi lại ăn cơm nữa. Trong đầu anh lính hiện lên nhiều câu hỏi, có lẽ câu hỏi lớn nhất là Nhật Giang sao đối xử với mình như một người nhà vậy. Thế rồi anh cũng bặt đi, nằm trên giường chốc sau thì ngoài người có một dáng người cao lớn bước vào, anh miêu tả “Một người đàn ông to lớn bước mạnh vào…” “Ông nọ vận đại cán vải dạ xanh sẫm, giầy da Cuxughin, quân hàm ve áo hai sao hai vạch”, anh giật bắn mình rồi ngồi dậy thật nhanh, đón nhận sự ngạc nhiên và thắc mắc từ người đàn ông ấy. Ông nghiêm nghị hỏi “Cậu là ai, sao chui vào đây?”, chưa kịp dứt lời thì Giang đã từ nhà dưới đi lên nhanh nhảo trả chen ngang vào cuộc trò chuyện ấy “Bố về rồi đấy ạ”, rồi giới thiệu anh lính với một thân phận khác, một người bạn cùng lớp, tên Hùng, đóng quân gần đây, thế là anh lính đã nhẹ nhõm hơn nhưng cũng vô cùng ngỡ ngàng trước những lời nói của Giang. Rồi bố Giang hỏi anh mấy câu nữa, Giang thấy vậy liền nũng nịu bảo bố đừng làm khó anh nữa, rồi xin bố để chiếc xe đạp Phượng Hoàng để đèo anh về tiểu đội, anh cảm thấy vô cùng áy náy, nhưng vì sự nhiệt thành của Giang mà vẫn tiếp tục nán lại mặc dù rất muốn rời khỏi tình huống khó xử này.
Tối ấy, anh đèo Giang vào sâu trong Bãi Nai, suốt con đường lên dốc, xuống dốc, quành rẽ, lại thêm cái màn đêm tịch mịch, anh chỉ men theo cái vệt trắng của con đường mà đạp mải miết, không mệt. Đó là lần đầu tiên anh đèo con gái, nhớ lại lúc trước mẹ mua cho con Mipha chỉ dám đèo thằng bạn thân chứ đã đèo con gái bao giờ đâu, lần này là lần đầu tiên, anh lính vô cùng hồi hộp và chẳng biết nói gì trong suốt đưỡng đi vào Bãi Nai. Thi thoảng hai người nói chuyện, nhưng chỉ mình Giang nói. Cô ấy chia sẽ mình là trò Trưng Vương, giờ đang là sinh viên của trường Tổng hợp. Anh cứ thế chìm vào giọng nói ngọt ngào lánh lót của cô gái mới lớn mà quên bẵng đi phải kiếm câu chuyện gì đó về mình để nói. Đến khi Giang đề nghị Tết vào đơn vị chơi với mình anh chỉ biết thở một hơi thật dìa, rồi cũng trầm ngâm trong suốt một đoạn đường. Lúc chia tay anh nhìn bóng Giang đạp chiếc xe đạp nặng chịch ấy cứ thế mờ dần trong màn đêm tĩnh lặng, trong đầu cũng đang tự trách tại sao mình chẳng nói lời nào, chỉ biết cô ấy ở phố Khâm Thiên, ngõ Chợ. Anh bắt đầu có những cảm giác hối tiếc về sự im lặng của mình, phải chăng anh đã bỏ lỡ một cô gái tốt và vô cùng dịu dàng. Chính vì thế, mãi sau này khi hoà bình được lập lại, ngồi xuống viết nên câu chuyện như thế này, có muốn tìm Giang cũng chẳng biết ở đâu để lần. Có lẽ thời điểm đó có Giang rung động với anh ấy, còn người thanh niên chưa hiểu gì về những xúc cảm chắc bao trùm lên anh ấy chỉ là sự ngạc nhiên và bỡ ngỡ khi được một người lạ quan tâm và đối đãi như người trong nhà.
Hai ngày sau vào tối ngày hai mươi bảy tết, tiểu đoàn của anh lính nhổ neo rời Bãi Nai hành quân lên Thường Tín, bất ngờ anh lính trẻ lại gặp được bố Giang, thì ra ông ấy là tham mưu trưởng của chiến dịch lần này. Khi gặp lại người bạn của Con gái ông vô cùng mừng rỡ “ Hùng đấy hả Hùng, Giang nó cứ nhắc cậu mãi, nó cứ buồn vì không găp lại cậu trước khi chúng ta lên đường”, trong cái câu nói ấy chớm lên sự mừng vui và ngạc nhiên. Ông ấy còn bảo Giang muốn tặng anh một bức ảnh nhưng lại quên mang theo, để lần sau ông ấy đem đến, nhưng làm gì có lần sau nữa, ông ấy đã hy sinh trong trận chiến năm ấy. Thế mới thấy được sự tàn bạo của chiến tranh, người cha mất đi để lại cô con gái mới lớn ở lại, sao có thể diễn tả được niềm đau ấy. Sau lần đó, anh cũng không còn gặp lại Giang nữa, cuộc gặp gỡ hôm ấy là lần đầu cũng như lần cuối khi cảm nhận được sự ngọt ngào của một người con gái xa lạ. “Chiến tranh, đời lính, tuổi trẻ, mọi sự là như thế, chỉ thế thôi, thoảng nhanh. Nhưng không tắt lịm. Chỉ thế thôi nhưng để rồi sau này cứ nhớ mãi. Trở thành nỗi đau. Những nỗi đau mất mát âm thầm”. Cuộc đời của một con người cứ thế kết thúc, sự tàn ác của chiến tranh đối với con người Việt nam là rất lớn, sau cùng chỉ nỗi đau là dày vò người ở lại. Chắc hẳn bây giờ Nhật giang vẫn còn nhớ đến anh lính trẻ năm ấy, anh ta cũng chừng hề quên đi người con gái rửa tay rửa chân cho mình ở đầu trấn Lương Sơn năm đó, tất cả chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ, vẩn vơ nhưng sao lại in hằn lên trí nhớ một cách sâu sắc như thế. Suốt đời sẽ chẳng bao giờ quên được, kỉ niệm là thứ để ta cất giữ mãi mãi trong lòng.
Nghệ thuật sử dụng ngôi kể thứ nhất để thuật về những trải nghiệm trong cuộc đời chính mình là một nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật viết truyện ngắn của Bảo Ninh. Những sáng tác của ông vô cùng chân thực thấm đẫm chuyện tình, chuyện đời mà chỉ xuất hiện ở những người nghệ sĩ chân chính. Xúc cảm, nước mắt từ chiến tranh được nhà văn đúc kết một cách chắt chiu nhất để viết nên những thiên truyện vô cùng ý nghĩa. Ông đã quan niệm cái nghề văn này “Nghề văn là một nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ, nhà văn tự cho mình là kẻ có khả năng, có trách nhiệm, có ham thú đúc kết thế thái nhân tình đặng tìm ra cho mình và bạn đọc của mình những giá trị, ý nghĩa ở hiện tại vừa thay đổi không ngừng theo đời sống con người”, văn chương Bảo Ninh đi từ máu của chiến tranh, của hiện thực tàn khốc để rồi viết nên những trang viết thăng hoa cảm xúc, gắn liền những tâm hồn đồng điệu và cũng là phương tiện để nhà văn thể hiện cái tôi sáng tạo của mình.
Mẫu 4
Tác phẩm kể về cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ nhưng rất tình cảm giữa các nhân vật Giang, bố của Giang và nhân vật tôi. Đằng sau cuộc gặp đó ẩn chứa đầy ắp tình thương, tình người của đồng bào trong những ngày kháng chiến gian khổ nhưng huy hoàng.
Nhân vật “tôi” là binh nhì, chiến sĩ của tiểu đoàn 5 tân binh. Vì được điểm cao nhất đại đội nên đã được thưởng hai ngày phép. Trong lần quay trở về, “tôi” đã tình cờ gặp được Giang. Trong giây phút ấy, “tôi” cảm nhận được rõ rệt sự ân cần của người con gái ấy và cô cũng ngỏ ý mời anh về nhà chơi. Khi đang chờ Giang dọn cơm, đúng lúc “tôi” đang nằm trên giường của thì bố Giang về. Để tránh khó xử giữa ba người, Giang đã giới thiệu nhân vật “tôi” là Hùng, bạn hồi cấp 3 cùng cô bây giờ mới gặp lại. Biết vậy, bố Giang có phần thoải mái hơn. Giang cũng xin phép bố dùng xe chở “tôi” lên trên đơn vị. Hai người chia tay nhau ở chân đồi Gừng trong sự tiếc nuôi của “tôi”. Thời gian sau, trong một đợt tăng cường cho chiến trường, “tôi” gặp lại bố Giang. Ông vui mừng khôn xiết, kể cho “tôi” nghe tâm trạng của Giang và còn tấm ảnh Giang nhờ ông gửi nữa. Nhưng chiến tranh đã không còn “bữa sau” ấy nữa. Cuộc gặp gỡ ấy đã nảy sinh trong trái tim hai người những tình cảm thuần khiết nhưng giờ đây lại chẳng thể gặp được nhau.
Câu 7
Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm Lời má năm xưa (Trần Bảo Định).
Lời giải
Dàn ý
* Mở bài
Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm Lời má năm xưa
* Thân bàiclose
- Nội dung và nhan đề của bài thơ
- Phân tích ký ức được tác giả gợi nhớ bằng hình ảnh những đứa trẻ trong làng hay chơi cùng nhau.
- Phân tích về tuổi thơ của tác giả qua những dòng tự sự, về hình ảnh người mẹ và bài học đầu đời qua lời dạy năm xưa
- Liên hệ với thực tại của tác giả
- Những yếu tố nghệ thuật được tác giả thể hiện
* Kết bài
Đánh giá những giá trị nội dung và cảm nghĩ sau khi đọc xong tác phẩm.
Mẫu 1
Văn chương là một thứ tuyệt diệu mang lại cho con người nhiều cảm xúc. Nó hướng tới nhiều chủ đề khác nhau, phong phú và đặc sắc tùy theo từng phong cách viết của những tác giả. Đặc biệt, nó còn phản ánh nội tâm của người nghệ sĩ, thể hiện được cả những điều giấu kín và thậm chí người viết cũng không biết. Lời má năm xưa được tác giả Trần Bảo Định viết lên và là một tác phẩm tiêu biểu về nội tâm. Bài đọc là những cảm xúc vấn vương, làm lòng người đọc rung động.
Lời má năm xưa là nhan đề, cũng là một hoàn cảnh của câu chuyện. Đó chính là những lời dạy bất chợt của người mẹ trong quá khứ, sau này người con luôn nhớ tới và học theo nó. Cốt truyện của tác phẩm rất đơn giản nhưng lại đủ phản ánh chủ đề. Nó chỉ là những khung cảnh bình thường, nhưng lại tạo nên sự day dứt cho tác giả qua hàng chục năm. Qua sự việc bắn bị thương một chú chim, nhân vật “tôi” trong tác phẩm lại cảm thấy tội lỗi trong hàng chục năm sau đó. Tưởng chừng như đây là một tình huống đơn giản, nhưng nếu phân tích kỹ ta mới thấy nó có ý nghĩa chừng nào.
Ngay trong đoạn đầu, tác giả đã cho người đọc một thông tin: Ở quê tôi, trai gái đều thuộc lòng câu hò :
Chim thằng chài có ngày mắc bẫy
Em cho anh hay anh hãy tránh xa
Mẹ cha không thể chịu hòa
Em đâu dám cãi để mà theo anh
Đây được xem như một đặc sắc của vùng miền, cũng là một câu mở đầu độc đáo. Câu hò trên của quê hương mang trong mình đầy tình yêu thương giữa đôi tình nhân, nhưng đôi bên cha mẹ lại chẳng đồng ý. Người con gái không cãi lời cha mẹ, vậy nên mới lảng tránh người con trai lại gần mình.
Đoạn sau, tác giả lại miêu tả về những chú chim bói cá về một số đặc điểm và cách sống của chúng. Những chú chim con không được bảo vệ dưới đôi cánh mẹ mà phải tự lập, tự kiếm ăn để sống sót. Chúng cũng có lòng thương người, thương vật, một thứ tình cảm mà chúng ta chẳng hề nghĩ tới. Chúng bảo vệ lẫn nhau, chúng nhường cá tôm đầy đặn cho kẻ chài già yếu trong đàn.
Trong truyện, nhân vật chính đại diện cho tác giả thường đi chơi với lũ bạn. Những lúc đó, bọn trẻ nghịch ngợm thường lấy ná thun bắn vào những con chim bói cá. Những chú chim ấy cũng thường được gọi là thằng chài. Những con chim tội nghiệp đó con bị thương, con thì chết, những đứa trẻ ngây ngô cứ lấy đó làm trò tiêu khiển. Chẳng ai trong số chúng nghĩ rằng, những chú chim đó sẽ đau khổ như thế nào, sinh mạng của chúng sẽ mất đi vì những trò đùa của bọn nhỏ. Có lẽ lúc đó, chúng chưa hiểu được, cũng không muốn hiểu vì đang độ tuổi ham chơi, nghịch ngợm. Vậy là, chúng vô tình làm tổn thương những loại động vật nhỏ bé, hiền lành.
Câu nói của nhân vật người mẹ đã thức tỉnh nhân vật tôi là “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?”. Chỉ một câu hỏi đơn giản, nhưng người mẹ đã làm cho con bỗng hiểu được hành động của mình là sai trái. Mẹ bắt ông đi ra sông, vớt thằng chài vừa bị bắn lên bờ, chăm sóc nó, nhưng chú chim nhỏ lại như giận dỗi mà không thèm ăn những miếng mồi nhân vật tôi đút. Đây cũng là một hành động thể hiện cho sự “quay đầu” của một đứa nhóc nghịch ngợm. Hình ảnh người mẹ trong chi tiết này thật nổi bật. Mẹ là người đỡ đầu, dạy con những điều đúng sai, nên và không ở đời. Chính nhờ sự dạy dỗ của người mẹ, một sinh mệnh nhỏ được cứu, và sau này cũng có thể là nhiều sinh mệnh khác.
Trở về thực tại, sau rất nhiều năm, khi nhắc về câu chuyện đó vẫn khiến cho tác giả, lúc này đã trưởng thành hối hận và day dứt rất nhiều năm. Đặc biệt, câu nói của má “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” xuất hiện lặp đi lặp lại và xuyên suốt cả câu chuyện như một lời dạy, lời nhắc nhở thấm đẫm tình người làm ta không thể nào quên. Lời nói đó làm nổi bật lên chủ đề và nhan đề của tác phẩm, cũng khiến người đọc cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng.
Tác giả sử dụng phép điệp lặp lại câu hỏi tu từ nhiều lần làm nổi bật lên nội dung truyện. Bên cạnh đó, ông cũng sử dụng một loạt các biện pháp tu từ khác như liệt kê, nhân hoá đã khiến cho những hình ảnh trong truyện trở nên chân thực. Bằng việc xây dựng cốt truyện cảm động và dòng thời gian hợp lý, những cảm xúc của nhân vật được thể hiện rất rõ.
Mẫu 2
Nếu phải chọn ra ý nghĩa cao cả nhất của văn chương, thì đó là việc văn chương đã cống hiến cho cuộc đời này những câu chuyện đẹp đẽ về con người và cuộc sống. Những rung cảm mạnh mẽ và những thông điệp đầy ý nghĩa qua lăng kính của cảm xúc trong tâm hồn người nghệ sĩ. Tất cả những giá trị vĩnh cửu đó đã thăng hoa cùng ngòi bút của nhà văn Trần Bảo Định qua đoạn trích Lời má năm xưa. Đến nay vẫn còn vấn vương trong lòng biết bao độc giả bởi những câu từ đầy ý nghĩa.
Văn bản Lời má năm xưa có cốt truyện đơn giản, xoay quanh những vấn đề thường thấy và trải qua đối với mỗi con người chúng ta và cả tác giả. Đây là một văn bản đầy ý nghĩa qua những lời dạy bảo của người má và cả nỗi ân hận day dứt của tác giả từ ngày ấy cho đến bây giờ.Tác phẩm đã bày tỏ nỗi ân hận của nhân vật xưng “tôi” khi kể lại câu chuyện 70 năm trước đã bắn bị thương một con chim thằng chài. Khi đi sâu vào phân tích văn bản,ta có thể thấy văn bản ý nghĩa đến nhường nào.
Mở đầu đoạn trích tác giả đã giới thiệu cho chúng ta những câu hò xuất xứ từ làng quê thân thương của mình : Ở quê tôi, trai gái đều thuộc lòng câu hò :
Chim thằng chài có ngày mắc bẫy
Em cho anh hay anh hãy tránh xa
Mẹ cha không thể chịu hòa
Em đâu dám cãi để mà theo anh
Có thể thấy đây là câu hò mang đậm tính chất về tình yêu đôi lứa, Chim thằng chài hay còn gọi là chim bói cá, một loài chim sống đơn giản ; thường lao đầu xuống mặt nước hoặc bay trên mặt nước để bắt những con mồi.trong câu hò trên mà tác giả trích dẫn “ chim thằng chài có ngày mắc bẫy” với tập tính săn bắt đó của mình thì loài chim ấy rất dễ bị mắc bẫy do con người hoặc do những kẻ thù tạo ra. Nhưng Đã có lời nhắc nhở của “Em” em cho anh hay anh hãy tránh xa những mối nguy hiểm đó để khỏi mắc bẫy của kẻ thù. Vì mẹ vì cha nên em chẳng thể nào dám bỏ theo anh. Đó là những câu ca dao mang đậm tính chất tình yêu đôi lứa nhưng cũng không quên xen kẽ về tình cảm gia đình.
Với những câu văn của tác chúng ta có thể hiểu thêm phần nào về loài chim bói cá. Một loài chim khiến cho chúng ta có thể thấy cảm động với cuộc sống của chúng. Chúng chẳng có mẹ ấp trứng, chẳng có mẹ để nuôi dưỡng và săn sóc, chúng tự thích nghi với môi trường và tự rèn luyện kĩ năng sống. Khi lớn lên chúng kết giao với đồng loại và tự bảo vệ cho nhau. Chúng nhường mồi cho bạn tình hoặc đồng loại thiếu cái ăn. Và nhường mặt nước đầy tôm cá cho những thằng chài già yếu bệnh tật. Khi chúng ta đọc đến đây, có lẽ sự mạnh mẽ, sự tự lập của chúng khiến cho ta trầm trồ thán phục, bởi chỉ là một loài chim nhưng chúng chẳng cần vòng tay của mẹ chẳng cần ai dạy dỗ mà tự mình lớn lên và hoàn thiện. Không những thế chúng còn là một loài chim tình cảm và cũng có cảm xúc yêu đương như con người chúng ta.
Quay ngược thời gian, trở về thời thơ ấu của tác giả, tác giả đã ngậm ngùi chia sẻ lại câu chuyện cũ với biết bao xúc cảm. Khi còn là một đứa trẻ, ông cùng với tụi bạn đi rình mò dùng cái ná thun với những viên đạn được vo tròn bằng đất sắt để bắn vào những con chim bói cá, có con may mắn thì bị thương còn không thì chết. Một loài chim sống tình cảm đáng trân quý, một loài chim như vậy ấy vậy mà lại bị những con người vô thức làm hại, khi nghĩ lại những chuyện ấy tác giả cảm thấy thật trớ trêu thay, cảm giác hối hận, ray rứt lại bắt đầu dằn xé trong tâm trí ông. Chim rình cá, người rình chim, cớ sự từ cái rình theo cuộc.
Chắc hẳn mỗi chúng ta ai cũng mẹ, và chính mẹ là người đã dạy dỗ chúng ta mỗi khi mắc sai lầm. Và tác giả cũng thế ; bởi chỉ sau khi nghe câu hỏi của má: “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” đã thức tỉnh nhân vật tôi. Người thực sự cứu chim thằng chài chính là người má :”Tôi bị má đánh đòn khi bắn thằng chài rơi bên sông….Má bảo tôi ra bến vớt nó lên’‘. Sau đó là một loạt hành động của nhân vật tôi chăm sóc và cứu sống chim thằng chài. Khi người mẹ của ông nhìn thấy chính tay ông bắn thằng chài rớt bên sông, ông bị má đánh đòn. Với câu nói nhẹ nhàng sâu lắng của người má : “ sao con cướp đi sự sống của nó, rồi ai cướp đi sự sống của con” chính câu nói ấy đã khiến tác giả cảm thấy ân hận và ray rứt thâm tâm đến tận bây giờ.Với những lời của người mẹ, nhân vật tôi đã làm theo những lời chỉ bảo ấy, ông đem về nhà, trị thương băng bó cho nó. Nhưng trớ trêu thay khi ông đút cá cho nó, nó lại không ăn ; cá chính là món mồi mà nó vẫn mạo hiểm đi săn bắt mỗi ngày ấy vậy mà giờ đây nó lại làm ngơ trước miếng mồi ấy, đút thứ khác nó cũng không thèm ăn, phải chăng đây chính là sự tức giận trong nó, nó đang trầm trách rằng tại sao lại cướp đi sự sống của nó chăng. Chính vì điều đó đã làm cho nhân vật tôi hối hận và bối rối hơn bao giờ hết, giá như lúc đó mình không bắn nó thì có lẽ giờ nó đã được tự do bay lượn cùng với đồng loại chứ không phải là bị thương tật và nằm ngay đây.đến tận mấy ngày sau vết thương đã lành nhưng thể xác của nó cũng không như trước, nó ốm nhôm và không thể bay được có lẽ vì đuối sức.
Có thể thấy chẳng có gì thiêng liêng bằng tình mẫu tử và hình ảnh người má của nhân vật tôi – người đã thực sự cứu sống chú chim thằng chài trong cơn nguy kịch với sự lương thiện, thông minh, sâu sắc và thấu hiểu của một người mẹ đã thức tỉnh đứa con ngây dại của mình.
Trở về với câu chuyện cũ của tác giả, khi ông đem thằng chài để dưới gốc mận gần cầu nước, nó được những thằng chài khác, nó được những thằng chài khác bu quanh đút mồi, nó ăn một cách ngon lành, ngon đến nỗi khiến tác giả cũng phải thèm theo.Qua hình ảnh của tác giả, một lần nữa đã gợi lên cho chúng ta thấy lối sống tình cảm keo sơn đùm bọc của những con chim bói cá mãnh liệt đến nhường nào. Chỉ là một loài chim nhưng lại sống tình cảm như tác giả đã từng nghĩ đây là một loài “thú điện nhơn tâm” tuy hình hài là một con chim, gương mặt là một con chim nhưng lòng dạ tấm long trái tim là của một con người, thật sâu sắc và ý nghĩa đến nhường nào.
Quay lại với thực tại, quên đi câu chuyện cũ kia, nhưng đã gần bảy mươi năm kể từ khi xảy ra câu chuyện ấy, vậy mà giờ đây khi nhắc lại câu chuyện cũ ông không sao không thể dứt ra được sự hối hận và bối rối mỗi khi nhớ lại chuyện cũ, và đặc biệt không thể nào quên được câu hỏi của má “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?”.Câu hỏi của người má: “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” được lặp lại hai lần trong văn bản. Việc lặp lại câu hỏi ấy vừa góp phần làm nổi bật tính chất của câu chuyện bởi đây là chuyện được kể lại, vừa nhằm nhấn mạnh tâm trạng hối hận, nỗi nhớ không quên được về lời má dặn của nhân vật tôi. Đây vừa như lời trách móc vừa như một lời dạy bảo: tại sao con lại làm thế với con chim ? Nó không có tội gì, không làm gì đến con. Con phải hiểu rõ. Người má như muốn dạy nhân vật chính sự thấu hiểu, lòng thương cảm đối với loài vật như con chim thằng chài
Những từ ngữ, câu văn thể hiện trực tiếp tình cảm, cảm xúc của nhân vật tôi: Tôi hối hận và bối rối, tôi tần ngần nhìn bầu trời xanh, tôi không thể nào quên câu nói của má, tận đáy lòng, tôi không thể dứt ra được sự hối hận và bối rối. Với thủ pháp liệt kê một số từ ngữ, câu văn thể hiện trực tiếp tình cảm, cảm xúc của nhân vật “tôi”: “tôi hối hận và bối rối”; “tần ngần”; “hối hận và bối rối”.Có thể thấy tác phẩm là những chuỗi cảm xúc đầy ý nghĩa với bài học đầy nhân văn của tác giả muốn truyền tải đến cho mỗi chúng ta, hãy yêu quý, bảo vệ thiên nhiên, động vật, đừng làm gì tổn hại đến chúng bởi sẽ có ngày nào đó chúng ta cảm thấy ray rứt và hối hận mỗi khi nhớ đến dù những chuyện đã qua đi rất lâu. Đây cũng là bài học mà người mẹ muốn dạy cho nhân vật chính và nhân vật chính ấy lại muốn truyền tải đến cho bao bạn đọc.
Giữa con người và thiên nhiên, loài vật có mối quan hệ có thể tác động lên nhau. Ở đây chính là cái cảm xúc. Cảm xúc của con người sẽ quyết định cái nhìn, hành động của họ đối với thiên nhiên, loài vật. Con vật cũng vậy, cảm xúc của chúng sẽ được quyết định từ hành động của con người. Ví dụ như là việc con chim thằng chài ”vươn vai, hót mấy tiếng như muốn cảm ơn tôi”
Con người, thiên nhiên và cảnh vật là những yếu tố có mối quan hệ gần gũi với nhau bởi tất cả đều luôn hiện hữu xung quanh nhau. Bởi vậy, không có lí do gì để con người phá vỡ mối quan hệ đó. Hãy đón nhận và xem đó giống như một đại gia đình, và những người trong gia đình luôn biết yêu thương và không hãm hại nhau,con người và thiên nhiên đều có quyền được sống, quyền bảo vệ sự sinh tồn của chính mình. Con người không thể tự cho mình quyền tước đoạt sự sống của thiên nhiên, loài vật.
Bằng ngòi bút của mình, ông đã kể lại câu chuyện cũ với những xúc cảm của mình Văn bản đã bộc lộ tâm trạng ăn năn, hối hận và day dứt của nhân vật “tôi” khi nhớ lại hành động mình đã làm với chú chim thằng chài, từ đó cho thấy cậu bé là một người giàu tình cảm, giàu lòng trắc ẩn và lương thiện. Văn bản gợi lại câu chuyện tuổi ấu thơ của một chàng trai khi còn là một cậu bé đã lỡ bắn một con chim thằng chài bên bến sông. Nhờ có sự khuyên bảo của má, anh đã vớt nó về, băng bó chữa trị vết thương rồi cố gắng cứu sống nó, nhưng sự áy náy và ân hận về hành động này vẫn còn và đi theo anh đến mãi sau này.Văn bản cho thấy mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên là mối quan hệ gần gũi, gắn bó thân thiết và khuyến khích con người nên biết gìn giữ, bảo vệ môi trường.
Mẫu 3
Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học thế nên, Andersen đã từng nói : “không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống mình viết ra”.Quả đúng như vậy, nhà văn Trần Bảo Định với những trải nghiệm của riêng mình đã phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới,tìm ra cái đẹp kín đáo bị che lấp để cho người đọc có thể ngắm nhìn và thưởng thức thông qua tác phẩm của mình.Và đoạn trích lời má dặn chính là câu chuyện đẹp đẽ về thiên nhiên cũng như lời thủ thỉ của người mẹ. Tác phẩm lời má dặn để lại những ấn tượng trong lòng bạn đọc, rồi vượt lên mọi giới hạn của thời gian không gian để mãi trường tồn và đọng sâu trong lòng người đọc phong phú và đặc sắc tùy theo từng phong cách viết của những tác giả. Đặc biệt, nó còn phản ánh nội tâm của người nghệ sĩ, thể hiện được cả những điều giấu kín và thậm chí người viết cũng không biết. Lời má năm xưa được tác giả Trần Bảo Định viết lên và là một tác phẩm tiêu biểu về nội tâm. Bài đọc là những cảm xúc vấn vương, làm lòng người đọc rung động.
Lời má năm xưa là nhan đề, cũng là một hoàn cảnh của câu chuyện. Đó chính là những lời dạy bất chợt của người mẹ trong quá khứ, sau này người con luôn nhớ tới và học theo nó. Cốt truyện của tác phẩm rất đơn giản nhưng lại đủ phản ánh chủ đề. Nó chỉ là những khung cảnh bình thường, nhưng lại tạo nên sự day dứt cho tác giả qua hàng chục năm. Qua sự việc bắn bị thương một chú chim, nhân vật “tôi” trong tác phẩm lại cảm thấy tội lỗi trong hàng chục năm sau đó. Tưởng chừng như đây là một tình huống đơn giản, nhưng nếu phân tích kỹ ta mới thấy nó có ý nghĩa chừng nào.
Ngay trong đoạn đầu, tác giả đã cho người đọc một thông tin: Ở quê tôi, trai gái đều thuộc lòng câu hò :
Chim thằng chài có ngày mắc bẫy
Em cho anh hay anh hãy tránh xa
Mẹ cha không thể chịu hòa
Em đâu dám cãi để mà theo anh
Đây được xem như một đặc sắc của vùng miền, cũng là một câu mở đầu độc đáo. Câu hò trên của quê hương mang trong mình đầy tình yêu thương giữa đôi tình nhân, nhưng đôi bên cha mẹ lại chẳng đồng ý. Người con gái không cãi lời cha mẹ, vậy nên mới lảng tránh người con trai lại gần mình.
Đoạn sau, tác giả lại miêu tả về những chú chim bói cá về một số đặc điểm và cách sống của chúng. Những chú chim con không được bảo vệ dưới đôi cánh mẹ mà phải tự lập, tự kiếm ăn để sống sót. Chúng cũng có lòng thương người, thương vật, một thứ tình cảm mà chúng ta chẳng hề nghĩ tới. Chúng bảo vệ lẫn nhau, chúng nhường cá tôm đầy đặn cho kẻ chài già yếu trong đàn.
Trong truyện, nhân vật chính đại diện cho tác giả thường đi chơi với lũ bạn. Những lúc đó, bọn trẻ nghịch ngợm thường lấy ná thun bắn vào những con chim bói cá. Những chú chim ấy cũng thường được gọi là thằng chài. Những con chim tội nghiệp đó con bị thương, con thì chết, những đứa trẻ ngây ngô cứ lấy đó làm trò tiêu khiển. Chẳng ai trong số chúng nghĩ rằng, những chú chim đó sẽ đau khổ như thế nào, sinh mạng của chúng sẽ mất đi vì những trò đùa của bọn nhỏ. Có lẽ lúc đó, chúng chưa hiểu được, cũng không muốn hiểu vì đang độ tuổi ham chơi, nghịch ngợm. Vậy là, chúng vô tình làm tổn thương những loại động vật nhỏ bé, hiền lành.
Câu nói của nhân vật người mẹ đã thức tỉnh nhân vật tôi là “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?”. Chỉ một câu hỏi đơn giản, nhưng người mẹ đã làm cho con bỗng hiểu được hành động của mình là sai trái. Mẹ bắt ông đi ra sông, vớt thằng chài vừa bị bắn lên bờ, chăm sóc nó, nhưng chú chim nhỏ lại như giận dỗi mà không thèm ăn những miếng mồi nhân vật tôi đút. Đây cũng là một hành động thể hiện cho sự “quay đầu” của một đứa nhóc nghịch ngợm. Hình ảnh người mẹ trong chi tiết này thật nổi bật. Mẹ là người đỡ đầu, dạy con những điều đúng sai, nên và không ở đời. Chính nhờ sự dạy dỗ của người mẹ, một sinh mệnh nhỏ được cứu, và sau này cũng có thể là nhiều sinh mệnh khác.
Trở về thực tại, sau rất nhiều năm, khi nhắc về câu chuyện đó vẫn khiến cho tác giả, lúc này đã trưởng thành hối hận và day dứt rất nhiều năm. Đặc biệt, câu nói của má “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” xuất hiện lặp đi lặp lại và xuyên suốt cả câu chuyện như một lời dạy, lời nhắc nhở thấm đẫm tình người làm ta không thể nào quên. Lời nói đó làm nổi bật lên chủ đề và nhan đề của tác phẩm, cũng khiến người đọc cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng.
Tác giả sử dụng phép điệp lặp lại câu hỏi tu từ nhiều lần làm nổi bật lên nội dung truyện. Bên cạnh đó, ông cũng sử dụng một loạt các biện pháp tu từ khác như liệt kê, nhân hoá đã khiến cho những hình ảnh trong truyện trở nên chân thực. Bằng việc xây dựng cốt truyện cảm động và dòng thời gian hợp lý, những cảm xúc của nhân vật được thể hiện rất rõ.
Thứ mà tác giả muốn truyền tải đến người đọc qua bài viết này cũng là bài học mà người mẹ đã dạy con mình: phải biết yêu thương các loài vật, coi chúng như con người. Tác phẩm Lời má năm xưa để lại nhiều loại cảm xúc trong lòng người đọc, qua đó cũng làm bật lên nội dung và chủ đề của truyện.
Mẫu 4
- Văn bản gợi lại câu chuyện tuổi ấu thơ của một chàng trai khi còn là một cậu bé đã lỡ bắn một con chim thằng chài bên bến sông. Nhờ có sự khuyên bảo của má, anh đã vớt nó về, băng bó chữa trị vết thương rồi cố gắng cứu sống nó, nhưng sự áy náy và ân hận về hành động này vẫn còn và đi theo anh đến mãi sau này.
Giá trị nội dung
- Văn bản bộc lộ tâm trạng ăn năn, hối hận và day dứt của nhân vật “tôi” khi nhớ lại hành động mình đã làm với chú chim thằng chài, từ đó cho thấy cậu bé là một người giàu tình cảm, giàu lòng trắc ẩn và lương thiện- Cung cấp cho người đọc thông tin về loài chim thằng chài (chim bói cá)- Khắc họa hình ảnh người má của nhân vật tôi (người đã thực sự cứu sống chú chim thằng chài trong cơn nguy kịch) với sự lương thiện, thông minh, sâu sắc và thấu hiểu của một người mẹ đã thức tỉnh đứa con ngây dại của mình- Cho thấy mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên là mối quan hệ gần gũi, gắn bó thân thiết và khuyến khích con người nên biết gìn giữ, bảo vệ môi trường
Giá trị nghệ thuật
- Văn bản sử dụng phương thức tự sự kết hợp với biểu cảm- Ngôn từ thuần Việt dễ hiểu, mộc mạc, giản dị, phong phú- Giọng văn phù hợp để diễn tả tâm trạng của nhân vật “tôi”
Mẫu 5
Gợi lại câu chuyện tuổi ấu thơ của một chàng trai khi còn là một cậu bé đã lỡ bắn một con chim thằng chài bên bến sông. Nhờ có sự khuyên bảo của má, anh đã vớt nó về, băng bó chữa trị vết thương rồi cố gắng cứu sống nó, nhưng sự áy náy và ân hận về hành động này vẫn còn và đi theo anh đến mãi sau này.
Văn bản nói về lòng yêu thương loài vật của con người. Đây cũng là bài học mà người mẹ muốn dạy cho nhân vật chính.
Giá trị nội dung
- Văn bản bộc lộ tâm trạng ăn năn, hối hận và day dứt của nhân vật “tôi” khi nhớ lại hành động mình đã làm với chú chim thằng chài, từ đó cho thấy cậu bé là một người giàu tình cảm, giàu lòng trắc ẩn và lương thiện.
- Cung cấp cho người đọc thông tin về loài chim thằng chài (chim bói cá).
- Khắc họa hình ảnh người má của nhân vật tôi (người đã thực sự cứu sống chú chim thằng chài trong cơn nguy kịch) với sự lương thiện, thông minh, sâu sắc và thấu hiểu của một người mẹ đã thức tỉnh đứa con ngây dại của mình.
- Cho thấy mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên là mối quan hệ gần gũi, gắn bó thân thiết và khuyến khích con người nên biết gìn giữ, bảo vệ môi trường.
Giá trị nghệ thuật
- Văn bản sử dụng phương thức tự sự kết hợp với biểu cảm.
- Ngôn từ thuần Việt dễ hiểu, mộc mạc, giản dị, phong phú.
- Giọng văn phù hợp để diễn tả tâm trạng của nhân vật “tôi”.
Câu 8
Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh).
Lời giải
Dàn ý
a. Mở đoạn
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và vấn đề phân tích.
- Khái quát về đoạn trích “Người ở bến sông Châu”
b. Thân đoạn
- Hoàn cảnh dì Mây về làng và cuộc gặp gỡ đầy éo le của Dì mây với chú San: dì Mây bị mất một chân khi tham gia kháng chiến trở về, gặp chú San và biết tin chú San lấy cô giáo viên ở xóm bãi bên kia sông.
- Cuộc sống của dì Mây những ngày sau đó:
+ Mọi người vui mừng khi dì Mây trở về nhưng dì cũng chỉ biết ngại ngùng tiếp đón.
+ Cuộc gặp gỡ xin nối lại tình xưa của chú San và di Mây
+ Hình ảnh dì Mây đỡ đẻ cho con của chú San với cô Thanh
+ Dì Mây không chấp nhận sự chăm sóc của chú Quang và nhận nuôi con của thím Ba.
- Nét đặc sắc nghệ thuật của văn bản thể hiện xoay quanh câu chuyện của dì Mây.
c. Kết đoạn
- Nhận xét về nghệ thuật xây dựng bối cảnh và nhân vật của tác giả.
- Nêu lên ý nghĩa thông điệp tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm.
Chiến tranh xảy ra giúp cho dân tộc ta có một nền độc lập, hòa bình như ngày hôm nay cũng để lại rất nhiều hệ lụy, đau thương, chia rẽ với số phận con người. Câu chuyện “Người ở bến sông Châu” của tác giả Sương Nguyệt Minh nói về nỗi đau của người phụ nữ thời kì chiến tranh kết thúc, mất đi đôi chân, mất đi bạn đời và đồng đội, đó chính là cô ý tá Mây dũng cảm, nhân hậu. Bên cạnh đó cũng nói lên dấu vết bi thương lên số phận của mỗi con người. Mở đầu câu chuyện là cảnh dì Mây khoắc ba lô về Làng với một chân bị mất khi gia đình đã nhận được giấy báo tử của cô. Ngày cô trở về cũng chính là ngày chú San, người tình năm nao của cô đi lấy vợ. Anh xin cô nối lại tình xưa vì anh tưởng cô đã hi sinh trên chiến trường nên mới đi lấy vợ nhưng Mây không đồng ý vì cô thương cho số phận của mình, chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ, nhân sắc, còn nhẫn tâm lấy đi cả tình yêu của cuộc đời cô. Những ngày sau đó, trái ngược với niềm vui vô bờ bến của ra đình và mọi người khi Mây trở về, tâm trạng của cô lúc nào cũng nghèn nghẹn. Khi vợ chú San đẻ cạn nước ối, chính dì Mây đã là người đỡ đẻ, xong xuôi mọi thứ Mây gục ngã xuống bàn khóc nức nở. Cô không chấp nhận lời đề nghị sẽ bù đắp cho cô suốt quãng đời còn lại của trinh sát Quang mà cô gặp trên chiến trường đã tìm về tận quê của cô. Cô chọn chăm sóc cho con của thằng Cún vì thím Ba mẹ của nó vì đun te vướng bom bi nên qua đời. Với bút pháp miêu tả tài tình cùng cách xây dựng cốt chuyện thú vị, tác giả để lại ấn tượng mạnh cho người đọc thấu hiểu được vết thương lòng của người con gái thời chinh chiến xoay quanh cuộc đời của dì Mây cũng như hiện thực về làng quê, từ đó nói lên nỗi niềm cảm thông với người phụ nữ như dì Mây hi sinh tuổi trẻ để bảo vệ tổ quốc và tinh thần đoàn kết gắn bó, yêu nước, yêu dân tộc giữa người với người.
Câu chuyện “Người ở bến sông Châu” của tác giả Sương Nguyệt Minh kể về nỗi đau của người phụ nữ hi sinh cả thanh xuân, tình yêu để cống hiến cho tổ quốc đó chính là cô y tá Mây với vẻ đẹp vị tha, nhân hậu. Sự việc đầu tiên là cảnh Dì mây trở về làng đúng ngày chú San đi lấy vợ, chú lấy cô giáo thanh. Biết tin cô trở về mọi người vui mừng lắm nhưng cô lại nghẹn cứng ở trong lòng. Khi chú San sang xin lỗi và muốn làm lại từ đầu với cô nhưng cô nhất quyết không đồng ý vì cuộc đời cô đã khổ đủ rồi. Từ lúc chuyển về bến sông Châu, tâm trạng của Mây buồn lắm, lúc nào cô cũng bơ vơ, thơ thẩn. Khi trạm xá được xây vì thiếu người nên Mây lại quay trở về làm công việc cũ. Trong đêm mưa tầm tã, dì Mây khoác áo mưa để đi đỡ đẻ cho vợ chú San mặc kệ dì Ba ngăn cản, xong xuôi, dì Mây gục ngã xuống bàn khóc tức tưởi, có lẽ cô khóc thương cho chính số phận bi ai của mình. Khi anh trinh sát Quang cùng làm việc với dì Mây ở chiến trường tìm về tận quê để xin được chăm sóc, bù đắp cho cô nhưng cô không đồng ý mà chọn chăm sóc cho con của thím Ba, tiếng ru của cô lúc trầm, lúc nghèn nghẹn, sau êm ái, bao la làm khuấy động sâu tận con tim của những người lính. Với cách xây dựng cốt truyện đơn giản mà lại độc đáo giúp tác giả tạo ấn tượng mạnh trong lòng độc giả. Bộc lộ tính cách nhân vật dì Mây hiện lên là một người có phẩm chất cao thượng, tốt đẹp. Dì Mây đại diện cho những người con gái vượt qua chiến tranh mạnh mẽ, bất khuất, ngập tràn tình thương yêu và lòng vị tha vô bờ bến. Qua đó cũng nói lên tinh thần đoàn kết, lòng yêu dân tộc nồng nàn trước những nghịch cảnh của chiến tranh để lại.
Mẫu 3
Cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta đã là ngọn lựa hun đúc nên biết bao thế hệ anh hùng, đồng thời cũng trở thành một trong những đề tài văn học, nghệ thuật hấp dẫn và nhiều cảm hứng nhất của giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ. Nhân vật Dì Mây trong truyện ngắn "Người ở bến sông Châu" của nhà văn Sương Nguyệt Minh cũng là một trong những nhân vật bộc lộ được bản chất người lính đã trải qua cuộc chiến tranh, thấy được sự hy sinh mất mát, và nỗi đau khôn cùng của người phụ nữ Việt Nam.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của một người phụ nữ đẹp nhưng lại có số phận đau thương, vây hãm cả đời . Dì đại diện cho một thế hệ thanh niên đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất cho cách mạng. Tuổi trẻ của dì là những ngày tháng lăn lộn trên khắp các nẻo đường Trường Sơn. Dì Mây có một mối tình đằm thắm, trong sáng với chú San, tuy nhiên lại rơi vào nghịch cảnh éo le: ngày cô trở về quê cũng là ngày người yêu – San đi lấy vợ vì tưởng cô hy sinh. Ngay đêm tân hôn, biết tin Mây còn sống quay về, San đã tìm gặp Mây. Anh xin cô được bỏ vợ để cả hai làm lại từ đầu. Mây khóc, từ chối vì cho rằng: “Một người phụ nữ đau khổ và lỡ dở đã là quá đủ”.
Ngoài nỗi buồn mất đi người mình yêu, dì Mây còn phải chịu những hậu quả do chiến tranh để lại. Từ một người con gái xinh đẹp trở thành một người tàn tật, vô cùng thương xót "Dì Mây bước tập tễnh, tóc Dì Mây rụng nhiều, xơ và thưa, dì có chân giả, chống nạng gỗ". Tuy nhiên, không vì điều đó mà dì lại cảm thấy tủi thẹn, dì luôn luôn cảm thấy tự hào, vì đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp cho cách mạng: "Dì Mây chắn cửa hầm che chở cho thương binh. Bom nôt người người lính công binh sốt rét tóc rụng trọc đầu vẫn lành lặn..". Bởi vậy, cuộc sống của dì Mây khi trở về quê hương cũng có sự thay đổi thay. Ai nấy trong gia đình đều cảm thấy thương dì, cuộc đời của dì thật đau xót. Những đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng dì Mây đã cho thấy một hình ảnh người phụ nữ kiên cường, đầy nỗi bất hạnh vì chiến tranh. Cuộc chiến đã cướp đi tất cả: tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc và mài mòn dần những gì còn sót lại của dì khi trở về sau chiến tranh.
Càng éo le hơn khi truyện đẩy nhân vật dì Mây vào những tình huống vô cùng trớ trêu và đau khổ. Khi dì đứng trước sự lựa chọn về tinh yêu của mình, dì đã cam đảm đối mặt với nó, mặc dù buồn, vẫn còn thương chú San nhiều nhưng dì đã cương quyết dứt khoát với chú "Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!, "Sự thế đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn". Chưa dừng lại ở đó, tác giả lại một lần nữa đẩy nhân vật vào tình huống mà khiến dì phải đấu tranh lí trí và cảm xúc của bản thân. Đó là khi vợ chú San - cô Thanh vượt cạn thiếu tháng và dì Mây đã cố gắng hết sức đỡ đẻ cho cô mặc kệ lời thím Ba can ngăn. Chi tiết dì khóc ngay sau khi đỡ đẻ thành công cho vợ chú San, đã để lại cho người đọc nhiều xúc động. Giá như không đi bồ đội, nếu không có chiến tranh, thì cũng không bị chiến tranh làm xa cách dì Mây cũng có thể hạnh phúc bên chú San. Qua đây, em thấy được hình tượng của một người phụ nữ dưới thời chiến, đó là một người xinh đẹp, gan dạ và đầy lòng nhân ái, vị tha. Người phụ nữ mặc dù trải qua những khó khăn, thử thách ở những tình huống nghịch cảnh, đau khổ nhưng vẫn quyết tâm đối mặt với nó, với số phẩn của bản thân.
Nhà văn Sương Nguyệt Minh đã vô cùng thành công trong việc xây dựng nhân vật dì Mây, bởi nhờ có ông, mà chúng ta thấy được những góc khuất của chiến tranh, những câu chuyện buồn dưới thời chiến. Chưa bao giờ, trong văn học Việt Nam xuất hiện người phụ nữ trở về sau chiến tranh lại bi thương đến vậy. Từ đó, ta mới càng cảm thông hơn với những số phận của họ và thật biết ơn với những công lao của họ để chúng ta có được cuộc sống như ngày hôm nay.
Mẫu 4
Đề tài viết về người lính sau chiến tranh là mảnh đất màu mỡ của các nhà văn nhà thơ khai thác như Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Lê Lựu,... Một trong số đó không thể không nhắc đến nhà văn quân đội Sương Nguyệt Minh với tác phẩm Người ở bến sông Châu và nhân vật nổi bật là Dì Mây.
Mây - đại diện cho một thế hệ thanh niên đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất cho cách mạng. Tuổi trẻ của cô là những ngày tháng lăn lộn trên khắp các nẻo đường Trường Sơn. Mây là người duy nhất sống sót của tiểu đội quân y. Mây trở về làng khi gia đình đã nhận được tin báo tử của cô. Và ngày cô trở về quê cũng là ngày người yêu – San đi lấy vợ vì tưởng cô hy sinh. Ngay đêm tân hôn, biết tin Mây còn sống quay về, San đã tìm gặp Mây. Anh xin cô được bỏ vợ để cả hai làm lại từ đầu. Mây khóc, từ chối vì cho rằng: “Một người phụ nữ đau khổ và lỡ dở đã là quá đủ”. Vậy là từ đó, cuộc sống của đôi vợ chồng San – Thanh và Mây ở nhà bên, cách nhau có hàng rào tre, diễn ra hết sức trớ trêu và đau khổ. Trước đây tóc cô dài đến gót chân, xinh đẹp nhất làng đã dũng cảm xung phong ra chiến trường để rồi khi trở về tóc cô rụng đi nhiều và xơ, cô trở về trong sự lãng quên của gia đình, của người thân và cả của người yêu. Chiến tranh đã lấy của cô đi tuổi trẻ, nhan sắc và cả tình yêu. Vết thương trên người mỗi khi trái gió là lại đau nhức. Cô trở về chỉ còn một mình cô bên chiếc nạn gỗ, bên con búp bê không biết nói. Nếu như trước kia cô năng động, hoạt bát, xinh đẹp phơi phới sắc xuân thì giờ đây cô lại mang trong mình sự buồn tẻ, đượm buồn trong thân thể người phụ nữ. Mây không giống như những hình ảnh người phụ nữ xưa mà mang theo hơi thở hiện đại, cô là người luôn hy sinh và sống cho người khác nhưng tuyệt đối không phải là một người cam chịu, nhu nhược. Cô luôn đưa ra những quyết định quan trọng vào những thời điểm quan trọng trong sự tỉnh táo, sáng suốt và tự chủ ngay cả lời chia tay. Không chịu được cảnh trớ trêu ấy, Mây đã bỏ ra căn chòi bên bờ để ở, sống với những nỗi buồn thầm lặng không biết bao giờ nguôi ngoai. Sau một thời gian mọi thứ quay lại về với cuộc hàng ngày, tóc của Mây cũng dài thêm đôi chút, da dẻ hồng hào nhưng có lẽ vết thương sâu bên trong, độ tuổi xuân thì thì đã không còn. Trong khi đó, anh lính trinh sát Quang mà Mây gặp ở chiến trường tìm về tận quê cô. Dù cô trốn chạy và lảng tránh nhưng Quang quyết định ở lại bến sông Châu nguyện chăm sóc và bù đắp cho Mây suốt quãng đời còn lại. Nhưng cô lại không chấp nhận mà chọn chăm sóc con của thím Ba, tiếng ru của cô hòa với cảnh đêm của miền sông nước và sự cảm nhận lắng nghe của những chú lính làm cầu. Có thể thấy chiến tranh không chỉ để lại những vết thương thể xác cho người lính, mà còn làm thay đổi số phận, gây ra những trái ngang đau khổ cho họ ngay cả khi họ trở về với thời bình khi chiến tranh đã kết thúc. Và những “người trở về” đó với sự kiên cường và lòng nhân ái họ đã vượt qua được nghịch cảnh để sống tốt, khẳng định phẩm chất của bộ đội Cụ Hồ.
Dì Mây trong truyện ngắn Người ở bến sông Châu đã cho chúng ta thấy được những thứ được và mất sau chiến tranh, những góc khuất trong đời sống thường ngày. Với tâm lòng am hiểu, thông cảm sâu sắc đến thân phận người phụ nữ qua những chi tiết đã phần nào được phản ánh tích cực.
Mẫu 5
Chiến tranh qua đi, để lại biết bao mất mát tổn thương. Đó không chỉ là những nỗi đau về vật chất mà còn là nỗi đau về tinh thần. Như vết cứa rất sâu vào trái tim của con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Truyện ngắn Người ở bến sông Châu là một truyện ngắn như thế, thấm đượm giá trị nhân văn và tình yêu thương, ca ngợi con người mà đặc biệt là những người phụ nữ.
Câu truyện xoay quanh về nhân vật dì Mây. Cô gái trẻ trung xinh đẹp, tóc dì đen dài, óng mượt "Dì đẹp gái nhất làng, có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm”. Trước khi đi xung phong dì có mối tình đẹp đẽ, trong trẻo với chú San. Nhưng phải chia tay nhau vì chú San đi học nghề ở nước ngoài. Còn dì thì xung phong làm cô y sĩ Trường Sơn. Hoàn cảnh trớ trêu đã đẩy chú dì vào cảnh người mỗi ngả chia li cách biệt. Có thể thấy chiến tranh, bom đạn thật tàn nhẫn khi đã đẩy họ vào hoàn cảnh tách biệt.
Khi từ chiến trường bom đạn chờ về. Dì Mây bị đạn phạt vào chân, phải đi tập tễnh, bằng chân giả. Tuy nhiên nỗi đau thể chất đó không thấm vào đâu khi ngày dì trở về cũng là ngày dì phải chứng kiến người đàn ông mình yêu thương, nghĩ tới nhiều nhất, người đàn ông mà dì viết tên hằng ngày vào cuốn nhật kí ở Trường Sơn đã đi lấy người phụ nữ khác. Thử hỏi làm sao dì có thể chịu đựng được cú sốc tinh thần dã man tới vậy, lòng người con gái giờ đây là sự hụt hẫng, bàng hoàng, trớ trêu và đầy tuyệt vọng. Nhưng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó ta vẫn thấy được sự kiên cường, mạnh mẽ của dì Mây. Thái độ của dì rất cương quyết, thể hiện sự bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ. Dì nhất quyết không đồng ý trước lời đề nghị “Mây, chúng ta sẽ làm lại” của chú San. Trước sự thể đã rồi dì nhận phần thiệt thòi về mình, dì chỉ muốn một người đàn bà khổ. Có thể thấy dù đau đớn, tuyệt vọng nhưng dì vẫn nén vào trong, dì là đại diện cho phẩm chất kiên cường của những người phụ nữ bước ra từ chiến tranh và bom đạn
Ở dì Mây còn nổi bật lên phẩm chất tốt bụng, vị tha và bao dung. Khi dì Mây nghe tin cô Thanh vợ chú San khó sinh cô Thanh đẻ thiếu tháng lại tràng hoa quấn cổ dì đã ngay lập tức giúp đỡ không hề suy nghĩa, đắn đo điều gì. Mặc dù ở vào hoàn cảnh của dì việc làm đó chẳng hề dễ dàng, nhưng dì vẫn không chút e ngại, chần chừ, suy nghĩ gì mà lập tức tới giúp đỡ cô Thanh vượt qua cơn nguy hiểm, để mẹ tròn con vuông.
Có thể thấy dì Mây hiện lên với rất nhiều những phẩm chất cao thượng, tốt đẹp, dì đại diện cho những người con gái Việt Nam sẵn sàng hi sinh thầm lặng, đánh đổi cả thanh xuân tuổi trẻ và hạnh phúc của cá nhân mình vì những điều lớn lao khác.
Mẫu 6
Nhà phê bình văn học nổi tiếng Belinski từng tâm đắc : “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật, đó là một định lý”. Âm thanh vang lên từ chiếc piano với những phím đàn chỉ với hai màu đen và trắng tưởng chừng như khô khan, rệu rã. Nhưng người nghệ sĩ đã tìm ra cái hay, cái đẹp của những phím đàn mà tạo nên những bản nhạc mang âm hưởng tuyệt vời. Văn học cũng vậy, phản ánh hiện thực và đời sống con người nghe như đơn giản nhưng thật ra là phức tạp và đa chiều vô cùng. Trên hành trình khám phá và sáng tạo nghệ thuật, sứ mệnh của mỗi nhà văn là phát hiện được cái đẹp ở bề sâu cuộc sống. Nhà văn Sương Nguyệt Minh thực sự đã hoàn thành sứ mệnh ấy với hình ảnh nhân vật dì Mây-một người phụ nữ giàu đức hi sinh nhưng không cam chịu và nhu nhược trong truyện ngắn “Người ở bến sông Châu”
Nhắc đến nhà văn Sương Nguyệt Minh người ta nhớ ngay đến hình ảnh một người lính với tính cách vừa hổ lửa vừa hồn nhiên, lại có khi lạnh lùng, phớt đời. Ta sẽ thấy được trong các sáng tác của ông, hình ảnh làng quê với những gốc nhìn hiện thực, vừa lãng mạn đan cài, soi chiếu vào nhau chính vì vậy cảm hứng mà người đọc nhận thấy trong các sáng tác của ông vừa nồng nàn, vừa thâm trầm, nét duy mỹ và lạng mạn để hướng chiều sâu tâm hồn và kí ức. Điều đó góp phần làm nên phong cách lịch lãm, tài hoa, tinh tế trên mỗi trang văn của tác giả.
“Nếu như có thể nếm được, thì các truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh đều có vị ngọt và cay. Đó là vị ngọt của phong cảnh làng quê của trăng nước, tình người, vị cay xót của số phận con người” (Nguyễn Hữu Đại)
Sương Nguyệt Minh hiện nay được đánh giá là một trong những nhà văn quân đội tiêu biểu. Chính vì ông từng là một người lính cho nên ông viết văn bằng sự trải nghiệm và thể nghiệm của một con người đi ra từ cuộc chiến. Với ông, chiến tranh không chỉ là sự đổ máu hi sinh. Mà chiến tranh còn gắn với bi kịch, nỗi đau dai dẳng, âm ỉ, lặng thầm nhưng không kém phần dữ dội ở từng số phận, từng cuộc đời. Cảm xúc của Sương Nguyệt Minh được dồn nén chân thực, xúc động qua những mảnh đời, những thân phận éo le, ngang trái, những tình cảm trớ trêu , nghiệt ngã sau trận chiến. Nhà văn chú ý khai thác thân phận, trách nhiệm, tình yêu, bi kịch thời hậu chiến..thông qua những trang viết đầy ám ảnh và lôi cuốn, gửi đến độc giả những bức thông điệp thấm thía, sâu sắc về bài ca sức sống mãnh liệt của con người, về lòng nhân ái, niềm tin yêu và khát vọng sống trong an bình.
Xuất hiện trên văn đàn vào những năm đầu thập niên chín mươi của thế kỉ XX, cho đến nay với niềm đam mê và tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc Sương Nguyệt Minh đã cho ra đời sáu tập truyện ngắn cùng với đó là rất nhiều bài bút kí, tuỳ bút. Gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc nhất có lẽ vẫn là cô gái tên Mây trong truyện ngắn “Người ở bến sông Châu” được nhà văn sáng tác vào năm 1997. Câu truyện là những khoảng đời trớ trêu bất hạnh mà những người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu sau năm 1975, đi qua những năm tháng chiến tranh gian khổ, chịu đựng vết thương từ chiến trường, dì Mây-một nữ chiến sĩ đường Trường Sơn nhận thêm những thương tổn trong cuộc sống mới. Mây sống lặng lẽ trong nỗi cô đơn trên chính bến đò quê hương.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Đó là tinh thần nhiệt huyết của những năm kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta, hoà mình vào tinh thần ấy dì Mây-cô gái đại diện cho một thế hệ thanh niên đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất cho cách mạng. Tuổi trẻ của cô là những ngày tháng lăn lộn trên khắp các nẻo đường Trường Sơn. Hình ảnh của Mây làm ta nhớ đến cô “hoa hậu” trong lòng bom đạn-Trương Định cũng dành cả thanh xuân mình cho chiến trường, cống hiến cho đất nước.
Dì Mây là người duy nhất sống sót của tiểu đội quân y. Trở về từ trong bom đạn, về nhà khi gia đình đã nhận được tin báo tử của cô, trong tiềm thức của gia đình và người yêu cô đã đi dẫn vào quên lãng. Dì Mây về làng vào đúng ngày mà chú San-người yêu cô kết hôn vì tưởng rằng cô đã hi sinh trên chiến trường khốc liệt. Ngày cô về, quê hương như rực màu đỏ, phải chăng là ăn mừng ngày cô trở về? Hoặc có thể là chúc mừng cho đôi uyên ương hôm ấy. Dù là thế nào đi nữa ngày hôm ấy trong mắt Mây “nước sông Châu đỏ quạch”, “màu hoàng hôn đỏ ối”. Trong cái màu đỏ ấy có một đám rước dâu và có một cô gái lỡ đò. Lần lỡ đò ấy như lỡ cả một đời hạnh phúc của dì Mây, chú San đã cưới cô Thanh là giáo viên ở xóm bãi bên kia sông và đoạn nhân duyên giữa dì Mây và chú San đến đây cũng đã đi về hai ngả.
Dì Mây về nhà, cỗ cưới vẫn chưa tàn nhưng không hiểu sao lại nghe thấy tiếng quát tắt nhạc bên nhà Chú San. Sau vài câu thì thầm của thím Ba, chú san bỗng dưng suy sụp mà “ngồi phịch xuống ghế ôm đầu”. Tiếng ồn ào khi trước không còn mà chỉ còn lại tiếng cất dọn bát đĩa. Một lúc sau, chú San rẽ lối hàng râm bụt đi sang. Trong cái không khí ngượng ngùng, gượng gạo chẳng ai nói lên lời, Bố mẹ Mai lờ đi, ông cũng vậy. Chú San luôn nhận lỗi về phía mình, và cùng dì Mây nhắc về những kỉ niệm cũ. Khi đang chìm trong hồi ức ngọt ngào thì tiếng gầu nước Mai kéo đập vào giếng đã đánh thức hai người. Chú San xin dì Mây để hai đứa làm lại từ đầu, câu nói khiến bầu không khí lúc ấy trở nên ngột ngạt, vợ chú San cũng ở bên kia hàng râm bụt cũng đi lại, dứt lá râm bụt. Với tấm lòng cao thượng, hơn hết cũng là phụ nữ dì Mây thấu hiểu nỗi thống khổ khi bị tổn thương, là người tổn thương dì Mây không muốn làm tổn thương thêm người khác và lời từ chối cất lên: “Thôi! thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ! Anh về đi!” Trong mối quan hệ rối như bòng bong ấy sau tất cả đều sẽ có một người phụ nữ đau khổ, dì đã chịu đủ những đau đớn ngoài chiến trường cùng với đức hi sinh cao cả dì Mây đã để cho mình đau và để cho cô Thanh hạnh phúc. Trước sự hi sinh ấy cô Thanh cũng nức nở mà biết ơn dì.
Trong phân đoạn này Bút pháp tả cảnh và diễn biến tâm lí các nhân vật của tác giả trong truyện ngắn Người ở bến sông Châu đã cho ta thấy được niềm say mê khẳng định cái tốt, cái tích cực; phủ nhận những điều xấu xa giả dối sẽ đem lại cho tác phẩm một luồng sinh khí, biến những tư tưởng khô khan thành các hình tượng sinh động, tạo ra một bầu khí quyển nóng bỏng, biến tác phẩm trở thành một sợi dây truyền tình cảm của tác giả đến người tiếp nhận. Sự nhiệt thành trong việc bộc lộ cảm xúc của nhà văn, nhà thơ sẽ khiến “cảm hứng chủ đạo của tác phẩm chi phối sự thống nhất cảm xúc của hình tượng, chi phối hệ thống nghệ thuật biểu cảm của tác phẩm”. Đặc biệt trong thể loại truyện ngắn – một thể loại có dung lượng khiêm tốn, thường lấy cái “khoảnh khắc”, cái “lát cắt” cuộc sống làm căn cốt – thì vai trò của cảm hứng nghệ thuật càng quan trọng. Truyện càng ngắn thì sự dồn nén của tình tiết và sự mãnh liệt trong tình cảm càng đòi hỏi cao. Những xúc cảm tâm lý thường bộc lộ một cách cao độ hơn, thể hiện nội dung tư tưởng một cách nổi bật, tập trung vào một vấn đề nhân sinh trọng tâm chứ không dàn trải như ở thể loại tiểu thuyết.
Cuộc sống về sau của dì cũng thật đau khổ, từ ngày hôm ấy, cuộc sống của vợ chồng chú San, Thanh và dì ở nhà bên, cách nhau có hàng rào tre, diễn ra hết sức trớ trêu và đau khổ. Dì quyết ra bến sông ở, nhưng từ ngày chuyển ra đó dì lúc nào cũng buồn buồn, cứ thẫn tha thẫn thờ, lúc ngắm trời nhìn nước, lúc lụi cụi nấu cơm. Cuộc sống quẩn quanh ấy thật giống với cái khung cảnh ở phố huyện Cẩm Giàng trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Nhớ trước kia dì là một cô gái trẻ trung, yêu đời, tóc dì dài đến gót chân, xinh đẹp nhất làng nhưng đã dũng cảm xung phong ra chiến trường để rồi khi trở về tóc dì rụng đi nhiều và xơ, cô trở về trong sự lãng quên của gia đình, của người thân và cả của người yêu.
Cuộc sống sau đó của dì Mây hết sức bình bị với cái chân lành còn lại, dì đưa đám bạn của Mai qua sông đi học và đặc biết gì trở về làm một nữ quân y khi xây trạm xá mới. Nhà văn Pautopxki từng nói: “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm” thật vây, từ những chi tiết được tác giả chắt lọc và xây dựng lên tình huống truyện giúp bộc lộ tính cách nhân vật dì Mây một cách rõ nét. Tác giả đã đặt dì Mây vào một tình huống thực sự đặc biệt khi vợ chú San vượt cạn thiếu tháng, thai ngôi ngược lại tràng hoa quấn cổ. Thím Ba đã loay hoay đỡ mãi nhưng không được, cô Thanh cũng đuối dần, nguy cơ tử vong khá cao. Trong cái đêm mưa gió bão bùng, đường lên huyện quá xa, đò ngang cách trở dì đã khoác áo mưa đến và đỡ đẻ thành công cho cô Thanh không màng đến lời thím Ba nói. Trong trường hợp này tác giả đã xây dựng tình huống rất hay để làm nổi bật phẩm chất và nhân cách của nhân vật dì Mây. Bởi, chú San là người đã phản bội tình cảm của dì Mây nhưng dì không chút thù oán, không vì chuyện cá nhân mà ngó lơ tình thế nguy hiểm của vợ chồng chú. Từ đó, người đọc cảm nhận rõ dì Mây luôn quan tâm đến người khác, bao dung, vị tha, có trách nhiệm trong công việc của mình. Cũng chính từ tình huống ấy đã khiến một cô gái mạnh mẽ như dì phải trào nước mắt. Sau khi đỡ đẻ thành công cho cô Thanh – vợ chú San, dì Mây đã gục luôn xuống bàn đỡ đẻ và khóc tức tưởi. Dì Mây khóc như vậy bởi lẽ người được hưởng hạnh phúc ấy đúng ra là dì. Nhưng giờ đây, khi dì trở về, chú San đã lấy vợ. Đó cũng là lúc những hi vọng, chờ mong, niềm ao ước về một cuộc sống hạnh phúc cùng nhau đã bị dập tắt. Dì Mây khóc cho chính số phận mình, có lẽ giây phút đó, dì đã quá tủi thân và bởi những nỗi đau mà dì chịu đựng, dồn nén trong lòng quá lâu, chỉ trực chờ một khoảnh khắc nào đó, khoảnh khắc mà người con gái ấy không thể gồng mình lên chống đỡ được nữa thì giọt nước mắt ấy sẽ tuôn rơi.
Chiến tranh đã đi qua nhưng đã lấy đi rất nhiều thứ của nhân dân và cũng để lại biết bao hệ luỵ không đáng có. Bến sông Châu vẫn đầy bom bi chưa nổ và thím Ba vì đun te vướng bom bi nên đã qua đời, thằng Cún đã mất mẹ. Khi ấy có chú lính trinh sát Quang mà dì Mây gặp ở chiến trường tìm về tận quê. Dù dì trốn chạy và lảng tránh nhưng chú quyết định ở lại bến sông Châu nguyện chăm sóc và bù đắp cho dì suốt quãng đời còn lại. Nhưng dì lại không chấp nhận mà chọn chăm sóc con của thím Ba Dì nuôi thằng cún và mỗi đêm tiếng ru nó ngủ của dì lại vang lên trên bến sông Châu. Tếng ru của dì hòa với cảnh đêm của miền sông nước và sự cảm nhận lắng nghe của những chú lính làm cầu. Sự thay đổi trong tiếng ru của dì Mây dường như cũng là sự thay đổi trong tâm trạng. Có lẽ, tâm trạng lúc đầu của dì Mây vẫn còn chất chứa sự tủi thân, nỗi buồn từ những chuyện chẳng vui nhưng dần dần, dì đã chấp nhận được sự thật và cùng chung sống với nó. Dì Mây không giống như những hình ảnh người phụ nữ xưa mà mang theo hơi thở hiện đại, cô là người luôn hy sinh và sống cho người khác nhưng tuyệt đối không phải là một người cam chịu, nhu nhược.
Chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ, nhan sắc và cả tình yêu của dì Mây. Vết thương trên người mỗi khi trái gió là lại đau nhức. Dì trở về chỉ còn một mình cô bên chiếc nạn gỗ, bên con búp bê không biết nói. Nếu như trước kia dì năng động, hoạt bát, xinh đẹp phơi phới sắc xuân thì giờ đây cô lại mang trong mình sự buồn tẻ, đượm buồn trong thân thể người phụ nữ. Dưới ngòi bút của tác giả cốt truyện m tuy giản dị nhưng lại gây ấn tượng mạnh đến độc giả, tạo cho người đọc thấu hiểu được từng lớp văn chương. Từ không gian đến thời gian chỉ xoay quanh nhân vật Dì Mây nhưng được lồng ghép vào xen kẽ rất đặc biệt, nói về làng quê với cái nhìn hiện thực, vừa lãng mạn đan xen vào nhau và vốn am hiểu, cảm thông với người phụ nữ đã làm rung động tâm hồn độc giả.
Dì Mây trong truyện ngắn đã cho chúng ta thấy được những thứ được và mất sau chiến tranh, những góc khuất trong đời sống thường ngày. Với tâm lòng am hiểu, thông cảm sâu sắc đến thân phận người phụ nữ qua những chi tiết đã phần nào được phản ánh tích cực.
Mẫu 7
Qua tình truyện ngắn “Người ở bến sông Châu” của tác giả Sương Nguyệt Minh ta thấy được hình tượng về con người và thảm họa con người sau cuộc chiến tranh được chuyển tải bằng thứ ngôn ngữ của trái tim bị rung động thật sự. Bị cuốn hút bởi một thực tế, một hiện thực không thể tưởng tượng, không thể hư cấu hơn, tự nó đã làm nên giá trị tư tưởng của tác phẩm. Hậu quả của nó để lại vô cùng nặng nề, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bởi khói lửa của bom đạn, của các chất hóa học do con người chế tạo nhằm phục vụ cuộc chiến. Các công trình kiến trúc được coi là văn minh nhân loại, những cánh rừng bất tận không còn màu xanh mà chỉ thấy khói lửa… Chiến tranh cũng khiến cho nền kinh tế trở nên kiệt quệ. Bóc lột giữa con người với con người ngày càng gia tăng, chênh lệch giàu nghèo càng rõ ràng. Cuộc sống của người dân thường xuyên rơi vào đói nghèo, trình độ văn hóa thấp,… Văn học hé mở khát vọng bức thiết, đòi hỏi quan tâm đến mỗi số phận cá nhân. Mối quan tâm cộng đồng đã nhường chỗ cho số phận cá nhân. Cái tôi trữ tình tìm thấy tiếng nói khác đầy ắp tâm trạng, nỗi trăn trở, sự day dứt, lo âu đầy trách nhiệm về chiến tranh vệ quốc, về hy sinh, mất mát, về nhu cầu, khát vọng của con người. Đó chính là cơ sở để thức tỉnh ý thức cá nhân và tinh thần nhân bản sẽ trở thành nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo bao trùm của nền văn học sau năm 1975. Sương Nguyệt Minh khai thác những sự kiện, con người trong các cuộc chiến càng không dừng lại ở cái nhìn xuôi chiều, phiến diện. Với chỗ đứng của một người đã có độ lùi khoảng cách thời gian với “một thời đã qua”, Sương Nguyệt Minh nhìn chiến tranh và những người đi ra từ chiến tranh với một cái nhìn sâu hơn, đa chiều hơn. Yêu cầu tái hiện lịch sử giờ chỉ là một phần, nhà văn còn khám phá được thế giới tâm lý con người, số phận con người trong và sau cuộc chiến. Sương Nguyệt Minh biết đặt cuộc chiến trong tương quan với cuộc sống hôm nay, từ đó có những đóng góp không nhỏ vào mảng đề tài viết về chiến tranh. Sự đan xen cảm hứng ở những tác phẩm viết về chiến tranh tạo ra những mảng màu đa dạng trong tác phẩm của Sương Nguyệt Minh. Đọc những câu chuyện của anh viết về thời kỳ khói lửa, người đọc vừa được cảm nhận vẻ đẹp lung linh của những mối tình thời chiến, vừa thấy cái khốc liệt mà bom đạn gây ra cũng như những đổi thay đau lòng khi con người bước vào cuộc sống hòa bình.
Nhà văn Aimatov đã từng nhận định rằng: “Một tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng”. Bởi lẽ khi trang sách đóng lại, tác phẩm mới thực sự đang sống, sống với những trăn trở và tình cảm của người đọc. Qua tác phẩm “Người ở bến sông Châu” của nhà văn Sương Nguyệt Minh bản thân chúng ta đã có thêm một bài học. Những hậu quả mà chiến tranh để lại là vô cùng khủng khiếp, cho nên con người chúng ta sống và phải đấu tranh vì hoà bình, vì tự do và vì hạnh phúc. Hơn thế chúng ta phải biết ơn những chiến sĩ, anh hùng đã nằm xuống để đổi lấy hoà bình ngày hôm nay, như câu nói:
“Tự do, hòa bình không phải dễ, có được bây giờ nhất định phải giữ”
Mẫu 8
Nhà văn Sương Nguyệt Minh xuất thân từ vùng quê nông thôn nghèo thuộc huyện Yên Mô (Ninh Bình) lên thành phố học hành, công tác rồi bước vào con đường viết văn. Có lẽ vậy mà ngòi bút của anh có phần “thiên vị” khi lựa chọn đối tượng là phụ nữ nông thôn để đưa vào tác phẩm của mình. Anh viết bằng một cái đầu lạnh và trái tim ấm nóng. Viết bằng con mắt tinh tường, bằng sự quan sát từng trải của một người đàn ông thông minh nhìn về phái khác giới. Dì Mây trong truyện “Người ở bến sông Châu” của Sương Nguyệt Minh là một trong số những những nhân vật nữ tiêu biểu ấy.
Truyện xây dựng một tình huống éo le, rắc rối, khó đoán, bộc lộ rõ hoàn cảnh trớ trêu của các nhân vật mà trung tâm là nhân vật dì Mây - một phụ nữ, người nữ quân y từ chiến trường trở về đúng ngày người yêu đi lấy vợ. Từ tình huống trớ trêu, nan giải này, tác giả miêu tả thành công tâm trạng đau khổ của dì Mây, gợi lại quá khứ tình yêu của dì Mây và chú San, khiến nhân vật có chiều dày quá khứ; thể hiện được những biến chuyển, đổi thay về thể chất, tinh thần của dì Mây sau một thời gian về ở bến sông Châu; những hành động, lựa chọn, quyết định mà dì Mây đã thực hiện (ra ở bến sông Châu, phụ giúp cha chèo đò, làm y tá ở trạm xá xã, đỡ đẻ cứu mẹ con cô Thanh, nhận nuôi thằng Cún và từ chối tình cảm của chú Quang).
Ngày dì Mây khoác ba lô về làng, chú San đi lấy vợ: xúc động nghẹn ngào khi được trở về quê hương, gặp người cha ở bến sông (giọng nói: “nghèn nghẹn”; hành động: “nhào xuống đò”); tâm trạng ngổn ngang, tan nát khi thấy nhà chú San đang có đám cưới (“dì Mây miễn cưỡng trả lời, bụng dạ cứ để bên nhà chú San.”); khi nói chuyện riêng với chú San: ban đầu, tâm trạng đau khổ, uất ức, (“Dì Mây nuốt nước mắt vào trong: “Bây giờ không còn gì để nói nữa. Anh về đi!””; “Dì chống nạng gỗ, lộc cộc bỏ ra ngoài ngõ.”); tiếp đó, tâm trạng chuyển từ uất ức, tức tưởi đến thống trách (“Hôm nay là ngày gì? Anh nhớ không? Có ngờ đâu ngày ấy tiễn anh đi cũng là ngày li biệt.”); tình cảm yêu thương sâu nặng bùng lên côn cào, da diết làm cho nhân vật như mê mị đi (“Dì Mây lặng đi, người rõ ra, mềm oặt. Dì từ từ khuỵu xuống.”); kết thúc, dì Mây tỉnh táo, nhận rõ hoàn cảnh, quyết định dứt khoát, đầy bản lĩnh và nhân hậu (“Không!”. Tiếng dì Mây phá vỡ khoảng không gian im lặng. Dì bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân. Chú San chạy theo níu áo dì Mây. Dì đứng lại, thở hổn hển: “Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!”; “Anh đừng lo cho tôi.”. Dì thở dài đánh thượt: “Sự thể đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn.””), Diễn biến tâm trạng, thái độ, hành động, quyết định của dì Mây trong tình huống này cho thấy nhân vật là người có tình cảm da diết, sâu nặng, có ý chí mạnh mẽ, bản lĩnh vững vàng và lòng nhân hậu sâu sắc.
Truyện không chủ ý viết về chiến tranh, bom đạn; về những gian khổ, hi sinh của người nữ chiến sĩ ở chiến trường. Truyện tập trung kể về sự hi sinh thầm lặng, bản lĩnh phi thường, phẩm chất tốt đẹp của người nữ thương binh giữa đời thường. Mây, người nữ chiến sĩ quân y Trường Sơn, vốn đã chịu thương tật vì bom đạn, nay trở về quê hương đúng ngày người yêu đi lấy vợ, phải nhận thêm chấn thương tinh thần đau đớn, dai dẳng. Không muốn một người phụ nữ nữa (cô Thanh) phải chịu đau khổ như mình, dì Mây chấp nhận rời xa chú San, lặng lẽ sống nơi lều cỏ bên bến sông Châu. Người phụ nữ ấy không gục ngã vì hai lần đau đớn, vì sự trớ trêu của số phận. Bằng bản lĩnh, nghị lực phi thường, chị đã hoà nhập vào đời sống, sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm mới, sống nghĩa tình, nhân hậu, yêu thương giữa cuộc đời.
Bản lĩnh và lòng nhân hậu của nhân vật dì Mây thật đáng ngưỡng mộ. Cuộc sống hôm nay, tuy không còn chiến tranh, bom đạn, nhưng nghị lực phi thường và lòng nhân hậu của nhân vật dì Mây có sức mạnh cổ vũ mọi người can đảm đối mặt và sẵn sàng vượt qua những những tình huống khó khăn trong cuộc sống, có ý chí vươn lên làm người tốt, sống có ích giữa cuộc đời.
Mẫu 9
Tính cách và phẩm chất của nhân vật dì Mây trong truyện qua các tình huống và sự kiện tiêu biểu:
Dì Mây là người dũng cảm, gan dạ, dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp cho cách mạng: "Dì Mây chắn cửa hầm che chở cho thương binh. Bom nôt người người lính công binh sốt rét tóc rụng trọc đầu vẫn lành lặn..". Chính vì sự hi sinh cao cả đó, đã khiến cô từ một người con gái xinh đẹp mà trở thành người chịu nhiều hậu quả của chiến tranh đầy mất mát: Dì Mây bước tập tễnh, tóc Dì Mây rụng nhiều, xơ và thưa, dì có chân giả, chống nạng gỗ.
Dì Mây có mối tình đằm thắm, trong sáng với chú San, tuy nhiên lại rơi vào nghịch cảnh éo le: ngày cô trở về quê cũng là ngày người yêu – San đi lấy vợ vì tưởng cô hy sinh. Ngay đêm tân hôn, biết tin Mây còn sống quay về, San đã tìm gặp Mây. Anh xin cô được bỏ vợ để cả hai làm lại từ đầu. Mây khóc, từ chối vì cho rằng: “Một người phụ nữ đau khổ và lỡ dở đã là quá đủ”.
Dì Mây có lòng nhân hậu vị tha, thương người: dì Mây đỡ đẻ giúp vợ của chú San sinh em bé do vợ chú vượt cạn thiếu tháng, thai ngôi bị ngược; dì còn chăm sóc thằng Cún thay thím Ba vì thím đã mất do chiến tranh.
Qua đây, ta thấy được cuộc đời của dì thật đau xót, đầy éo le. Cuộc chiến tranh đã cướp đi tất cả: tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc và mài mòn dần những gì còn sót lại của cô trở về sau chiến tranh.
Câu 9
Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn trích Kiều binh nổi loạn (Hoàng Lê nhất thống chí – Ngô gia văn phái). (10 mẫu)
Lời giải
Dàn ý
I. Mở bài:
· Giới thiệu khái quát những nét tiêu biểu nhất về nhóm tác giả Ngô gia văn phái: Đây là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì
· Giới thiệu về tiểu thuyết chương hồi Hoàng Lê nhất thống chí và đoạn trích: Đây là một tiểu thuyết khắc họa chân thực, đầy đủ những biến động xã hội trong một thời kỳ lịch sử của đất nước, đoạn trích hồi thứ 14 đã đưa đến những khắc họa đặc sắc về hình tượng vua Quang Trung cùng sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống
II. Thân bài
1. Hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung
* Một người hành động mạnh mẽ, quyết đoán
· Nghe tin giặc chiếm Thăng Long mà không hề nao núng, đích thân cầm quân đi ngay
· Trong vòng hơn tháng, làm được rất nhiều việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi và thân chinh cầm quân ra Bắc
* Một con người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén
- Trí tuệ sáng suốt và nhạy bén trong việc nhận định tình hình địch và ta
· Quang Trung đã vạch rõ âm mưu và tội ác của kẻ thù xâm lược đối với nước ta: “mấy phen cướp bọc nước ta, giết dân ta, vơ vét của cải”...
· Khích lệ tinh thần tướng sĩ dưới trướng bằng những tấm gương dũng cảm
· Dự kiến được một số người Phù Lê có thể thay lòng đổi dạ nên có lời dụ với quân lính vừa chí tình vừa nghiêm khắc
- Trí tuệ sáng suốt và nhạy bén trong xét đoán bề tôi:
· Trong dịp hội quân ở Tam Điệp ta thấy Quang Trung nhận định tình hình sáng suốt để đưa ra lời ngợi khen cho Sở và Lân
· Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao sự “đa mưu túc trí”
⇒ Dùng người sáng suốt
* Một con người có tầm nhìn xa trông rộng và tài thao lược hơn người
- Tầm nhìn xa trông rộng:
· Mới khởi binh nhưng đã khẳng định “phương lược tiến đánh đã tính sẵn”
· Đang ngồi trên lưng ngựa mà đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm tới ta hòa bình
- Tài thao lược hơn người thể hiện ở cuộc hành quân thần tốc mà đội quân vẫn chỉnh tề
2. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh
· Hình ảnh Tôn Sĩ Nghị kiêu căng, tự mãn, chủ quan, kéo quân vào Thăng Long mà không đề phòng gì ⇒ Tướng bất tài
· Khi quân Tây Sơn đánh vào, “tướng sợ mất mật”, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp...chuồn trước qua cầu phao”
· Quân sĩ xâm lược lúc lâm trận thì sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết....
⇒ Kể xen lẫn tả thực cụ thể, sống động, ngòi bút miêu tả khách quan
3. Số phận thảm bại của bọn vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân
· Khi có biến, Lê Chiêu Thống vội vã “chạy bán sống bán chết”, cướp cả thuyền dân để qua sông, luôn mấy ngày không ăn, may có người thương tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn
· Đổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt
· Sang Trung Quốc, vua phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống người Mãn Thanh và cuối cùng gửi gắm xương tàn nơi đất khách
⇒ Số phận tất yếu cho một người đứng đầu đất nước nhưng lại bán nước hại dân
III. Kết bài:
· Khái quát lại những nét đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công về nội dung của tiểu thuyết chương hồi: Cách kể chuyện chân thực, sinh động, khắc họa nhân vật rõ nét...
· Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về hình tượng Nguyễn Huệ, chân dung kẻ thù và vua quan Lê Chiêu Thống, từ đó đưa ra bài học nhận thức, hành động
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 1
Chiến tranh đã khép lại nhưng trong sử sách nước nhà vẫn còn tô đậm dấu ấn của trận Ngọc Hồi - Đống Đa với chiến thắng thần tốc, vang dội đất trời đã khiến chúng ta nhớ đến một vị vua tài ba, anh dũng đó chính là vua Quang Trung. Tuy tương quan lực lượng chênh lệch nhưng nhờ có những vị tướng giỏi với tài điều binh khiển tướng đã giúp cho quân dân ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Chính vì vậy, nhóm tác giả Ngô gia văn phái trong "Hoàng Lê nhất thống chí" đã tái hiện lại hoàn cảnh nước ta khoảng 30 năm cuối thế kỉ 18, đặc biệt là qua đoạn trích hồi thứ 14 ta đã thấy được hình tượng vua Quang Trung và sự thất bại của quân bán nước và cướp nước.
Nhóm tác giả Ngô gia văn phái bao gồm hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du. Ngô Thì Chí (1753 - 1788) là em ruột của Ngô Thì Nhậm, ông từng làm quan dưới thời vua Lê Chiêu Thống và tuyệt đối trung thành với nhà Lê. Có nhiều nguồn tài liệu cho rằng ông là tác giả của 7 hồi đầu của "Hoàng Lê nhất thống chí". Ngô Thì Du (1772 - 1840) là anh em chú bác ruột của Ngô Thì Chí tuy học giỏi nhưng không đỗ đạt gì. Ông làm quan dưới thời nhà Nguyễn đến năm 1827 thì về nghỉ và là tác giả của 7 hồi tiếp theo của "Hoàng Lê nhất thống chí". Đoạn trích được học là hồi thứ 14 của "Hoàng Lê nhất thống chí" đã tái hiện lại chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, đồng thời cho thấy sự thảm bại của tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Trong tác phẩm, vua Quang Trung - Nguyễn Huệ được miêu tả sắc nét với tài cầm quân "bách chiến bách thắng", có tính quyết đoán và nhiều phẩm chất tốt đẹp khác. Ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến của thuộc hạ để hiểu lòng dân, lên ngôi vua giữ lòng người rồi mới xuất quân ra Bắc chiến đấu. Khi đến Nghệ An ông lại cho với người cống sĩ vào để hỏi rằng chuyến đi này của ông liệu thắng hay bại cho thấy rằng ông làm mọi việc là vì dân cho nên việc nhỏ nhất cũng phải theo ý kiến của dân. Khi nghe vị cống sĩ trả lời "Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan" thì vua Quang Trung "mừng lắm" vì sự quyết tâm này của ông đã được nhân dân ủng hộ. Ông lập tức cho người kén lính và chỉ trong một thời gian rất ngắn, nhà vua đã có "hơn một vạn quân tinh nhuệ" trong tay. Nhờ có trí tuệ nhanh nhạy, sáng suốt hơn người, nhạy bén trước thời cuộc và vô cùng khéo léo nên ông đã thuyết phục được các binh sĩ "không dám hai lòng". Khi nói với các binh sĩ, ông đã cho họ ngồi cho thấy rằng ở đây không hề có sự phân biệt giữa vua và lính. Sau khi lấy lịch sử từ các triều đại trước ra để cho binh sĩ thấy nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống trị ngoại bang, ông không quên nhất định sẽ phải trừng phạt kẻ phản bội khiến cho các binh sĩ càng thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc hơn. Nhờ vào ý chí quyết chiến quyết thắng, có tầm nhìn xa trông rộng, khao khát hòa bình nên quân Lam Sơn đã giành chiến thắng "thần tốc" ở trận Ngọc Hồi. Lời hứa hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng của ông được chứng minh bằng tài điều binh khiển tướng như thần. Ông đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn công làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ướt để tấn công làng Ngọc Hồi đã khiến cho quân Thanh hoàn toàn bất ngờ, khi chúng biết được tin tức thì đã không thể chống cự được nữa, chỉ biết giẫm đạp lên nhau mà chạy. Dựa vào những chi tiết trên, chúng ta có thể thấy rằng vua Quang Trung là một vị anh hùng dân tộc quả cảm, tài trí, giàu lòng nhân ái, bậc thiên tài quân sự và cũng chính là linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn , của chiến thắng vĩ đại.
Khi nghĩa quân Lam Sơn giành chiến thắng thì cũng là lúc quân tướng nhà Thanh thất bại thảm hại và bè lũ bán nước hại dân Lê Chiêu Thống phải gánh chịu số phận bi đát. Quân Thanh thì có tướng bất tài Tôn Sĩ Nghị luôn kiêu căng, tự mãn chủ quan kéo quân vào xâm chiếm thành Thăng Long chỉ chăm chú việc yến tiệc vui mừng mà không đề phòng bất trắc, "sợ mất mật", "ngựa không kịp đóng yên", "người không kịp mặc áo giáp" mà vội vàng chuồn trước. Quân sĩ thì vô dụng cho nên khi quân Tây Sơn đánh vào thì bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, chúng tham sống sợ chết đến mức tranh nhau qua cầu, xô đẩy nhau rơi xuống nước chết nhiều đến nỗi nước sông Nhị Hà cũng bị tắc không thể chảy được. Vua tôi Lê Chiêu Thống thì chỉ biết chầu chực, cầu cạnh, luồn cúi dựa vào thế lực quân Thanh, chạy bán sống bán chết khi nghe tin quân Tây Sơn đuổi kịp và phải trốn sang Tàu. Đó cũng chính là số phận nhục nhã, hèn hạ của vua tôi Lê Chiêu Thống nói riêng và của toàn bộ lũ bán nước và cướp nước nói chung.
Tác giả đã lựa chọn trình tự kể theo diễn biến các sự kiện lịch sử, ngôn ngữ kể, tả chân thực, gây ấn tượng mạnh đã thể hiện thái độ của mình với từng đối tượng khác nhau như vua Quang Trung, quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống. Nhịp điệu nhanh, hối hả ẩn chứa sự hả hê, sung sướng trước chiến thắng oanh liệt của vua Quang Trung và sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Nhịp điệu có phần chậm hơn, không giấu giếm được sự ngậm ngùi, xót thương khi miêu tả tỉ mỉ cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống vì họ vốn là những cựu thần của nhà Lê. Đoạn trích đã thể hiện quan điểm lịch sử đúng đắn, tinh thần yêu nước thương dân của nhóm tác giả và từ đó lên án lũ bán nước, cướp nước.
Qua đoạn trích trên, nhóm tác giả đã đem đến cho người đọc một bức tranh "toàn bích" về vị anh hùng oai phong, lẫm liệt và tài giỏi Quang Trung. Đó cũng chính là tấm gương sáng để chúng ta cần học hỏi và noi theo về tinh thần quả cảm, yêu nước. Lòng yêu nước chính là sức mạnh vĩ đại giúp chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 2
Hoàng Lê nhất thống chí, cuốn sách của dòng họ Ngô Thì ở làng tả Thanh Oai, một cuốn sách ghi lại nhiều sự kiện lịch sử, trong đó có vua Quang Trung đại phá hơn ba mươi vạn quân Thanh, một tác phẩm đưa con người ngược lại quá khứ để thấy được cuộc sống, xã hội thời bấy giờ và hòa mình vào chiến thắng vẻ vang hào hùng, đắm mình trong không khí tưng bừng lịch sử đó.
Ngô Gia Văn Phái đã tái hiện chân thực nhân vật lịch sử Quang Trung, người có công to lớn, một vị anh hùng của dân tộc trong chống ngoại xâm, giữ gìn đất nước, Quang Trung hiện lên trong tâm trí người đọc là một con người mạnh mẽ, quyết đoán, tài trí song toàn, xả thân vì đất nước, xả thân vì dân tộc, đoán trước được những gì sẽ xảy ra với nhân dân ta khi nghe tin quân Thanh tấn công vào miền Bắc đất nước ta, nhận thấy được mối nguy hại cận kề, sự tàn khốc mà quân Thanh sẽ gây ra cùng với sức mạnh của chúng ông đã lên ngôi hoàng đế tự mình dẫn quân ra Bắc ngăn chặn mối nguy hại đó, một con người tài ba có tài thao lược, con người có thể thấu hiểu lòng dân, thấu hiểu lòng binh sĩ, những lời lẽ của ông khích lệ mạnh mẽ tình yêu dân tộc, sức mạnh, nỗi khát khao trong lòng binh sĩ. Không chỉ thế ông còn có tầm nhìn xa trông rộng, biết cách chọn người tài, đứng đầu nhưng vẫn lắng nghe ý kiến từ nhiều phía để có cái nhìn đúng đắn nhất về sự việc.
Đặc biệt mưu lược hơn người của Quang Trung thể hiện trong cách ông cầm quân, cách mà ông lãnh đạo binh sĩ của mình tiến công thần tốc ra Bắc, cùng với chiến thuật được lên trước đó vô cùng tinh vi, không có một kẽ hở nào trước cuộc tấn công quân Thanh ở Ngọc Hồi, sự tư duy khi ông cho người ghép ván, lấy rơm dấp ván đánh vào tâm lí quân địch khiến chúng hoảng sợ dẫm đạp lên nhau chạy về nước trước sự xuất hiện bất ngờ của quân ta, tính chất bất ngờ là vô cùng quan trọng trong trận thắng lần đó, sự kiêu căng chủ quan vì sức mạnh của bản thân mà coi thường quân dân ta đã dẫn tới thất bại của quân Thanh. Lúc quân thanh còn kiêu ngạo cả tướng lẫn quân cũng là lúc lực lượng của ta chuẩn bị chu đáo, biến đổi từng ngày một, không khinh thường địch, tinh thần dân tộc đồng lòng của nhân dân cũng là nguyên nhân to lớn nhất dẫn tới những trận thắng tiếp theo. vừa ca ngợi mưu trí song toàn của Quang Trung các tác giả nhà Ngô Gia Văn Phái cũng đã rất tinh tế trong tái hiện lại thảm cảnh vô cùng nhục nhã của bè lũ vua quan tướng Ngô Sĩ Nghị và sự mục nát, yếu ớt không có tinh thần của dưới thời vua Lê Chiêu Thống, những con người bất tài vô dụng đó người thì theo thuyền cá về phía Bắc lẩn trốn, người thì tháo chạy không kịp mặc giáp, không kịp đóng yên ngựa.
Ngòi bút tinh tế của mình các tác giả đã dựng lên một thảm cảnh vừa buồn cười vừa tủi nhục của chế độ mục nát, đồng thời ca ngợi sự tài tình của vua Quang Trung, tinh thần dân tộc của quân dân ta kiên cường, phản ánh trận chiến ác liệt và vẻ vang của chiến thắng trong giai đoạn lịch sử không thể quên.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 3
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm viết bằng chữ Hán của Ngô gia văn phái. Tác phẩm là những ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê. Đoạn trích thuộc hồi thứ mười bốn đã tái hiện chân thực vẻ đẹp anh dũng, hào hùng, tài trí song toàn của người anh hùng áo vải Quang Trung. Đồng thời cho thấy sự thất bại thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống và bè lũ cướp nước.
Trong tác phẩm nổi bật lên hai chân dung chính: chân dung của vị anh hùng Nguyễn Huệ và chân dung của bè lũ cướp nước cùng vua tôi Lê Chiêu Thống. Với mỗi nhân vật tác giả có cách khắc họa riêng, hết sức tài tình vừa đảm bảo tính chân thực, khách quan vừa thể hiện được cái tôi cá nhân tác giả.
Trước hết về người anh hùng Quang Trung, ông là nhà lãnh đạo quyết đoán, có trí tuệ sáng suốt. Ngay khi vừa hay tin quân Thanh tiến đến Thăng Long, ông đã nhanh chóng quyết định lên ngôi vua, để danh chính ngôn thuận đem quân tiến ra Bắc. Cách làm việc của ông hết sức nhanh chóng, quyết đoán, có tầm nhìn xa, bởi nếu ông không lên ngôi vua thì danh không chính, ngôn cũng không thuận thật khó có thể làm việc lớn.
Lên ngôi vua cũng cách thức làm yên lòng dân và ông ngay lập tức cầm quân ra Bắc. Trên đường tiến quân ra Bắc ông gặp Nguyễn Thiếp một người tài giỏi, mưu lược, ông trân trọng, lắng nghe kế sách của Nguyễn Thiếp. Ông là người rất trân trọng và ủng hộ người tài. Ra đến Nghệ An ông đã tuyển được hơn một vạn tinh binh, mở cuộc duyệt quân lớn. Trước khi cầm quân ra Bắc ông còn đọc lời phủ dụ binh lính, vạch trần âm mưu xâm lược hiểm độc của nhà Thanh, cho thấy bộ mặt xấu xa, tàn ác của kẻ thù; đồng thời cũng nêu lên ý thức kỷ luật cho binh sĩ.
Những lời ông nói như sấm vang, chớp giật, có tác động to lớn trong việc khích lệ tinh thần binh sĩ. Ông còn là người hết sức sáng suốt, có tầm nhìn ra trông rộng. Là một người tài giỏi, Quang Trung đã đoán biết được tình hình của giặc, lập kế sách tiến đánh và khẳng định chỉ trong vòng mười ngày là giành lại được kinh thành Thăng Long. Ông tiến hành một cuộc hành binh thần tốc, 25 tháng Chạp xuất quân ở Phú Xuân, 30 ông đã đến Tam Điệp ở Ninh Bình.
Và ngày đêm 30 bắt đầu tiến quân ra thành Thăng Long. Đây quả là cuộc hành quân thần tốc, có một không hai trong lịch sử nước nhà. Không chỉ vậy ông còn nhìn rõ bản chất quân địch, là nước lớn, sau khi thua nhất định sẽ quay lại báo thù. Bởi vậy, ông đã có kế sách ngoại giao ngay sau khi dành được chiến thắng. Ông quả là một bậc kỳ tài, thấu hiểu những gian nan, thử thách mà dân tộc phải đối mặt, đưa ra những phương hướng, chiến lược đứng đắn, là cơ sở cho sự đại thắng của quân dân ta.
Quang Trung còn có tài dụng binh như thần. Ông thấu hiểu chỗ mạnh chỗ yếu của các tướng sĩ: trách mắng Sở và Lân rất nghiêm khắc cho họ thấy mức độ nghiêm trọng của sự việc, nhưng đồng thời cũng khen ngợi hành động của họ để bảo toàn lực lượng. Ông đánh giá cao Ngô Thì Nhậm về sự mưu trí, mưu lược hơn người. Ông quả là một tướng tài biết nhìn việc, nhìn người.
Tài cầm quân đã xuất sắc, tài đánh trận của ông cũng không hề kém cạnh. Để khích lệ lòng quân ông cho binh sĩ ăn tết trước, hẹn mùng 7 vào Thăng Long mở tiệc lớn. Không những vậy ông còn đảm bảo được yếu tố bất ngờ, bắt sống hết quân do thám và tân binh của giặc, khiến các đồn không thể báo tin cho nhau. Đảm bảo yếu tố bất ngờ, nhằm đúng tết nguyên đán tiến đánh kẻ thù, bởi lúc này chúng đang ngủ quên trên chiến thắng, say mê hưởng lạc, không phòng bị.
Ông thay đổi chiến thuật linh hoạt: trận Hà Hồi dùng nghi binh, đánh Ngọc Hồi cho quân chế tạo những tấm ván ghép bằng rơm ướt, nhờ vậy mà giảm được thương vong. Đặc biệt hơn nữa ông còn đích thân ra trận, chỉ huy một hướng tiến công. Quang Trung là hội tụ vẻ đẹp, tinh hoa và khí phách của dân tộc.
Trái ngược với vẻ đẹp oai phong, lẫm liệt của vua Quang Trung bọn quân tướng nhà Thanh thất bại thảm hại. Tôn Sĩ Nghĩ ban đầu tiến vào nước ta một cách dễ dàng nên luôn kiêu căng tự mãn. Không nắm rõ tình hình, chỉ lo ăn chơi hưởng lạc. Hắn còn là kẻ tham sống, sợ chết, chưa đánh đã sợ mất mật mà bỏ chạy: “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy”. Những kẻ khác kẻ thì đầu hàng, kẻ thắt cổ tự vẫn.
Thật là một bọn ô hợp, hèn nhát và bất tài. Ở đoạn văn này ngòi bút miêu tả được tác giả phát huy hết tác dụng, kết hợp với nhịp điệu nhanh, gấp gáp cho thấy sự hoảng hốt và thất bại thảm hại của kẻ thù. Đồng thời còn cho thấy giọng điệu hả hê, sung sướng trước thắng lợi của quân ta và sự đại bại của quân giặc.
Còn về phía vua tôi Lê Chiêu Thống, khi xảy ra biến loạn, quân Thanh tan rã thì vô cùng sợ hãi, bỏ chạy, thậm chí còn cướp cả thuyền của dân để qua sông. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc phải cạo đầu, tết tóc, trang phục như người Mãn. Thật đáng thương thay từ một bậc quân vương đứng đầu hàng vạn người, vậy mà chỉ vì quyền lợi của bản thân và dòng họ, Lê Chiêu Thống đã bán nước nên phải chịu nỗi nhục vong quốc, nắm xương tàn phải bỏ lại nơi đất khách quê người.
Mặc dù cùng miêu tả về sự thảm bại, nhưng nhịp điệu ở đoạn văn này nhịp điệu lại chậm hơn. Thể hiện sự xót thương, ngậm ngùi cho số phận của Lê Chiêu Thống. Bởi dù sao ông cũng là một cựu thần trung thành của nhà Lê, trước sự sụp đổ triều đại mình tôn thờ không khỏi không ngậm ngùi, chua xót.
Tác phẩm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn hấp dẫn người đọc ở nghệ thuật trần thuật. Ghi lại những sự kiện lịch sử qua từng mốc lịch sử, cho thấy không khí khẩn trương, gấp gáp và chiến thắng hào hùng của quân ta. Nghệ thuật miêu tả nhân vật sinh động, hấp dẫn. Từng trận đánh được miêu tả chi tiết, cho thấy khí thế hừng hực của quân ta và sự thất bại thảm hại của quân thù. Nghệ thuật đối lập giữa ta và địch: một bên đớn hèn, nhát chết một bền xông xáo, mưa chí, tài lược.
Qua hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất thống chí, tác giả đã cho người đọc một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về vẻ đẹp anh hùng, dũng cảm, mưu lược của người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Chiến thắng oanh liệt vẻ vang của nhân dân ta trước kẻ thù. Đồng thời còn cho thấy sự thất bại thảm hại của nhà Thanh, và sự đáng thương của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 4
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm do một số người cùng trong dòng họ Ngô Thi viết. Có thể hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du viết trong những thời điểm nối tiếp nhau.
Ngô Thì Chí (1758 – 1788) là em ruột của danh nhân Ngô Thì Nhậm. Ông làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống, từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt lộng thần Nguyễn Hữu Chỉnh và dâng Trung hưng sách bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó, ông được vua Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập ra đoàn nghĩa binh chống Tây Sơn, nhưng trên đường đi ông bị bệnh và mất đột ngột tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Nhiều tài liệu cho rằng ông viết bảy hồi đầu của truyện.
Ngô Thì Du (1772 – 1840) là anh em chú bác với Ngô Thì Chí ông học giỏi nhưng không đổ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ông ấn mình ở vùng Kim Bảng, Hà Nam. Thời nhà Nguyễn, ông ra làm quan, được bổ nhiệm làm Đốc học Hải Dương, đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả bảy hồi tiếp theo của Hoàng Lê nhất thống chí, trong đó có hồi mười bốn được trích giảng ở đây. Còn lại ba hồi cuối có thể do một người khác trong Ngô gia văn phái viết vào khoảng đầu triều Nguyễn.
Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn sách ghi chép về những sự kiện của vương triều nhà Lê, có lẽ là vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại quyền cai trị đất Bắc Hà cho vua Lê, về hình thức, tuy tác phẩm chịu ảnh hưởng lối viết tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, những các tác giả rất tôn trọng sự thật lịch sử. Cho nên, mặc dù do nhiều người viết và viết ở nhiều thời điểm khác nhau nhưng nội dung tác phẩm về cơ bản vẫn giữ được tính nhất quán.
Trong văn học Việt Nam thời trung đại, có thể coi Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán có quy mô to lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc nhất về mặt nghệ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết.
Tác phẩm đã tái hiện chân thực và sinh động bối cảnh lịch sử đầy biến động ở nước ta trong khoảng hơn ba thập kỷ cuối của thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX.
Khởi đầu câu chuyện là sự sa đọa, thối nát đến cực độ của các tập đoàn phong kiến. Thời Lê mạt, vua chẳng ra vua. Vua Lê Hiển Tông ốm đau, bạc nhược, chỉ còn biết chắp tay rủ áo, cam phận làm bù nhìn. Câu nói cửa miệng của ông ta là: Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui, Vua Lê Chiêu Thống đê hèn, cúi đầu khuất phục trước giặc Mãn Thanh, mong cứu vãn cái ngai vàng mục ruỗng sắp sụp đổ. Ông vua cuối cùng là Lê Duy Mật thì tệ hại đến mức bị người đời đánh giá cùng chỉ là một cục thịt trong cái túi da mà thôi.
Bên phủ Chúa, Trịnh Sâm sống xa hoa hưởng lạc, hoang dâm vô độ. Vì say mê Đặng Thị Huệ nên Chúa Trịnh sẵn sàng phế con trưởng, lập con thứ, gây nên loạn từ trong nhà loạn ra. Anh em chém giết lẫn nhau. Kiêu binh ỷ thế lộng hành, Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến đã đến hồi quyết liệt, cần được giải quyết. Trong bối cảnh đó, cuộc nổi dậy với khí thế ngất trời của phong trào Tây Sơn là một tất yếu.
Rồi Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn. Nhưng cơ nghiệp nhà Tây Sơn ngắn ngủi. Chúa Nguyền dần dần hồi phục thế lực, dẹp Tây Sơn, lập vương triều mới (1802). Kết thúc tác phẩm là tình cảnh thảm hại, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu Thống khi nương thân ở nước người.
Tất cả những sự kiện lịch sử trên được các tác giả ghi chép lại thật cụ thể, tỉ mi. Nối bật lên trên bối cảnh của thời đại nhiễu nhương ấy là hình bóng của những con người thuộc các phe phái đối lập, đặc biệt là hình ảnh ngời sáng của vua Quang Trung Nguyễn Huệ – người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của dân tộc.
Hồi thứ mười bốn là đoạn trích dài, kể lại diễn biến của nhiều tình tiết, sự kiện. Để hiểu rõ đoạn trích này, chúng ta phải tìm hiểu đôi nét về nội dung của hồi mười hai và mười ba. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai đề bắt viên quan phản bội Vũ Văn Nhậm thì vua Lê Chiêu Thông sợ hãi bỏ kinh thành Thăng Long chạy lên vùng biên ải phía Bắc, chiêu mộ nghĩa binh Gần vương đế chống lại.
Nhưng nhóm nghĩa binh ít ỏi ấy không đủ sức đối địch với quân Tây Sơn. Lê Chiêu Thống bèn cử hai viên quan hầu cận là Lê Duy Đản và Trần Danh Án bí mật trốn sang Trung Quốc, gặp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị để cầu viện. Tôn Sĩ Nghị muốn nhân cơ hội này cướp nước ta liền tâu lên vua Mãn Thanh, xin đưa quân sang đánh.
Được lệnh, Tôn Sĩ Nghị kéo đại quân sang với danh nghĩa phù Lê, diệt Tây Sơn. Trước thế giặc mạnh, quân Tây Sơn rút lui về cố thủ ở Tam Diệp. Quân giặc kéo thẳng tới Thăng Long, không gặp sức kháng cự nào liền sinh ra kiêu căng, tự mãn. Lê Chiêu Thống cùng theo về, nhận sắc phong bù nhìn An Nam Quốc Vương.
Đoạn đầu của hồi thứ mười bốn nói về việc Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long, thấy dễ dàng, cho là vô sự nên không đề phòng gì cả. Điều đó làm cho vua tôi Lê Chiêu Thống vốn đã biết rất rõ tài cầm quân xuất quỷ nhập thần của Nguyễn Huệ, rất lo lắng.
Quân tướng Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long chỉ lo chơi bời, tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân, lính thì tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỷ luật gì cả. Người cung nhân cũ đến tâu với thái hậu về thái độ chủ quan coi thường Tây Sơn của giặc Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống có nguy cơ phải chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa. Thái hậu hoảng hốt nói với vua. Nhà vua lúc bấy giờ mới hoảng sợ, đến doanh trại xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân, bị hắn mắng thẳng vào mặt nên sợ hãi lui về.
Ở hồi thứ mười bốn này, với cảm quan lịch sử nhạy bén và niềm tự hào dân tộc to lớn, các tác giả đã khắc hoạ thành công hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, miêu tả sự thảm bại của các tướng lĩnh nhà Thanh và số phận bi đát của vua Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân.
Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ được miêu tả là con người tài ba, hành động một cách quả quyết, xông xáo, nhanh gọn và có chủ đích rõ ràng. Nghe tin giặc Thanh dã chiếm đến tận Thăng Long. Nguyễn Huệ đã thân chinh cầm quân đi ngay. Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp), Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế đốc xuất đại binh ra Bắc, gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và nghĩ đến cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
Một nhân tố quan trọng cần phải xem xét trước hết trong văn bản này là tác giả. Khi sáng tạo tác phẩm, tác giả không chỉ tái hiện hiện thực khách quan mà còn thể hiện những tư tưởng, tình cảm, quan điểm chính trị, xã hội,… của mình.
Tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô gia văn phái – một nhóm tác giả rất trung thành với nhà Lê. Nếu xét theo quan điểm phong kiến thì trong con mắt của Ngô gia, vua Quang Trung là kẻ nghịch tặc. Thế nhưng trong tác phẩm, hình ảnh Quang Trung – Nguyễn Huệ lại được miêu tả khá sắc nét với tài cầm quân “bách chiến bách thắng”, tính quyết đoán cùng nhiều phẩm chất tốt đẹp khác.
Các chi tiết, sự kiện trong phần đầu đoạn trích này cho thấy vua Quang Trung là người rất mạnh mẽ, quyết đoán nhưng không hề độc đoán, chuyên quyền. Ông sẵn sàng lắng nghe và làm theo ý kiến của thuộc: hạ, lên ngôi vua để giữ lòng người rồi mới xuất quân ra Bắc. Ngay khi đến Nghệ An, ông lại cho vời một người cống sĩ đến để hỏi về việc đánh quân Thanh như thế nào.
Chi tiết này cho thấy Quang Trung luôn quan tâm đến ý dân, lòng dân. Khi vị cống sĩ nói: “Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan”, ông “mừng lắm”, không chỉ vì người cống sĩ nói đúng ý mình mà chủ yếu là vì chủ trương của ông, quyết tâm của ông đã được nhân dân đồng tình ủng hộ. Bằng chứng là ngay sau đó ông cho tuyển quân “chưa mấy lúc đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ”.
Cách ăn nói của vua Quang Trung cũng rất có sức thuyết phục, vừa khéo léo, mềm mỏng vừa rất kiên quyết, hợp tình hợp lý. Khi nói với binh sĩ, ông đã cho họ ngồi (một cử chỉ biểu lộ sự gần gũi mặc dù ông đã xưng vương), từng lời nói đều giảm đi, để hiểu. Sau khi lấy lịch sử từ các triều đại trước ra để cho binh sĩ thấy nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống trị ngoại bang, ông không quên tuyên bố sẽ trừng phạt những kẻ phản bội, ăn ở hai lòng. Điều đó khiến cho binh sĩ thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc.
Những lời nói, việc làm của vua Quang Trung thật hợp tình, hợp lý và trên hết là hợp với lòng người. Vừa mềm dẻo vừa kiên quyết, xét đúng công, đúng tội, đặt lợi ích của quốc gia và của dân chúng lên trên hết, ông đã khiến cho binh sĩ thêm cảm phục, càng quyết tâm chống giặc. Đó là một yếu tố rất quan trọng tạo nên những chiến thắng liên tiếp của quân Tây Sơn dưới sự thống lĩnh của vua Quang Trung.
Ở phần tiếp theo của đoạn trích, để diễn tả không khí chiến trận rất khẩn trương, quyết liệt, các tác giả đã chú trọng nhiều hơn đến các sự kiện nhưng không vì thế mà làm mờ nhạt hình ảnh tài năng của vị thống lĩnh. Lời hứa chắc chắn trước lúc xuất quân của ông đã được đảm bảo bằng tài thao lược, xử trí hết sức nhạy bén, mưu trí trong những tình huống cụ thể: đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn công làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ướt để tấn công đồn Ngọc Hồi,… Tài dùng binh khôn khéo đó khiến cho quân Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, khi chúng biết được tin tức thì đã không thể chống cự lại được nữa, chỉ còn cách giẫm đạp lên nhau mà chạy.
Phần cuối của đoạn trích chủ yếu diễn tả cuộc tháo chạy hỗn loạn, nhục nhã của đám quan quân nhà Thanh. Ra đi “binh hùng tướng mạnh”, vậy mà chưa đánh được trận này đã phải tan tác về nước. Rất có thể sau khi bại trận, quân số của Tôn Sĩ Nghị (trước đó là hai – mươi vạn) vẫn còn đông hơn quân của vua Quang Trung nhưng trước sức tấn công như vũ bão của quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của một vị tướng tài ba và quyết đoán, chúng đã không còn hồn vía nào để nghĩ đến chuyện chống trả.
Trong đoạn này giọng điệu của các tác giả tỏ ra vô cùng hả hê, vui sướng. Khi miêu tả tài “xuất quỷ nhập thần” của quân Tây Sơn, các tác giả viết: “Thật là: Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”… Ngược lại, khi viết về Tôn Sĩ Nghị thì: “Tôn Sĩ Nghị sợ mất mặt, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp…”. Đó không còn là giọng của một người ghi chép lại các sự kiện một cách khách quan mà là giọng điệu sảng khoái của nhân dân, của dân tộc sau khi đã khiến cho bọn xâm lược ngoại bang, Vốn trước ngạo nghễ là thế, giờ đây phải rút chạy nhục nhã.
Đoạn nói về vua tôi nhà Lê càng khẳng định thái độ của các tác giả khi viết tác phẩm này. Mặc dù luôn đề cao tư tưởng trung nghĩa nhưng trước sự nhu nhược, hèn hạ của đám vua tôi nhà Lê, các tác giả vẫn thể hiện ít nhiều thái độ mỉa mai, châm biếm. Số phận những kẻ phản dân, hại nước cũng thảm hại chẳng kém gì những kẻ cậy đông, đem quân đi xâm lược nước khác. Đó là số phận chung mà lịch sử dành cho lũ bán nước và lũ cướp nước.
Cuộc đại phá quân Thanh xâm lược là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Người làm nên kỳ tích ấy là Quang Trung – Nguyễn Huệ, vị “anh hùng áo vải” vừa có tài thao lược vừa luôn hết lòng vì dân, vì nước. Trang sử hào hùng ấy đã được ghi lại bởi Ngô gia văn phái – nhóm tác giả đã vượt qua những tư tưởng phong kiến có hữu để tái hiện lịch sử một cách chân thực.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 5
Văn học trung đại Việt Nam khi nhắc đến thể chí không thể không nhắc đến tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Tác phẩm không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà cùng với ngòi bút chân thực sắc sảo đã cho hậu thế thấy được bản lĩnh của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, cùng sự thất bại thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống và quân Thanh. Điều này đã được phản ánh rõ nét trong hồi thứ mười bốn của tác phẩm này.
Tác phẩm viết theo thể “chí”: một thể văn cổ ghi chép sự vật, sự việc, vừa có tính chất văn học, vừa có tính chất lịch sử. (Đây thực chất là một tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối tiểu thuyết chương hồi.) Tác phẩm gồm 17 hồi, 7 hồi đầu do Ngô Thì Chí viết, 7 hồi tiếp theo do Ngô Thì Du viết, 3 hồi còn lại do người khác viết. Tác phẩm được viết ở nhiều thời điểm nối tiếp nhau từ giai đoạn cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn.
Đó là thời kỳ thống nhất đất nước thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh. Đoạn trích là Hồi thứ 14: Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài. Văn bản là lời ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của của Quang Trung cùng nghĩa quân Tây Sơn và sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh, bè lũ Lê Chiêu Thống.
Mở đầu đoạn trích là sự xuất hiện của Nguyễn Huệ. Ngược về những phần trước, có thể thấy Nguyễn Huệ được miêu tả hết sức tài năng, lẫm liệt: “Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh lại có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết”. Chỉ bằng những lời hết sức ngắn gọn của người hầu gái trong cung vua ta đã phần nào nhận thấy tài năng hơn người của Nguyễn Huệ.
Quân Thanh kéo vào Thăng Long, bành trướng thế lực, nghe được tin đó Nguyễn Huệ hết sức tức giận, định cầm quân đi tiêu diệt ngay lũ nghịch thù. Nhưng nghe theo lời khuyên của các tướng sĩ, tại núi Bân ông đã tế cáo trời đất lên làm vua, lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi lệnh xuất quân đi ngay. Việc Nguyễn Huệ lên ngôi vua đã tạo nên cơ sở vững chắc cả về tình và lý, qua đó thấy được tài năng của ông. Dù là người tài năng xuất chúng nhưng ông cũng rất biết lắng nghe ý kiến người khác, cân nhắc kỹ lưỡng trong mọi hành động.
Tài năng cầm quân, thiên tài quân sự trong ông được chứng minh qua cuộc hành quân thần tốc ra kinh thành Thăng Long. Ông lựa thời cơ là những ngày giáp tết Nguyên Đán, khi kẻ địch đang mải mê trên chiến thắng, lo chuyện ăn chơi hưởng lạc, không phòng bị để tiêu diệt chúng. Vừa đi ông vừa chiêu mộ quân sĩ, chỉ trong vài ngày ngắn ngủi Nguyễn Huệ cùng đội quân của mình đã ra đến Bắc Hà.
Trước khi chuẩn bị tiến đánh, trong bài dụ của mình ông đã khích lệ lòng yêu nước, lòng căm thù giặc cho tướng sĩ: “Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người minh không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi […] dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”. Đọc lời dụ của ông ta không khỏi nhớ đến bài Hịch tướng sĩ hào hùng của Trần Quốc Tuấn, lời dụ của ông cũng có sức thuyết phục không kém.
Trong cách dùng người, Nguyễn Huệ cũng tỏ ra là người hết sức xuất sắc. Ông nhận thấy được điểm yếu của mình, Sở và Lân chỉ là kẻ hữu dũng, vô mưu bởi vậy ông để lại Ngô Thì Nhậm mưu lược hơn người. Và quả nhiên nhìn nhận của ông hoàn toàn chính xác. Ngô Thì Nhậm phát huy bản thân, “biết nín nhịn để tránh mũi nhọn” của kẻ thù, tránh tổn thất cho quân ta. Đồng thời cũng không trách mắng Sở và Lân.
Bên cạnh đó, ta cũng thấy ông là người có tầm nhìn xa trông rộng, dự đoán chính xác khả năng chiến thắng của ta và tiên liệu những công việc ngoại giao cần làm sau chiến thắng. Ông cử Ngô Thì Nhậm, khéo ăn khéo léo để thương thuyết với kẻ thù, để nhân dân ta nghỉ sức, xây dựng đất nước. Ông quả là một vị vua vừa có tâm lại vừa có tầm.
Đẹp đẽ nhất là khung cảnh Quang Trung lâm trận, suy nghi, khí thế bừng bừng, một mình một mũi tiến quân, tiêu diệt quân giặc. Với tinh thần tôn trọng lịch sử, sự ngưỡng mộ, lòng khâm phục chân thành với vua Quang Trung bằng ngòi bút chân thực, đan xen kể và tả sinh động, các tác giả Ngô gia văn phái đã làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung – người anh hùng áo vải, niềm tự hào lớn của cả dân tộc.
Bên cạnh một Quang Trung uy nghi lẫm liệt trong chiến trận lại là những kẻ bán nước hèn nhát – vua tôi Lê Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành của ông ta vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận mệnh của dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược. Và lẽ tất nhiên, khi bán nước họ sẽ chịu nỗi sỉ nhục và sự đau đớn. Từ một ông vua Lê Chiêu Thống trở thành kẻ số phận hết sức bi thảm. Phải chạy trốn sang phương Bắc và chết ở nơi đất khách quê người.
Đối lập với hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn là chân dung kẻ thù xâm lược, cụ thể qua hình ảnh kẻ cầm đầu - Tôn Sĩ Nghị. Hắn ta là kẻ kiêu căng, tự mãn, chủ quan, kéo quân vào Thăng Long dễ dàng “ngày đi đêm ngủ” như “đi trên đất bằng”, cho là vô sự, không đề phòng gì.
Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì hèn nhát, vô trách nhiệm thì sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp… chuồn trước qua cầu phao; quân thì “ai nấy đều rụng rời sợ hãi xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, “quân sĩ các doanh nghe thấy đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều”, “đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”. Miêu tả sự trốn chạy, đại bại của quân tướng nhà Thanh với âm điệu nhanh, mạnh, gấp gáp gợi sự thất bại liên tiếp, thể hiện tâm trạng hả hê, sung sướng của người cầm bút.
Bằng quan điểm lịch sử chân chính của các sử gia, Ngô gia văn phái đã ghi lại một cách chân thực và sắc nét hình ảnh hào hùng của người anh hùng áo vải Quang Trung. Bên cạnh đó là sự thảm bại của vua tôi Lê Chiêu Thống và sự thất bại nhục nhã của quân tướng nhà Thanh. Đoạn trích được trần thuật theo dòng thời gian, giọng điệu linh hoạt, khi trầm buồn, khi gấp gáp, hối hả đã cho thấy tài năng kể chuyện bậc thầy của tác giả.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 6
"Hoàng Lê nhất thống chí" là cuốn lịch sử chương hồi của một số tác giả trong " Ngô gia văn phái". Tác phẩm đã khái quát một giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội đẫm máu từ khi Trịnh Sâm lên ngôi Chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1868-1802) như : loạn kiêu binh, triều Lê- Trịnh sụp đổ, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn.
Sự sụp đổ không thể nào cưỡng đại của triều đại Lê- Trịnh và khí thế sấm sét của phong trào nông dân Tây Sơn là hai nội dung lớn được phản ánh qua "Hoàng Lê nhất thống chí". Đặc biệt là Hồi thứ 14 đã được thể hiện một cách hào hùng sức mạnh quật khởi của dân tộc trước thù trong giặc ngoài và khắc họa hình tượng Nguyễn Huệ, người anh hùng dân tộc đã làm nên chiến công Đống Đa bất tử.
Ta như được sống lại những giờ phút lịch sử oanh liệt và hào hùng của dân tộc vào cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Kỉ Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Tác giả " Hoàng Lê nhất thống chí" mở đầu Hồi thứ 14 đã viết:
"Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận,
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài"
Vị cứu tinh của dân tộc thuở ấy là Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn. Ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, Tôn Sĩ Nghị chiếm Thăng Long. Tướng Ngô Văn Sở lui binh về án ngữ tại Tam Điệp. Ngày 24, Nguyễn Huệ được tin cấp báo, và ngày 25 lên ngôi Hoàng đế "tế cáo trời đất cùng các thần Sông, thần Núi", lấy niên hiệu là Quang Trung. Nguyễn Huệ đốc xuất đại binh ra Bắc. Ngày 29 đến Nghệ An tuyển thêm một vạn quân tinh nhuệ.
Nguyễn Huệ tổ chức duyệt binh truyền hịch đến quân Thanh, vạch trần âm mưu của bọn chúng "mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, kêu gọi tướng sĩ đồng tâm, hiệp lực, để dựng nên công lớn".... Nhà Vua chia quân ra làm năm doanh (tiền, hậu, tả, hữu, trung quân) rồi thần tốc ra Tam Điệp hội quân với cánh quân Ngô Văn Sở. Quang Trung chia đại quân ra làm năm đạo, cho quân ăn tết Nguyên Đán trước, "bảo kín" với các tướng soái đến tôi 30 thần tốc đánh quân Thanh, hẹn ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long "mở tiệc ăn mừng".
Qua đó, ta thấy rõ Quang Trung có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sáng suốt, giàu mưu lược, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng lũ xâm lăng. Các sự kiện như lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, tuyển quân và truyền hịch ở Nghệ An, cho quân sĩ ăn tết Nguyên Đán trước; đặc biệt, nhà vua đã tạo nên yếu tố bất ngờ đánh quân Thanh vào đúng dịp tết khi chúng "chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc" đã thể hiện tinh thần quyết đoán của một thiên tài quân sự khi Tổ quốc lâm nguy.
Tác giả mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa xảy ra: "Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét."
Nguyễn Huệ là một anh hùng có tài điều binh khiển tướng, trù hoạch quân mưu như thần. Ra quân đánh thắng như chẻ tre. Bắt sống toàn bộ toán quân Thanh đi do thám tại Phú Xuyên, dùng mưu gọi loa, vây kín làng Hà Hồi, quân Thanh " rụng rời sợ hãi" phải đầu hàng. Dùng kỳ mưu kết ba tấm ván thành một bức bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức; mỗi bức có 20 dũng sĩ, lưng dắt dao ngắn thành trận chữ "nhất" xông thẳng vào đồn Ngọc Hồi.
Súng quân Thanh bắn ra đều vô hiệu. Vua Quang Trung cưỡi voi độc chiến. Sáng mồng 5, đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử, hàng vạn giặc bị giết "thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại". Vua đã đặt phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, hợp vây quân Thanh tại Quỳnh Đô, giặc trốn xuống Đầm Mực vị quây Tây Sơn " lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người".
Thừa thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng Kinh thành Thăng Long đúng trưa mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu. trước kế hoạch hai ngày. Có tài thao lược vô song, có tin vào sức mạnh chiến đấu và tinh thần yêu nước của tướng sĩ, của nhân dân ta mới có niềm tin tất thắng ấy. Chiến thắng Đống Đa 1789 đã làm cho tên tuổi người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ sáng ngời mãi ngàn thu.
Các tác giả "Hoàng Lê nhất thống chí" đã từng ăn lộc của nhà Lê, vốn có cảm tình với nhà Lê nhưng trước họa xâm lăng và chiến công Đống Đa oanh liệt, học đã đứng trên lập trường dân tộc, đã viết nên những trang văn đẹp nhất, dựng nên một tượng đài kỳ vĩ, tráng lệ của người anh hùng Nguyễn Huệ. Chỉ mấy năm sau, trong bài "Ai tu vãn" khóc vua Quang Trung qua đời, Ngọc Hân công chúa đã viết:
"Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình."
Đó là hình tượng người anh hùng Quang Trung trong văn học mà ta cảm nhận được với bao người ngưỡng mộ. Bằng biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập, các tác giả " Hoàng Lê nhất thống chí" đã miêu tả và nêu bật sự thảm hại của quân Thanh xâm lược và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua phản nước hại dân.
Chỉ huy 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta là Tôn Sĩ Nghị. Sau khi chiếm được Thăng Long "không mất một mũi tên, như vào chỗ đông người", hắn vô cùng "kiêu căng buông tuồng". Bọn tướng tá chỉ biết "chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân". Chúng huênh hoang tuyên bố là đầu xuân sẽ kéo quân thẳng đến sào huyệt của Tây Sơn để "bắt sống, không một tên nào lọt lưới".
Thế nhưng, trước sự tiến công như vũ bão của Nguyễn Huệ, bao đồn giặc bị đánh tơi bời. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị dập nát, Sầm Nghi Đống phải tự tử. Hàng vạn giặc bỏ mạng ở đầm Mực. Tôn Sĩ Nghị " sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp...nhằm hướng Bắc mà chạy". Quân tướng " hoảng hồn, tan tác bỏ chạy". Chúng tranh nhau chạy, xô đẩy nhau rơi xuống sông. Cầu phao đứt, hàng vạn giặc bị rơi xuống nước mà chết, đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Bọn sống sót chạy tháo thân về nước!
Bọn Việt gian bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Trịnh Hiến đang trên đường tháo chạy trở thành lũ ăn cướp. Chúng bạt vía kinh hồn chạy đến Nghi Tàm, " thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc". Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và bọn cận thần " than thở, oán giận, chảy nước mắt" trông thật bi đát, nhục nhã. Còn Tôn Sĩ Nghị "cũng lấy làm xấu hổ". Chết nhưng nết không chừa! Lê Chiêu Thống hứa "lại xin sang hầu tướng quân", nghĩa là tiếp tục rước voi về giày mả tổ ! Còn Tôn Sĩ Nghị vẫn khoác lác: "Nguyễn Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi!"
Có thể nói, hình ảnh lũ xâm lược và bọn bán nước được miêu tả bằng nhiều chi tiết châm biếm, thể hiện một thái độ khinh bỉ sâu sắc. Đọc Hồi thứ 14 của " Hoàng Lê nhất thống chí", ta càng thấu rõ tim đen quân xâm lược phương Bắc và âm mưu của Thiên triều, và bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. Ta càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta, vô cùng kính phục và biết ơn Nguyễn Huệ, nhà quân sự thiên tài của Đại Việt.
Nghệ thuật kể chuyện, bút pháp miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động tạo nên những trang văn hào ùng tuyệt đẹp vừa giàu giá trị văn chương, vừa mang tính lịch sử sâu sắc.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 7
Ngô gia văn phái là một nhóm các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì. Sự nghiệp văn chương của nhóm tác giả này nổi bật và tiêu biểu nhất với Hoàng Lê nhất thống chí, cuốn lịch sử chương hồi nổi tiếng. Tác phẩm khái quát lại một giai đoạn, thời kỳ lịch sử với những biến cố đầy biến động từ khi chúa Trịnh Sâm lên ngôi đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà.
Hồi thứ mười bốn đã khắc họa một cách chân thực về sức mạnh, tinh thần quật khởi của dân tộc ta trước cảnh thù trong giặc ngoài cùng với chiến công lừng lẫy của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Cuối năm 1788, đầu năm 1789, Lê Chiêu Thống đã kéo 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị đứng đầu sang xâm chiếm nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị đã đóng chiếm được Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở rút lui về Tam Điệp để chống đỡ.
Trước hoàn cảnh đó, Nguyễn Huệ thể hiện như một người anh hùng của toàn thể dân tộc. Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế vào ngày 25, "tế cáo đất trời cùng các non sông, thần núi" rồi đưa quân ra Bắc. Ông cũng tuyển chọn những đội quân tinh nhuệ và có tinh thần yêu nước, kháng chiến để tham gia chiến đấu giữ gìn, bảo vệ đất nước.
Ngày 30 tháng Một, Nguyễn Huệ mở tiệc thiết đãi quân nhân, dự định vào ngày mồng bảy thì vào thành để mở tiệc mừng. Có thể thấy rằng Nguyễn Huệ là một con người có hành động quyết đoán, mạnh mẽ, có tư duy lớn trong việc nhận biết tình hình của ta và của địch. Ông cũng là người nhìn xa trông rộng, biết địch biết ta, tài thao lược vô cùng tài giỏi. Những dự định trong cuộc kháng chiến được Nguyễn Huệ tiên đoán như một vị thần.
Trong kháng chiến, hình tượng người anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ hiện lên với tư thế, tầm vóc lớn lao, oai phong. Quân Thanh khi vừa thấy bóng dáng nhà vua đã chạy tán loạn tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, quân ta vây kín làng rồi bắc loa thông báo khiến quân Tanh "ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết"; mùng 5 Tết tiến đến Ngọc Hồi, nhà vua đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, ghép liền ba tấm làm một, lấy rơm nước phủ lại, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, cùng với đó là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ "nhất" tiến vào đồn.
Trước tình thế đó, mọi sự phản công của kẻ thù đều vô hiệu hóa. Quân Thanh đã tự hại mình khi dùng những súng ống phun khói làm cho quân ta lung lay, rối ren nhưng lại tự "gậy ông đập lưng ông" đối với chiến thuật này. Ngay lập tức, Nguyễn Huệ đã sai đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất, lấy dao ngắn mà chém. Trận chiến kết thúc với hình ảnh "quân Thanh thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại".
Quang Trung cưỡi voi vào thành Thăng Long để giải phóng toàn dân tộc vào trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu.
Trước tình cảnh ấy, quân Thanh thua thảm hại khi mừng vui yến tiệc, không lo việc lớn. Việc tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết, sống động hình ảnh quân Thanh bị thua tan tác, chạy loạn đã thể hiện rõ sự thất bại đến thảm hại của quân Thanh. Hoàn toàn ngược lại trước sự thua trận của quân Thanh, quân ta mạnh mẽ, như "tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên".
Sự khắc họa về cảnh thua trận đến thảm hại của quân tướng nhà Thanh được Ngô gia văn phái miêu tả rất rõ. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ nhằm hướng Bắc chạy. Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự tử, quân nhà Thanh đều "hoảng hồn, tan tác bỏ chạy" khắp nơi, tranh nhau xô đẩy xuống sông, giẫm đạp lên nhau mà chết. Lê Chiêu Thống cũng vội vã bỏ chạy, cướp thuyền để đi.
Đoạn trích Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí là một đoạn trích đặc sắc, hay và độc đáo, vô cùng sinh động. Có rất nhiều những điểm nhấn về nghệ thuật đáng lưu ý trong đoạn trích, góp phần làm nổi bật được nội dung câu chuyện. Giọng điệu lúc nhanh lúc chậm thể hiện sự biến đổi linh hoạt trong cách kể chuyện khiến người đọc như đang sống trong từng trang văn của cuộc kháng chiến hào hùng do Quang Trung - Nguyễn Huệ thao lược.
Cùng với đó là việc khắc họa hình tượng nhân vật với những nét nổi bật, đặc sắc. Tướng vua tôi Lê Chiêu Thống cùng lũ quân Thanh đều thất bại thảm hại. Trong khi đó, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ hiện lên với tư tưởng, tầm vóc hiên ngang, bất khuất.
Đoạn trích "Hồi thứ mười bốn" của Hoàng Lê nhất thống chí cho ta thấy được những âm mưu tàn độc của quân xâm lược đối với dân tộc ta. Đoạn trích cũng cho ta thấy được vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết dân tộc và tài thao lược, mưu tính tuyệt vời của một con người kiệt xuất vua Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 8
Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn học viết theo lối chương hồi, mang đậm giá trị lịch sử. Phản ánh được một cách chân thực và sống động tình hình xã hội đầy biến động ở Việt Nam ba mươi năm cuối thế kỉ mười tám, và mấy năm đầu thế kỉ mười chín.
Trong tác phẩm này, các tác giả nhà Ngô gia văn phái đã đặc biệt xây dựng kết cấu tác phẩm và xây dựng rõ nét chân dung nhân vật lịch sử, điển hình trong số đó chính là người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ. Trong hồi mười bốn của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, các tác giả Ngô gia văn phái đã khắc họa hình ảnh Nguyễn Huệ – Người anh hùng dân tộc mưu lược toàn tài, trí tuệ hơn người cùng tài cầm quân xuất chúng.
Người anh hùng Nguyễn Huệ được xây dựng trong tác phẩm là một người kiêu hùng, quyết đoán với những hành động mạnh mẽ, dứt khoát. Khi được tin quân Thanh kéo sang, chiếm đóng Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lập tức “tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế. Sau đó lập tức thân chinh kêu gọi binh lính, đốc thúc đại quân, cả thủy lẫn bộ kéo ra Bắc đánh dẹp quân Thanh. Qua hành động này ta có thể thấy Nguyễn Huệ là một người vô cùng quyết đoán, đặc biệt đối với những vấn đề liên quan đến vận nước thì không hề chần chừ, do dự mà thân chinh cầm quân đi đánh giặc.
Trước khi mang quân ra Bắc, Nguyễn Huệ đã cho gọi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp vào để bàn bạc cơ mưu. Điều này cho thấy Nguyễn Huệ tuy dũng mãnh, trí tuệ hơn người nhưng không độc đoán mà rất coi trọng ý kiến của những bậc hiền tài, biết chiêu mộ ý kiến của hiền thần. Quả thực, Nguyễn Huệ là một bậc minh quân tài năng sáng suốt.
Biết được số lượng binh lính mà quân địch kéo sang Thăng Long là rất lớn – hai mươi chín vạn quân, cũng xét thấy tương quan lực lực giữa ta và địch có sự chênh lệch, Nguyễn Huệ đã dốc sức chiêu mộ binh lính, mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn nhằm nâng cao sức mạnh của quân ta. Đồng thời cũng phân chia quân thành bốn doanh: tiền, hậu,tả hữu; lên kế hoạch tiến công đánh giặc.
Như vậy, Nguyễn Huệ là một vị chủ tướng đầy mưu lược, không chỉ nâng cao sức mạnh cho quân mình mà còn bố trí, đề ra những kế hoạch cụ thể, chu toàn. Đây là tiền đề cho những thắng lợi vang dội sau này. Nguyễn Huệ là người có trí tuệ sáng suốt, biết “đánh” vào lòng quân để nâng cao nhuệ khí, tinh thần chiến đấu.
Ông đã phân tích cặn kẽ tình hình quân quân giặc ở thành Thăng Long, nêu cao truyền thống đánh giặc bất khuất của dân ta từ thời hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lí Thái Tổ…Từ đó ông làm tiền đề để đưa ra lời kêu gọi toàn quân: “Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn.”
Những lập luận sắc bén, chặt chẽ, thấu tình đạt lý của Nguyễn Huệ đã khơi dậy được nhuệ khí chiến đấu, lòng tự tôn của toàn quân, phát huy được sức mạnh tinh thần to lớn cho cuộc chiến sắp tới. Là một người chủ tướng, Nguyễn Huệ cũng đề cao kỷ luật, những quy định chặt chẽ với nghĩa quân, xử phạt nghiêm khắc với những ai ăn ở hai lòng, phản bội đất nước, dân tộc “Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước”.
Sự đa mưu túc trí của Nguyễn Huệ còn thể hiện ở tài dùng người,cầm quân, vạch ra những chiến lược, chiến thuật đánh giặc độc đáo, hợp lý. Đội quân của Nguyễn Huệ có cuộc hành quân thần tốc do người chủ tướng đề ra chiến lược cho quân lính thay phiên nhau, cứ ba người một tốp thay phiên võng nhau đi, thành ra quân trẩy đi liên miên không phải dừng mà ai nấy đều lần lượt được nghỉ. Do đó, quân Tây Sơn đã hành binh cực kỳ thần tốc.
Cách chống lại vũ khí của giặc cũng vô cùng độc đáo bằng cách dùng khiên có bao phủ rơm ướt bên ngoài, với chiến lược này hỏa tiễn của quân địch không thể phát huy được tác dụng. Nguyễn Huệ còn thực hiện chiến thuật nghi binh, cho quân mở cờ gióng trống ở phía Đông, quân địch khi rút chạy đã vô cùng hoảng sợ, rày xéo lên nhau mà chạy về nước.
Như vậy, hình ảnh vua Quang Trung Nguyễn Huệ được các tác giả Ngô Gia văn phái khắc họa một cách sống động,chân thực hình tượng của một người anh hùng trí tuệ, oai phong lẫm liệt. Điều đáng nói ở đây là các tác giả Ngô gia thuộc nhà Lê mà viết về Quang Trung trên tinh thần ngợi ca như vậy, tức là đứng trên lập trường dân tộc để phản ánh. Điều đó càng làm cho tác phẩm mang nhiều giá trị hơn.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 9
Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, có thể nói cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc nhiều khi đã lấn át cả thái độ thiên vị với triều Lê. Điều đó đã mang lại những trang viết thực và hay.
Khi cho rằng “Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại” có lẽ tác giả của nhận định này đã nghĩ đến những trang viết chân thực, sống động phản ánh trung thành bản chất của thời đại mà nhà văn đó sống. Điều này khiến độc giả Việt Nam nhớ đến một tác phẩm “thực và hay” như thế: “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái. Có ý kiến cho rằng: trong “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái, có thể nói cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc nhiều khi đã lấn át cả thái độ thiên vị với triều Lê. Điều đó đã mang lại những trang viết thực và hay”. Chỉ riêng qua hồi thứ mười bốn của tác phẩm ta đã thấy rõ điều này.
“Hoàng Lê nhất thống chí” phản ánh thời kỳ lịch sử cuối thế kỉ XVIII của đất nước ta. Khi ấy, triều đình vua Lê chúa Trịnh đang suy đồi, thối nát, khởi nghĩa nông dân nổi lên liên tiếp mà tiêu biểu là phong trào nông dân Tây Sơn của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Ngô gia văn phái là tập thể tác giả gồm những anh em họ Ngô Thì như Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du,… Họ đều là những bậc quan thần của triều đại vua Lê, chúa Trịnh.
Hồi thứ mười bốn của tác phẩm tái hiện chiến thắng lẫy lừng của Quang Trung – Nguyễn Huệ trong xuân Kỷ Dậu và sự thảm bại của bè lũ vua Lê Chiêu Thống và quân Thanh xâm lược. Theo thói thường, đứng về phía triều đình, Ngô gia văn phái phải coi lực lượng của Quang Trung là “giặc cỏ”. Nhưng vượt lên những quan điểm chính trị thông thường, tập thể tác giả họ Ngô đã có cái nhìn tiến bộ về sự kiện chấn động lịch sử này.
Họ nhìn cuộc khởi nghĩa dưới ánh sáng của sự khách quan trong tiến trình vận động lịch sử. Bởi thế, hình ảnh vua Quang Trung hiện lên với những vẻ đẹp phi thường của bậc đại tướng. Còn bè lũ Chiêu Thống và Tôn Sĩ Nghị thật ngu ngốc và thảm hại đến đáng thương. Chính sự chân thật của lịch sử cùng sự sống động của ngòi bút những tác giả họ Ngô đã tạo nên những trang viết “thực và hay” đến thế.
Trong đoạn trích, hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung hiện lên vô cùng đẹp đẽ, phi thường. Đó là con người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán và có trí tuệ sáng suốt, sâu xa, nhạy bén. Nghe tin giặc đánh chiếm đến tận Thăng Long, ông không hề nao núng mà quyết định thân chinh cầm quân đi ngay. Trong vòng một tháng từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp ông đã liên tiếp làm nhiều việc.
Việc ông tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế nhằm thu phục lòng dân và có danh nghĩa ra Bắc dẹp giặc. Tiếp đó, nhà vua đốc xuất đại binh ra Bắc, trên đường đi, Quang Trung vừa gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn vừa tuyển quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân đánh giặc. Những việc đó thần tốc và sáng suốt vô cùng. Nó cho phép nhà vua thu nạp được người tài và binh tướng dồi dào, tinh nhuệ. Lời phủ dụ quân lính của ông sâu sắc và thấm thía:
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho chúng chích luân bất phản
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ…”
Những lời ấy đã khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc, nêu bật dã tâm của giặc. Đồng thời, nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, kêu gọi quân lính, ra kỷ luật. Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn, ý tứ phong phú, sâu xa có tác động kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc. Ngay sau đó, ông đã họp với tướng sĩ để lên kế hoạch đối phó quân Thanh. Ông tỏ ra sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người.
Bên cạnh đó, Quang Trung – Nguyễn Huệ còn là người có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh nhưng ông đã khẳng định "Phương lược đã tính sẵn… mười ngày sẽ đuổi được người Thanh". Sau đó, ông còn tính kế hoạch ngoại giao sau chiến tranh đối với một nước "lớn gấp mười lần mình" để có thể dẹp binh đao để cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng. Điều này ở Nguyễn Huệ đã khẳng định rằng ông thực sự là một tài năng quân sự, một nhà mưu lược tài ba. Trong những cuộc chiến tranh phong kiến ở Việt Nam, hiếm có một vị tướng nào tính toán thần tình và sâu xa đến vậy.
Bước vào cuộc chiến, nhà vua đã thể hiện tài dụng binh như thần. Nhà vua đã chủ trương một cuộc hành quân thần tốc. Ngày 25 tháng Chạp xuất quân ở Huế. Ngày 29 tới Nghệ An (350km qua núi đèo). Tuyến quân tổ chức đội ngũ, duyệt binh 1 ngày. Hôm sau: ra Tam Điệp (150km). Đêm 30 tháng Chạp lên đường ra Thăng Long. Và điều đặc biệt là tất cả đều đi bộ! Từ Tam Điệp trở ra (150km) vừa hành quân vừa đánh giặc.
Ngày 5 Tết vào Tháng Long (trước đó, Quang Trung đã định liệu là ngày mùng 7, như vậy là vượt kế hoạch hai ngày!). Dù việc hành quân liên tục nhưng cơ nào, đội ấy vẫn chính tề. Điều này khẳng định tài cầm quân của người làm tướng như vua Quang Trung.
Trong trận chiến với quân Thanh, hình ảnh nhà vua hiện lên vô cùng oai phong, lẫm liệt. Ông thân chinh cầm quân, đóng vai trò là tổng chỉ huy chiến dịch thực sự, hoạch định, phương lược tiến đánh, tổ chức quân sự từ thống lĩnh một mũi quân tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy áo vải, quân Tây Sơn đã đánh trận thật lẫy lừng: Bắt sống quân do thám ở Phú Xuyên để giữ bí mật, tạo bất ngờ; vây kín làng Hà Hồi, quân lính vây quanh dạ ran làm cho lính trong đồn sợ hãi đều xin hàng; công phá đồn Ngọc Hồi lấy ván ghép quấn rơm ướt để tránh tên lửa của địch,… Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù khiếp vía.
Trong việc khắc họa hình ảnh chân dung vua Quang Trung – Nguyễn Huệ, các tác giả đã thể hiện sự tôn trọng sự thật lịch sử và ý thức dân tộc. Dù có cảm tình với nhà Lê họ không thể bỏ qua sự thực là vua Lê đã hèn yếu " cõng rắn cắn gà nhà". Chiến công lừng lẫy của Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc. Bên cạnh đó, các nhà văn cũng đã khắc họa thật sinh động hình ảnh bè lũ bán nước và cướp nước
Bọn Tôn Sĩ Nghị, sầm Nghi Đống không đề phòng, chỉ lo yến tiệc vui chơi. Chúng ngạo mạn gọi quân Tây Sơn là lũ “giặc cỏ”. Nhưng khi đội quân “giặc cỏ” ấy đến thì chỉ biết tháo chạy và nhận lấy những cái chết thê thảm. Tôn Sĩ Nghị thì cắt râu bỏ trốn, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Bọn quân lính thì chen lấn, xô đẩy, dẫm lên nhau mà chạy về nước. Bọn vua tôi phản dân hại nước Lê Chiêu Thống cùng chịu chung số phận. Thê thảm nhục nhã nhất là vua Lê phải lê thân sang đất Bắc để rồi chịu cái chết băng giá nơi đất khách quê người.
Đây là đoạn văn miêu tả chân thực tình cảnh khốn khổ của vua Lê Chiêu Thống. Tác giả văn gửi gắm ở đó một chút cảm xúc riêng của người bề tôi cũ của nhà Lê. Điều này được thể hiện qua những giọt nước mắt và thái độ săn sóc của người Thổ hào với giọng văn ngậm ngùi.
Hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái cùng toàn bộ tác phẩm thực sự là những áng văn – sử chân thực, sinh động. Tập thể nhà văn chẳng những thể hiện thành công vai trò “thư ký của thời đại” của mình mà còn để lại trong lịch sử văn học dân tộc một dấu ấn đậm nét của tài năng và tâm đức.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 10
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình.
Hai câu thơ trích trong Ai tư vãn của công chúa Ngọc Hân khóc chồng không phải là cái nhìn của tác giả Hoàng Lê nhất thống chí. Đoạn trích ở hồi thứ mười bốn này, đã tái hiện hình tượng Nguyễn Huệ nhưng bằng một nhãn quan khác, một thiện cảm khác, thiện cảm hướng về nhà Lê.
Hình tượng nhân vật này thuộc một vùng không gian nghệ thuật, vùng ý thức tư tưởng ngược chiều. Tính chất phi chính thống của Nguyễn Huệ không nằm trong ý định ngợi ca, nhưng từng chữ, từng dòng miêu tả thì chân dung người anh hùng áo vải đã từ từ sừng sững được hiện lên. Khi bức tượng đài hoàn thiện thì chính nhà văn cũng không khỏi bất ngờ, đó là điều hiếm thấy trong văn học nước nhà.
Hồi thứ mười bốn bắt đầu bằng cái việc hèn hạ của Lê Chiêu Thống "Cõng rắn cắn gà nhà". Tôn Sĩ Nghị cùng hai chục vạn quân Thanh kéo sang chính là để thực hiện cái ý đồ trái quy luật lịch sử là phản dân hại nước của vua Lê, nhằm hai mục đích khác nhau, về danh nghĩa, chi viện cho một nước nhỏ, với tư cách là một nước lớn (nước của Thiên tử hay một nước lân bang?). Còn trên thực chất, ở chúng có một cái gì đó rất khó hiểu.
"Cứ xem lời lẽ trong bài hịch thì những điều họ bắt mình phải đương lấy rất là nặng nề, còn họ thì chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để dọa dẫn mà thôi". Vì sao mà Tôn Sĩ Nghị lại không ra tay? Thái độ "án binh bất động" này hoàn toàn không giống sự khẩn trương đến gấp gáp lúc kéo quân sang. Từ cửa ải hướng thẳng tới Thăng Long, đại binh của Tôn tổng đốc đã từng hăng hái tiến lên với tốc độ ngày đi đêm nghỉ, xuyên rừng vượt núi. Nay, tới kinh thành, giặc còn chưa tiếp cận được, họ đã vội dừng lại là cớ làm sao?
Sự không thực lòng của Tôn Sĩ Nghị trong sự nghiệp phù Lê đã được tiên đoán của người cung nhân ấy : "Họ chẳng qua chỉ là người khách, chuyến này sang cũng cốt xem sự thể khó hay dễ để liệu về tiến lui mà thôi". Đối phương của Nguyễn Huệ do vậy không hẳn là bọn bán nước mà là lũ cướp nước. Bọn bán nước thì đê hèn nhưng không có lực lượng. Còn bọn cướp nước thì không chỉ tướng mạnh quân đông mà tham vọng tâm địa cũng không thể coi thường. Trong chiến tranh, thắng lợi bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh.
Vì vậy cái mạnh của Nguyền Huệ, ớ người cầm quân được soi từ nhiều phía. Chi một cái nhìn của người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên cũng rõ: "Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết". Cái nhìn đó hẳn không sai. Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm lộng hành, lấn át ngôi vua bị Nguyễn Huệ trừng trị đã dành.
Nhưng trừng trị theo cái kiểu "bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn" thì trong lịch sử những nhân vật xuất chúng của nước chúng ta chưa thấy lần nào. Bới tính hiệu quả, tính tức thời của hành động chỉ như một chớp mắt, một cái trở bàn tay. Uy của Nguyễn Huệ tựa hổ sấm sét, đến nỗi "Không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt". Chân dung ấy quả thật như huyền thoại, một ánh sao băng nhưng hoàn toàn không cô lập.
Ở đó có mạch nguồn, có độ sâu cội rễ. Nguyễn Huệ đã làm những việc cha ông từng làm trước hiểm hoạ xâm lăng là "không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo". Nguyễn Huệ đứng lên trong hoàn cảnh ấy, cái tâm, cái chí của Nguyễn Huệ là cái tâm, cái trí của tiền nhân. Ngọn cờ đạo lí đã dẫn đường cho cuộc xuất quân thần tốc, và cái tâm, cái tự của trăm họ bấy giờ làm cho con đường ấy rộng ra.
Sự thấu hiểu, lắng nghe của Nguyễn Huệ một cách thành thực và khiêm tốn cũng đủ điều chỉnh cho cơn bão căm hờn tạm thời nén xuống. Nhận được tin cấp báo của Nguyễn Văn Thuyết từ Tam Điệp chạy trạm vào Phú Xuân, Bắc Bình Vương giận lắm định thân chinh cầm quân lập tức di ngay. Nghe lời can ngăn của các tướng sĩ dưới quyền, ông chấp nhận "lòng tôn phò của mọi người" làm nghi thức lên ngôi hoàng đế. Khi tới Tam Điệp, Sở, Lân mang gươm đến xin chịu tội vì đúng là họ có tội. Người chủ tướng (cũng là vua mới) không phải không hiểu tội danh lớn nhất trong binh pháp phải xử lý như thế nào.
Đúng ra thì "quân thua chém tướng", đó là luật. Nhưng không có luật lệ nào trái được nhân tâm. Lòng Sở, Lán không phải thế, hơn nữa đó là mưu lược của Ngô Thì Nhậm. Lẽ ra bị trừng phạt, nhưng cuối cùng lại được ngợi khen. Cách hiểu người và dùng người đến mức tri kỷ, tri âm như thế không phải là người cầm quân nào cũng có dược. Đâu phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Huệ trong việc tập hợp, tổ chức lực lượng lại làm được cái việc Lê Lợi trước đó đã từng làm "Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới" (Bình Ngô đại cáo).
Tướng của Nguyễn Huệ là Hám Hổ Hầu đi kén lính ở Nghệ An theo quy định cứ ba trai tráng (ba suất đinh) thì lấy một người. Thế mà chẳng mấy chốc đã được "hơn một vạn quân tinh nhuệ". Niềm tin của vua Quang Trung là dựa vào cơ sở lòng dân ấy. Không biết là ông nói với mọi người hay nói với chính mình trong lần gặp Sở, Lân ở Tam Điệp: "Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn.
Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh". Có được cái tâm, cái trí, kẻ thao lược phải có quyền mưu, mà linh hồn của quyền mưu là cái dũng. Như ta biết : quyết tâm của Tôn Sĩ Nghị là vào tới sào huyệt của Nguyễn Huệ ở Phú Xuân với mục tiêu "Bọn giặc ấy nhất định lần lượt bị bắt sống, không một tên nào lọt lưới" và tự đắc hợm mình "người Nam Hà sẽ đến mà xem". Còn Nguyễn Huệ chỉ một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Tôn Sĩ Nghị vào Nam, Nguyễn Huệ ra Bắc, hai cuộc hành tiến trái chiều nhưng đều lấy thời điểm ngày hạ cây nêu làm mốc.
Riêng với Nguyễn Huệ trước một trận chiến dường như không cân sức (kẻ thù đông hơn gấp bội) thế mà dám hẹn với các tướng của minh "đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng". Điều đó thể hiện rõ lòng quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược của Nguyễn Huệ. Quả thật, theo dõi cuộc hành quân của Nguyễn Huệ từ Tam Điệp trở ra, người đọc mới hiểu thế nào là thần tốc về lực lượng, quân của Nguyễn Huệ chia làm năm đạo, có cả thuỷ bộ, nhưng bộ binh là chính.
Phương tiện hành quân không nói đến lừa ngựa, chỉ có một số voi, trong đó có thớt voi vua Quang Trung cưỡi. Vậy thì đại quân chủ yếu là chạy bộ, không chỉ từ Tam Điệp mà trước đó từ Nghệ An, khi nhà vua hạ lệnh tiến quân "Các quân đéu nghiêm chỉnh,đội ngũ mà đi". Vậy "đi" đây là đi bộ. Họ vừa đi vừa đánh. Thế mà đêm 30 tháng Chạp Mậu Thân (1788) còn ở Tam Điệp, mồng 3 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) đã tới Hà Hồi, vượt qua hai con sông Gián Khẩu và Thanh Quyết. Hơn một trăm cây số, mà họ chỉ hành quân trong ba ngày.
Giữ nguyên tốc độ ấy, mờ sáng ngày mùng 5, đại quân đã đến đồn Ngọc Hồi, vượt qua sự kháng cự không phải là không đáng kể của đồn này dưới sự chỉ huy của tên Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống, cùng ngày hôm ấy, đại quân đã tiến đến Thăng Long. Điều có thực mà như không có thực, đúng như lời dặn của vua Quang Trung : "Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác!".
Hình như trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc Việt Nam, có hai câu nói gần giống nhau khi nhận định về sự thắng bại, hơn thua. Ấy là câu trả lời vua Trần của Trần Hưng Đạo "năm nay thế trận giặc nhàn" và lời dặn trên đây của Nguyễn Huệ. Cùng với cuộc hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử chiến tranh, cách đánh của vua Quang Trung biến hóa như thần, không một thứ sách vở nào có được. Đó là cách đánh bao vây, chia cắt địch, tạo yếu tố bất ngờ. Đối phương rơi vào một thế cờ bày sẵn không kịp trở tay. Vì sao khi tới sông Thanh Quyết, toán do thám của quân Thanh bỏ chạy, Quang Trung đã cho truy đuổi đến cùng ?
Thực ra số quân địch ấy không có gì đáng kể. Điều quan trọng với Quang Trung là những trận đánh lớn tiếp theo, Tôn Sĩ Nghị không thể chủ động đề phòng. Đảm bảo được yếu tố bất ngờ nghĩa là đảm bảo được một nửa thắng lợi. Do vậy ở đồn Hà Hồi, mãi tới khi Quang Trung bắc loa truyền gọi, quân lính trong đồn lúc ấy mới biết. Vì bị động, bị bất ngờ "ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết". Nói cho cùng, thắng bại trong chiến tranh phụ thuộc vào hai yếu tố : thể và lực.
"Lực" liên quan đến "thế" và "thế" đại quân Tây Sơn có thể tạo ra "lực". Quang Trung đã tận dụng và phát huy hai yếu tố trung tâm then chốt ấy. Bất ngờ là một khía cạnh của thế. Ở đây có bất ngờ về thời gian và địa điểm tấn công. Còn có sự bất ngờ về cách đánh. Kẻ địch cho dù có biết thời điểm tấn công – nhưng không biết cách đánh của đối phương, cũng rất khó đề phòng. Vì vậy, đồn Hà Hồi chiến thắng nhanh chóng, dễ dàng. Không cần bắn một mũi tôn nào mà kẻ thù tự đem mình chịu trói. Cái đó còn nhờ vào mưu. Phải có một quyền mưu đạt tới mức nghệ thuật mới có thể vừa chiến thắng vẻ vang vừa bảo toàn lực lượng.
Nhưng tới đồn Ngọc Hồi, cửa ngõ của kinh thành Thăng Long thì cách đánh ở Hà Hồi không thể ứng dụng được nữa. Muốn áp đảo đối phương ngay từ phút đầu thì phải cần đến một phương sách khác, để vô hiệu hoá lực lượng phản công của địch. Quang Trung đã dùng rơm và ván, nghĩa là một thứ khiên, mộc đơn giản mà thật sáng tạo tài tình tạo ra lá chắn để đại quân vẫn với đội hình ấy dàn chữ "nhất" tiến lên.
Diệu kế ấy làm cho các mũi tên quân giặc bắn ra "chẳng trúng người nào cả". Quân giặc phải dùng đến ống phun khói tung hỏa mù để làm cho quân Nam rối loạn thì bỗng chốc gió lại đổi hướng, quân Thanh tự hại mình, khốn đốn không phương chống đỡ. Uất ức vì tướng giỏi, quân đống, ý chí và mưu lược có thừa mà phải tự trói tay nộp mạng, Sầm Nghi Đống thắt cổ chết là chuyện đương nhiên.
Điều Nguyễn Trãi tổng kết trong Bình Ngô đại cáo "Đánh một trận sạch không kình ngạc – Đánh hai trận tan tác chim muông" đã được Quang Trung kế thừa ở thời đại ông. Để đạt tới tính triệt để, tính tuyệt đối, vừa tiêu diệt toàn bộ lực lượng đối phương vừa bẻ gãy hoàn toàn ý chí của chúng, nhất là ở vào địa bàn trọng yếu như đồn Ngọc Hồi, Quang Trung đã phối hợp tấn công phía trước với hai cánh như thế của hai gọng kìm. Lực lượng của địch không nhỏ bé như ở Hà Hồi, nhưng cảm thấy bất lực giữa một "thiên la địa võng" bao vây. Quân ứng chiến đại bại đã đành, quân rút chạy càng vô cùng hoảng loạn.
Chạy về phía đê Yên Duyên thì đã thấy quân của Quang Trung gióng trống mở cờ, tắt sang đường Vịnh Kiều chạy trốn thì quân voi của Quang Trung từ Đại Áng kéo sang chặn lối. Còn cái chết nào nhục nhã hơn đối với chúng là ở vào cái thế cùng đường và hoảng loạn bội phần ấy phải trốn cả xuống Đầm Mực đành để cho "quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người".
Giữ cho mình cái thế và lực ấy, đại binh của Tây Sơn kéo thẳng vào thành Thăng Long. Điều thú vị là các trận đánh của Quang Trung ngày một quy mô lớn rộng hơn như cơn bão xoáy tăng dần cường độ, vượt qua mọi cánh cửa vòng ngoài tiến vào đại bản doanh mà tuyệt nhiên không gặp một vật cản nào đáng kể.
Những vật cản ấy dù là Sầm Nghi Đống hay Tôn Sĩ Nghị, dù là Hà Hồi, Ngọc Hồi, hay cả Thăng Long, quân xâm lược đều ở vào một tình thế không mấy khác nhau : sợ hãi, cuống cuồng, bất lực. Sầm Nghi Đống tự tử đã đành, Tôn Sĩ Nghị không thể trở tay một khi đã "sợ mất mật". Thế là "ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp" cắm đầu nhắm hướng Bắc mà chạy.
Chi tiết có thực này tuy chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng ý nghĩa của nó lại rất lớn. Chỉ mới ít ngày trước đó hai chục vạn quân Thanh hùng hổ từ phương Bắc kéo sang định làm cỏ nước Nam, hợm hĩnh là thế, nay một mảnh giáp cũng không còn, nói gì đến bọn bán nước cầu vinh Lê Chiêu Thống. Tư cách tiện nhân hèn hạ của y dược đặc tả trong nhiều trường hợp, như những giọt nước mắt tiễn đưa Tôn Sĩ Nghị ở biên cương phía Bắc của vua Lê thật thảm hại mà cũng nực cười. Như thế là bức phác thảo về nhân vật Quang Trung đó vừa hoàn tất với những đường nét cuối cùng.
Bức tượng đài có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà cứ sừng sững hiện lên dưới bầu trời trong veo còn sặc mùi thuốc đạn của kinh thành. Trong khải hoàn môn của người thắng cuộc, vua Quang Trung là biểu tượng đầy ý nghĩa cho những gì thuộc về dân tộc. Đó là đạo lý Việt Nam, tài trí Việt Nam, sức mạnh Việt Nam. Phải chăng hình tượng đó ít nhiều sống lại trong giấc mơ của Nguyễn Du khi biến đổi một kẻ anh hùng thảo dã trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thành một anh hùng tái thế – Từ Hải trong Truyện Kiều?
Trở lại điểm nhìn của tác giả Hoàng Lê nhất thống chí, nhìn tổng quát thì đó là một cái nhìn khách quan. Hình tượng nhân vật Quang Trung do đó như có một thứ ánh sáng soi vào. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn những yếu tố duy tâm nằm ngoài nhận thức về quy luật lịch sử, về đời sống con người. Chẳng hạn như không ít lần khi tường thuật sự kiện hay ý nghĩ của nhân vật, nhà văn đã nói đến cơ trời. Cơ trời chính là thiên lý, là mệnh mà con người không cưỡng nổi. Kể trận chiến ở Ngọc Hồi, kẻ chủ động dùng hỏa hổ là quân Thanh.
Cách phản công này không phải là không có tác dụng vì kẻ chủ mưu có được một thứ vỏ bọc của sự tàng hình. Nhưng đột ngột thay, trong chốc lát trời trở gió. Đó là một biểu hiện của cơ trời. Rồi khi Quang Trung kéo quân vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không hề hay biết. "Nào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi". Đã là "thiên lý", người hợp với nó là đại nghĩa, còn ngược lại là Tôn Sĩ Nghị, Lê Chiêu Thống, thất bại là lẽ đương nhiên.
Chính Lê Chiêu Thống đã thú nhận sự khoanh tay bất lực trước cái cơ trời, mệnh trời ấy khi y nói với Tôn Sĩ Nghị lúc chia tay "Cô không có tài, chẳng giữ nổi xã tắc. Đội ơn tướng quân vâng lệnh chỉ của hoàng đế sang cứu viện, nào ngờ lòng trời không giúp nước nhỏ, nay ngài lại bỏ mà đi. Kính chúc tướng quân về triều được hai chữ "vạn phúc". Song, ngay trong cái yếu tố duy tâm này không hẳn chỉ mang ý nghĩa tiêu cực. Cái tích cực lên ngôi mới thay cũ, nắng thay mưa. Khách quan, điều ấy hợp với lòng người.
Sự tiến bộ rất đáng ghi nhận ở đây chính là điểm đó, ở cái chỗ mà cuộc sống đã đem lại cho tác phẩm văn chương những chân lý nghệ thuật mới nằm ngoài định kiến hoặc sự áp đặt của bất kỳ ai.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 11
Chuyện vua Quang Trung đại phá quân Thanh, ngày nay, hẳn chẳng mấy ai còn không biết. Người dân Việt từ lâu đã từng thân thiết và tự hào với những cái tên Hà Nội, Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa... Nhưng hình như không phải ai cũng biết rằng, phần lớn những gì vẫn được truyền tụng về chiến công oai hùng đó lại không được lấy trực tiếp từ chính sử.
Phải đâu ai cũng tỏ tường rằng những hiểu biết lâu nay về sự kiện đại phá quân Thanh chính ra lại chứa đựng nhiều nhất trong một tác phẩm vẫn được coi là tiểu thuyết, cuốn sách mang tên Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc về Hà Nội, chứ không phải Hà Tây như nhiều sách đã ghi lầm). Quả thế, nếu muốn được thở hít lại bầu không khí như của những tháng ngày có chiến thắng tưng bừng đó thì không gì hơn là cùng đọc lại Hồi thứ mười bốn trong thiên tiểu thuyết lịch sử của văn phái họ Ngô.
Thế nhưng trong chủ đích của người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì Hồi thứ mười bốn này được soạn ra không cốt để ngợi ca chiến thắng của Quang Trung. Ai còn hồ nghi xin đọc lại hai vế đối mở đầu, người làm sách, theo thường lệ của tiểu thuyết chương hồi, vẫn muốn qua đó để tự tóm tắt nội dung của toàn hồi truyện:
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.
Rõ ràng, theo tác giả, đây là một đoạn truyện kể về vua Lê, ông nhìn từ phía vua Lê, theo đúng tinh thần "Hoàng Lê thống nhất". Nên trong đoạn trích này của thiên tiểu thuyết, nếu có ai được gọi chỉ bằng một chữ "vua" thì kẻ đó nhất định phải là Lê Chiêu Thống, nếu có quân đội nào được gọi là "nghĩa binh" (quân chính nghĩa) thì đó cũng chỉ có thể là "quân đội nhà Lê (trong khi lực lượng thực đáng gọi là nghĩa quân, nghĩa binh, quân đội Tây Sơn lại chỉ được gọi chung là "quân lính", "quân sĩ", không hề có chữ "nghĩa" nào bên cạnh).
Vào khoảng cuối đoạn trích, người viết còn ghi lại chi tiết kể về cuộc gặp gỡ giữa mẹ con của Lê với người thổ hào tại một sơn trại thuộc vùng Hòa Lạc. Đấy không phải một sự cố ý tạo ra tình huống hài hước, để người đọc có dịp nhạo cười một kẻ ngu trung. Trái lại, tác giả dường như đã gắng công để cuộc gặp gỡ có ánh lên vẻ cao đẹp của một tấm lòng thần tử tận tụy, trung trinh, ngay cả khi đấng quân vương của mình đang cơn khốn khó.
Trong chi tiết này, thấy có cả mừng tủi lệ rơi, cả cơm gà vội vàng thết đãi, cả lối tắt đưa vua chạy loạn... tác giả như cố nhắn rằng: đối với các triều đại đa tàn kia, lòng người còn chưa nỡ bỏ, và dẫu vua Lê có lâm vào hoạn nạn thì trong đời vẫn chưa hết mối cô trung...
Có nghĩa là, xét về mặt lập trường chính trị, tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí đứng về phía đối địch với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Song may mắn làm sao họ Ngô đã không thể thắng chính mình. Mối tình cảm chính trị ấy không thắng nổi tình yêu sự thật, không thắng nổi lương tri, lương tâm của người biết nhận ra sự thật và tha thiết muốn nói lên sự thật. Tình cảm chính trị ấy đã không thể chuyển hóa thành sức mạnh văn chương, không đủ sức chi phối nội dung của văn chương.
Không biết người viết Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí có ngờ rằng, với công trình nghệ thuật này, mình đang viết bản án dành cho chính cái chế độ mình vẫn hằng tôn kính? Và con người phù Lê ấy liệu có tự giác nhận ra rằng mình đang tấu lên khúc ca dành cho những người đang kết thúc số mệnh lịch sử của chính nhà Lê.
Nhưng đấy chính là sự thật. Một sự thật vô cùng thú vị khi ta tiếp nhận, thưởng thức và suy ngẫm về tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Tuy nhiên tác giả của những trang viết ta đang nói tới là một nhà văn, một người làm nghệ thuật. Tư cách nghệ sĩ không cho phép ông kể sự thật một cách phiến diện, giản đơn. Hồi chuyện được bắt đầu từ phía có vẻ như ngược lại.
Đội quân xâm lược nhà Thanh thoạt nhiên được nói tới cứ y như một đạo hung binh, với sức mạnh lay thành phá ải, không gì có thể đương đầu: "Lại nói Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi như giẫm đất bằng, ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như vào chỗ không người". Cứ xem đây thì chống chọi lại một đạo binh như thế này khác nào đem trứng chọi đá? Chưa hết, ngày liền sau đó, tác giả lại bồi thêm: "Từ xưa các nhà cầm quân chưa có khi nào được dễ dàng như thế".
Nhưng sự dễ dàng chưa từng có gió, chính nó lại khiến cho những người từng trải, biết suy nghĩ có lý để mà ngờ vực. Từ rất lâu trước đấy, người xưa đã hiểu rằng cái gì đến độ thái quá, đến tột cùng thì thế nào cũng gặp phải sự biến. "Cùng tắc biến" (đến tận cùng thì phải thay đổi). Nhưng mà biến theo chiều trái lại.
Và cái mầm mống của sự biến ấy, tác giả đã không để cho người đọc phải chờ đợi lâu. Cổ nhân từ xưa đã dạy: "thắng không kiêu", Nhưng đạo quân của Tôn Sĩ Nghị chưa kịp thắng trận nào cho ra thắng đã quá vội kiêu: "quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không có kỷ luật gì cả... Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân". Mầm mống của bại vong đã được nứt nanh từ đây.
Chuyện trở nên rõ ràng hơn qua lời của người cung nhân cũ đến từ phủ Trường Yên. Không rõ những lời nói ấy về mặt sử học thì chính xác và sâu xa tới mức nào, chứ về mặt văn chương thì chi tiết này cực thú. Không hẳn chỉ nói những lời nói của người từng là cung nữ ấy đã phác họa ra đại cục, thắng lợi của vua Lê, nếu có, cũng chưa mang ý nghĩa gì lớn, mà mối nguy cho triều Lê thì quả đã như mồi lửa âm ỉ bên trong trường vách.
Cũng không hẳn chỉ vì những câu nói ấy đã sớm đem lại ấn tượng về một Nguyễn Huệ bách thắng, một Nguyễn Huệ kiêu hùng, từ trước khi Nguyễn Huệ bằng thịt bằng xương xuất hiện trên chương truyện: Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn...
Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đều phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống lại, thì địch sao cho nổi"? Âm vang của một chiến thắng hào hùng nghe như đã văng vẳng dần lên từ lời cảnh báo của cung nhân.
Cái thú văn chương trong chi tiết về người cung nhân còn có thể nhìn ra từ chỗ; nó cho thấy, hóa ra, một phụ nữ tầm thường, hèn mọn, bị vua ruồng bỏ, xa cung cấm đã lâu, thế mà còn thông hiểu binh tình gấp bội phần so với một Thái hậu "mẫu nghi thiên hạ" cao sang, quyền quý. Rồi đến khi bà Thái hậu đem chuyện ấy nói với vua, vua nói lại với Tôn Sĩ Nghĩ thì ta còn vỡ lẽ: những kẻ nắm binh quyền dương dương tự đắc kia, còn không có nổi một kiến thức đàn bà!
Vậy là một người phụ nữ vô danh cũng đã thừa khả năng mở mắt cho cả một bộ sâu triều đình, vua quan, tướng tá về cách đánh, tình thế, cách cầm quân. Lời nói của cung nữ xưa quả đã khiến Thái hậu phải "giật mình" và vua Lê "hoảng sợ". Nhưng cũng chỉ đến thế thôi. Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí nhận ra và đã muốn chúng ta cùng thấu hiểu: Không gì có thể đem lại cho bè lũ bạc nhược kia sức mạnh trong ý chí và hành động.
Bọn chúng đã không hành động, dù cho có lo lắng có giận dữ trách mắng nhau. Bởi vì nỗi lo âu, lời quát nạt rồi cũng chóng qua đi. Và bọn người đó lại tiếp tục nằm ườn ra trên lạc thú, lười nhác tự dối lừa mình trong ý nghĩ: "Cần phải tính toán cho chu đáo không thể hấp tấp và uể oải đợi chờ đến sang xuân, vào ngày mùng sáu thì sẽ xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa"...
Nhà văn đã cho ta thấy một mầm mống bại vong nữa của bè lũ Lê Chiêu Thống. Nó nằm trong bản chất của một chế độ đã không còn khả năng hành động, không còn đủ sức mạnh, ý chí, quyết tâm để mà hành động. Và trong khi bọn cướp nước bán nước cứ đờ đẫn đi, rã rời ra trong kiêu căng và trễ nải thì người anh hùng áo vải Tây Sơn lại khẩn trương làm được một núi việc khổng lồ.
Quả thế, nếu quân Thanh không làm gì khác ngoài việc ăn chơi thì quân Tây Sơn lúc nào cũng ráo riết trong chuẩn bị. Phía quân Thanh im lìm bất động : Ngược lại, phía bên Tây Sơn, tình hình chuyển biến từng ngày. Hẳn chẳng phải là tình cờ, khi chuyển mạch truyện sang phía thời gian nối tiếp nhau, dồn dập: "Ngày 20 tháng ấy (tháng 11 âm lịch, năm Mậu Thân 1788). Sớ lui về Tam Điệp thì ngày 24 Tuyết đã vào đến Phú Xuân".
Chỉ một tháng sau, Nguyễn Huệ đã làm xong mọi việc đắp khắp trong ngoài" và "hạ lệnh xuất quân, hôm ấy, nhằm ngày 25 tháng chạp". Bốn ngày sau "ngày 29 đến Nghệ An". Hơn một vạn quân được quân kén ngay sau đó, lập tức được đưa vào cơ ngũ chỉnh tề. Để rồi ngày 30. Quân đến Tam Điệp và ngay tối hôm ấy, năm cánh hùng binh tràn ngập Bắc Hà, sau khi đã kịp mở tiệc khao quân, ăn Tết trước.
Ta đang được chứng kiến văn chương của Hoàng Lê Nhất Thống Chí một cỗ máy vận hành hết công suất, một hơi thở mạnh mẽ, gấp gáp, một dòng máu chảy sục sôi trong huyết quản, một sức sống rạo rực, bừng bừng, đầy phấn chấn. Tác giả Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thuộc về một dòng họ danh vọng bậc nhất trên đất Bắc. Còn Nguyễn Huệ xuất thân từ một người áo vải miền Trung.
Song không vì thế mà văn phái Ngô gia đã vội nhìn lãnh tụ Tây Sơn chỉ như một kẻ võ biền, một kẻ nông phu ít học. Ngược lại, người con của dòng họ Ngô Thì đã vượt qua rất nhiều thành kiến để đem lại cho người đọc sự thật về một Quang Trung giàu tri thức và am hiểu lòng người. Hãy lắng nghe lại một lời hiểu dụ của Hoàng đế Quang Trung trong cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn tại Nghệ An.
Có phải là ta đã nhận ra, từ bên dưới lời văn, cái hồn phách thiêng liêng của một Nam quốc sơn hà, cái giọng khích lệ nghiêm nghị của một Hịch tướng sĩ, và nhất là cái âm hưởng dõng dạc, chứa đầy căng một niềm bất khuất, tự hào ở những dòng đầu tiên của áng thiên cổ hùng văn Bình ngô đại cáo? Chắc chắn phải là một trí tuệ, một tâm hồn cao rộng lắm mới có thẻ bao gồm và chung đúc được chừng ấy tinh hoa trong một bài nói làm lay động lòng người.
Nhưng tác giả sẽ dần dần cho ta hiểu hai khối tự tin kia nặng nhẹ rất khác nhau. Sự tự tin của quân Thanh là sự tự tin kiêu ngạo và mù quáng, tự tin trong ảo tưởng, không biết gì về đối phương, không biết gì về tình thế. Trong khi niềm tự tin bên phía Tây Sơn được bảo đảm chắc nịch rằng bằng cả một công phu chuẩn bị, từ lực lượng phương tiện chiến đấu đến việc nuôi dưỡng, hun đúc chí quyết tâm. Vì thế, khi chiến dịch thực sự diễn ra thì đó là trận đánh giữa một bên là anh dũng, là hào khí ngất trời với bên kia chỉ thấy hoảng loạn đớn hèn, khiếp nhược.
Cái chiến dịch phi thường ấy, trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chỉ được kể lại bằng thứ ngôn ngữ rất bình thường của truyện, của văn xuôi. Và kể không dài, khi in vào sách giáo khoa thì cũng còn chưa đầy nổi hai trang giấy. Nhưng đó là hai trang giấy vô cùng quý giá, vì nó đã ghi lại không chỉ thật chân thực mà còn thật sống động, thật có không khí một chiến thắng cho hôm nay vẫn là thần tốc nhất trong lịch sử Việt Nam.
Người đọc truyện có thể qua đây mà hình dung ra một chuỗi trận đánh nối tiếp nhau, trận nào cũng hùng tráng, trận nào cũng như chớp nhoáng, mà không trận nào giống trận nào. Có trận đánh ở hai sông, sông Gián và sông Thanh Quyết, hết cái gọi là "Nghĩa binh" của Lê Chiêu Thống, lại đến quận Thanh mới trông thấy bóng quân Tây Sơn từ xa đã sợ mất mật mà tự tan, mà tháo chạy, để rồi bị bắt sống không thoát một tên.
Rồi tới trận Hà Hồi, binh uy của vua Quang Trung đúng là như sấm động, chỉ cần dạ ran lên cũng lấy được đồn. Chỉ thấy quân Thanh chống cự một lần duy nhất ở Ngọc Hồi, nhưng sự chống cự mới yếu ớt và ngắn ngủi làm sao! Chúng bắn ra để chẳng trúng người nào. Chúng dùng ống phun khói lửa ra, để tự chịu một trận hỏa công khi trời trở gió.
Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí càng viết lại càng cho ta thấy rõ sự khác nhau một vực một trời một vực giữa bè lũ Tôn Sĩ Nghị - Lê Chiêu Thống với quân tướng của Quang Trung. Với quân Thanh, súng đạn và ống phun lửa cũng chẳng có nghĩa gì, chẳng làm được việc gì ngoại trừ việc tự đốt mình.
Còn với quân Tây Sơn, những vật dụng sinh hoạt thường ngày như ván, như rơm cũng đã đủ khiến họ trở nên vô địch. Quân Thanh chỉ chạy thôi cũng đã chết hàng vạn đứa, như Mực, Quỳnh Đô. Còn đội quân xung kích của Quang Trung trong trận Ngọc Hồi tính ra chỉ khoảng sáu trăm, vậy mà vẫn phá xong một tuyến phòng thủ kiên cố nhất.
Cái có của lũ cướp nước và bán nước, như người viết tác phẩm này cho thấy, là quân đông, vũ khí nhiều. Nhưng ý chí chiến đấu, tinh thần chiến đấu, sự sẵn sàng cho chiến đấu lại là cái chúng không hề có. Tuyệt nhiên không thấy ở bọn này, dù chỉ một chút cái ý thức mà Trần Quốc Tuấn trước đây đã ghi tạc vào lòng dạ của các tướng dưới quyền mình: "nên nhớ câu" đặt mồi lửa vào dưới đống củi" làm nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội "làm răn sợ".
Tác giả hồi truyện này cho thấy rõ : bọn chúng cứ yên tâm kề cà, dềnh dàng yến ẩm trên đống lửa, không hề lo chi đến việc bất trắc". Để rồi khi lửa cháy lên thì việc độc nhất chúng thật khẩn trương làm không phải là cứu hỏa, mà là bỏ chạy cho nhanh. Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thực tế đã thành tấm bia miệng còn vững bền gấp hàng chục, hàng trăm lần bia đá, để ghi lại cho muôn đời sau chê cười sự hèn nhát của một lũ vua quan tướng tá.
Những chi tiết cụ thể, sinh động được nêu ra ở đây, quả thật hùng hồn hơn mọi lời nghị luận. Quang Trung là vua, nhưng vẫn tự mình cưỡi voi đốc chiến. Còn Tôn Sĩ Nghị, thân làm tổng chỉ huy, nhưng chưa xung trận đã sợ hãi tháo chạy, vội vã tới mức "Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp".
Quân lính dưới quyền cũng không hề chiến đấu mà chỉ biết chạy theo, để rồi sự hèn nhát chịu đòn trừng phạt cuối cùng: không ai đánh mà quân chết đuổi nhiều tới mức một dòng sông lớn như Nhị Hà mà nước cũng phải tắc nghẽn, không chảy nổi.. Mẹ con vua Lê thì bị bỏ rơi, phải qua sông bằng thuyền đánh cá, leo đào mãi mới gặp được Tôn Sĩ Nghị, thế mà vẫn phải chịu nhục nhã tỏ ra sự tri ân: "Đội ơn tướng quân... Đều là ơn của tướng quân ban cho!".
Người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí, dù muốn dù không, thì vẫn phải nhận rằng: sức mạnh duy nhất trong trận chiến chỉ có thể tìm thấy từ phía của quân đội Tây Sơn.. Sức mạnh ấy có nguồn gốc ở nhân dân. Dùng ván phủ rơm dấp nước kết lại thành lá chắn, thành tường chống đạn để xung phong, một sự khôn ngoan kì lạ thế không thể được sinh ra từ bọn người hoa xa hoa, quyền quý.
Và sự phấn khích, đồng lòng muôn người như một, không ngại khó nhọc, không quản hi sinh, tình cảm ấy chính là ánh lửa rực rỡ cháy lên từ tinh thần yêu nước của khối quần chúng nhân dân vĩ đại. Sức mạnh vô địch của nhân dân cộng với tài trí vô song của người lãnh đạo đã làm cho đội quân của những người áo vải bình thường phút chốc lớn vụt lên sánh ngang thần thánh, uy thế chấn động trời đất, ẩn hiện, biến hóa xuất quỷ nhập thần, "tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên". Và Hồi thứ mười bốn này của Hoàng Lê Nhất Thống Chí sẽ được thực sự trở thành một khúc ca, với những câu văn cứ làm như ta phải nhớ không nguôi tới Bình Ngô Đại Cáo.
Rồi trong hồi truyện ấy, tác giả sẽ còn cám cảnh cho Lê Chiêu Thống khi phải chạy khỏi Thăng Long. Rồi tác giả sẽ còn khép hồi truyện này bằng hai dòng thơ, như muốn gợi rất nhiều lâm li, ai oán:
Bờ cõi xong bề tính liệu
Nước non buồn nỗi lúc chia ly
Nhưng có lẽ họ Ngô đã hoài công. Tình cảm xót xa có lẽ đã không thể truyền vào lòng của số đông người đọc truyện. Bởi trước đó, người viết đã quá thành công trong việc dựng lên chân dung của một triều đại không còn sức sống: một triều đại cần phải chia tay, phải đưa tiễn xuống mồ một cách vui vẻ chứ không phải một cách buồn đau. Người viết cũng đã quá thành công trong việc tạo ra cảm giác: chiến thắng oai hùng này quả thật là thuộc về người xứng đáng, quân khởi nghĩa Tây Sơn dưới sự dẫn dắt của vị anh hùng dân tộc Quang Trung.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 12
“Hoàng Lê nhất thống chí” được viết bằng chữ Hán. Tác phẩm ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Nó không chỉ dừng lại là sự thống nhất của vương triều nhà Lê, mà còn được viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ XIX. Văn bản là hồi thứ 14, viết về sự kiện Quang Trung đại phá quân Thanh.
Ngô Gia Văn Phái là một nhóm tác giả dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Dòng họ Ngô Gia là một dòng họ tài danh của đất kinh kì, không những có nhiều người làm quan lớn, có quan hệ rất mật thiết với triều đình mà tài văn chương cũng đứng đầu thiên hạ. Hoàng Lê nhất thống chí là kì công hợp lực của nhiều văn nhân thuộc nhiều thế hệ của dòng họ Ngô Gia. Có thể coi đây là bộ tiểu thuyết lớn nhất, có nhiều giá trị nhất của nền văn học trung đại.
Qua Hồi thứ 14, với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm hại của quân tướng nhà Thanh và số phận thảm thương, bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống. Cách kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động cụ thể, gây được ấn tượng mạnh.
Trước thế mạnh của giặc, quân Tây Sơn ở Thăng Long, rút quân về Tam Điệp và cho người vào Phủ Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ. Nhận được tin ngày 24/11, Nguyễn Huệ liền tổ chức lại lực lượng chia quân làm hai đạo thuỷ – bộ. Ngày 25 tháng Chạp, làm lễ lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung, trực tiếp chỉ đạo hai đạo quân tiến ra Bắc. Ngày 29 tháng Chạp, quân Tây Sơn ra đến Nghệ An, Quang Trung cho dừng lại một ngày, tuyển thêm hơn 1 vạn tinh binh, mở một cuộc duyệt binh lớn. Ngày 30, quân của Quang Trung ra đến Tam Điệp, hội cùng Sở và Lân. Quang Trung đã khẳng định : “Chẳng quá mười ngày có thể đuổi được người Thanh”. Cũng trong ngày 30, giặc giã chưa yên, binh đao hãy còn mà ông đã nghĩ đến kế sách xây dựng đất nước mười năm sau chiến tranh. Ông còn mở tiệc khao quân, ngầm hẹn mùng 7 sẽ có mặt ở thành Thăng Long mở tiệc lớn. Ngay đêm đó, nghĩa quân lại tiếp tục lên đường. Khi quân Tây Sơn ra đến sông Thanh Quyết gặp đám do thám của quân Thanh, Quang Trung ra lệnh bắt hết không để sót một tên.
Từ rạng sáng ngày 3 Tết, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận tưng bừng khiến quân thanh khiếp sợ, kinh hồn bạt vía. Đến trưa mùng 5 Tết, Quang Trung đã dẫn đầu đoàn quân thắng trận tiến vào Thăng Long, kết thúc trận tiến quân lịch sử, quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Hồi thứ 14 cũng đã khắc họa đậm nét hình ảnh người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ hiện lên với những tài năng kiệt xuất, hiếm có ở trên đời. Trước hết, ông là vị vua hết lòng yêu nước, thương dân. Nghe tin quân giặc đã kéo vào thành, lòng ông sôi sục, muốn cầm quân đi đánh ngay. Tấm lòng yêu nước, thương dân lớn lao của vị anh hùng lúc nào cũng lo lắng cho vận mệnh đất nước, căm ghét kẻ hung bạo, tham lam. Bởi thế, khi kẻ thù giày xéo lên quê hương, cướp bóc dân chúng lầm than, ông không thể tha thứ được. Khi đất nước sạch bóng quân thù, ông lại tiếp tục đem tâm huyết an dân, mở mang sản xuất, dựng xây cuộc sống yên bình. Tấm lòng của bậc minh quân thật lớn lao biết chừng nào.
Quang Trung là người biết nhìn người và trọng dụng nhân tài. Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sư “đa mưu túc tri’ việc Sở và Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao.
Quang Trung cũng là người thông minh, nhạy bén, quyết đoán, hành động quyết liệt, mạnh mẽ. Tính ông nói là làm, rất nhanh chóng và gọn gàng. Quân giặc vừa đặt chân vào thành, ông đã vạch ra mưu kế đánh giặc. Chính bởi luôn hành động mạnh mẽ, ông đã cùng nghĩa quân làm nên cuộc hành binh thần tốc, tạo nên tính bất ngờ, là cơ sở của những chiến công hiển hách, khiến kẻ thù kinh hồn bạt vía, đến lúc thua chạy cũng không biết là bởi vì sao.
Quang Trung là người có tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”. Đang ngồi trên lưng ngựa, Quang Trung đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm tới ta hòa bình hết sức rõ ràng. Đối với địch, thường thì biết là thắng việc binh đao không thể dứt ngay được vì nỗi sỉ nhục của nước lớn còn đó. Cho nên, sau chiến thắng là phải thực hiện ngoại giao hòa hoãn để đợi thời cơ. Ông khẳng định: nếu “chờ 10 năm nữa ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng”.
Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người. Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch từ 25 tháng chạp đến mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tiết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức 2 ngày. Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng đội quân vẫn chỉnh tề, bí mật được giữ kín, không phiền nhiễu nhân dân, sức mạnh được duy trì cũng là do tài tổ chức của người cầm quân.
Vua Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông làm tổng chỉ huy chiến dịch thực sự, là một dũng tướng tài ba trên xa trường. Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận hoành tráng, thắng áp đảo kẻ thù. Khí thế đội quân làm cho kẻ thù khiếp vía và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc họa lẫm liệt: trong cảnh “khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì”, nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.
Hình ảnh người anh hùng được khắc họa đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần. Quang Trung Nguyễn Huệ là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại.
Mơ ước về một vị anh hùng trượng nghĩa giúp nước, giúp đời, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa đậm nét nhân vật Lục vân Tiên với đầy đủ những phẩm chất cao quý, thậm chí là phi thường. Lục Vân Tiên là một nhân vật lí tưởng, hội tụ đầy đủ những chuẩn mực của một người anh hùng nghĩa hiệp, tuổi trẻ, tài cao, lòng đầy khát khao được đem công danh, tài năng cứu người, giúp đời.
Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, những phẩm chất của người anh hùng trọng nghĩa khinh tài và bậc quân tử thanh liêm, chính trực được bộ lộ rõ nét. Trước bọn cướp hung bạo, chàng dũng cảm tả xông hữu đột đánh cho chúng một trận tơi bời:
“Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay”.
Trước Kiều Nguyệt Nga, chàng giữ lễ đúng mực:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.”
Trước mong muốn đền đáp ơn cứu giúp, chàng khảng khái chối từ, nêu cao đạo lí nhân nghĩa ở đời:
“Vân Tiên nghe nói liền cười:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Này đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Lục Vân Tiên quả thực là một người rất chính trực, anh hùng, chính nghĩa và nhân hậu, là hình tượng gửi gắm niềm tin và ước mong của nhân dân ta đem đến một xã hội công bằng.
Hồi thứ 14 trong tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí thể hiện rõ xu thế lịch sử của nước ta thế kỉ 18. Với ý thức tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc, những người trí thức, các tác giả Ngô Gia Văn Phái vốn là những cựu thần chịu ơn sâu, nghĩa nặng của nhà Lê nhưng họ đã không thể bỏ qua sự thực vua nhà Lê yếu hèn đã cõng rắn cắn gà nhà và ghi nhận chân thực chiến công lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn, làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung – người anh hùng áo vải, niềm tự hào lớn của cả dân tộc.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 13
"Hoàng Lê nhất thống chí" của nhóm tác giả Ngô gia văn phái từ lâu đã được xem là cuốn sách lịch sử đặc biệt quan trọng, là cuốn tư liệu quý giá cho các nhà sử gia nước nhà. Tuy nhiên, vượt ra khuôn khổ giá trị của cuốn sách lịch sử thông thường, tác phẩm còn mang một giá trị văn chương hay, độc đáo, rất tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi. Toàn bộ tác phẩm gồm có mười bảy hồi.
Đó là một chuỗi câu chuyện lịch sử dài, với biết bao nhiêu là những biến cố thăng trầm, đầy dữ dội, đau thương, đẫm máu và nước mắt của các triều đại phong kiến Việt Nam từ ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII đến mấy năm đầu thế kỉ XIX; từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa cho đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà, lật đổ triều đại Tây Sơn, lập nên triều đại Gia Long – nhà Nguyễn. Trong tác phẩm, tiêu biểu có Hồi thứ mười bốn: "đánh Ngọc Hồi quân Thanh thua trận.
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài", là một trong những phần hay nhất của tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí". Tác giả đã dựng lên bức chân dung về người anh hùng áo vải dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh và tái hiện sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống một cách chân thực, sinh động.
Có thể nói, dưới ngòi bút của nhà văn, người đọc như đang sống lại những giờ phút đau thương của lịch sử dân tộc khi mà vào cuối năm Mậu Thân 1788, đầu năm Kỉ Dậu 1789, vua Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị chiếm được thành Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở phải tạm thời rút lui về Tam Điệp để phòng thủ.
Đứng trước vận mệnh lịch sử Việt Nam "ngàn cân treo sợi tóc", Nguyễn Huệ hiện lên như một vị cứu tinh chói lọi của dân tộc ta. Nhận được tin báo Nguyễn Huệ giận lắm, "định thân chinh cầm quân đi ngay". Chỉ trong vòng hơn một tháng trời, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc: Ngày 25 lên ngôi hoàng đế, "tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi", rồi đốc thúc đại quân tiến ra Bắc.
Ngày 29 tới Nghệ An, nhà vua cho tuyển thêm quân sĩ và mở một cuộc duyệt binh lớn, thu nạp được hơn một vạn quân tinh nhuệ; sau đó đưa ra lời phủ dụ, vạch rõ âm mưu và sự tàn độc của quân xâm lược phong kiến phương Bắc, nêu cao truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc và đưa ra lời hiệu triệu kêu gọi các quân sĩ "đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn".
Lời phủ dụ như sấm truyền bên tai, như một lời hịch mang âm hưởng vang vọng của sông núi, kích thích lòng yêu nước và truyền thống anh hùng của dân tộc. Chưa dừng lại ở đó, nhà vua còn hoạch định kế hoạch hành quân "lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đánh đuổi được người Thanh" rồi chia quân sĩ ra làm năm đạo". Hôm đó là ngày 30 tháng chạp, vua cho tổ chức mở tiệc khao quân , hẹn đến ngày mồng bảy năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng...
Qua đó, ta thấy vua Quang Trung - Nguyễn Huệ hiện lên là một con người có hành động mạnh mẽ, xông xáo, có trí tuệ sáng suốt trong nhận định tình hình địch ta và là người biết nhìn xa trông rộng, chưa thắng nhưng nhà vua đã nghĩ tới quyết sách ngoại giao, kế hoạch hòa bình trong mười năm tới.
Tác giả đã mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa diễn ra: "Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn.
Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét". Lời nhận xét đó không phải là không có căn cứ. Điều này được thể hiện rất rõ, rất chân thực, cụ thể trong cuộc điều binh khiển tướng trực tiếp của nhà vua. Trong chiến trận, vua Quang Trung hiện lên oai phong, lẫm liệt, có tài thao lược hơn người. Có thể nói dưới bàn tay chỉ huy của nhà vua, quân đi đến đâu, giặc bị tiêu diệt tới đó.
Lúc đi đến sống Gián và sông Thanh Quyết, toán quân Thanh vừa trông thấy bóng nhà vua đã "tan vỡ chạy trước"; tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc vua lặng lẽ cho vây kín làng rồi dùng mưu bắt loa truyền gọi khiến quân Thanh "ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết"; sáng mùng 5 tết tiến sát đồn Ngọc Hồi, đề phòng trước mũi súng của giặc, vua Quang Trung đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, theo sau là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ "nhất" tiến thẳng vào đồn.
Vì thế, súng giặc bắn ra đều vô tác dụng. Nhân có gió bắc, quân Thanh dùng súng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, hòng làm quân ta rối loạn, không ngờ bỗng trời trở gió nam ngược lại, thành ra quân Thanh tự hại mình. Trước tình thế nghìn năm có một ấy, nhà vua liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che, xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất cứ nấy dao ngắn thủ sẵn trong tay áo mà chém.
Kết quả, quân Thanh "thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại". Thừa thắng xông lên, vua Quang trung lẫm liệt, oai phong cưỡi voi tiến vào giải phóng thành Thăng Long vào trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu – trước kế hoạch hai ngày. Giặc bỏ chạy, vua cho phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, vây quân Thanh ở Quỳnh Đô, giặc chạy xuống đầm Mực, cuối cùng bị quân Tây Sơn " lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người".
Nhà văn đã tả thật chi tiết, sinh động sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua quan phản nước hại dân bằng một giọng điệu vừa ngậm ngùi xót xa, lại vừa mạnh mẽ, tự hào. Vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo quân vào thành. Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở Thăng Long chỉ chăm chú vào ngày tết, yến tiệc vui mừng, không lo chi đến việc bất trắc.
Ngược lại, quan quân ta mạnh mẽ như hổ báo, thế như chẻ tre, như "tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên". Vì bị đánh úp bất ngờ, không có chuẩn bị, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ nhằm hướng bắc mà chạy; Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự vẫn; quân sĩ nhà Thanh đều "hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa".
Còn số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước hại dân Lê Chiêu Thống cũng phải chịu cảnh nhục nhã của kẻ vong quốc. Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ thân tín "đưa thái hậu ra ngoài", bỏ chạy, cướp cả thuyền dân để qua sống, may được người thổ hào giúp cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi " cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt", sau này phải cạo đầu tết tóc như người Mãn Thanh...
Đến đây, chúng ta mới thấy hết được tác giả Ngô gia văn phái là những con người tôn trọng lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan. Mặc dù, họ vốn dĩ là cựu thần nhà Lê, ăn bổng lộc triều Lê, không có thiện cảm với quân Tây Sơn, thậm chí xem Tây Sơn như là kẻ thù, nhưng họ vẫn viết về Quang Trung và những chiến công của đoàn quân áo vải một cách thật hả hê, mạnh mẽ, tự hào.
Điều đó có được là do ý thức dân tộc của những trí thức có lương tri, lương tâm. Họ đã thấy được những cái hạn chế, sự thối nát, hèn mạt của nhà Lê và dã tâm xâm lược độc ác, hống hách của quân Thanh nên họ không thể đứng đó mà ngoảnh mặt làm ngơ được. Qua đó, chúng ta cảm thấy thật tâm phục, khẩu phục trước ý thức, trách nhiệm và tình yêu đất nước dân tộc của nhóm tác giả Ngô gia văn phái.
Đoạn trích "Hồi thứ mười bốn" trong "Hoàng Lê nhất thống chí" là một đoạn trích hay, độc đáo, có nhiều thành công về mặt nghệ thuật: kể tả đan xen rất sinh động, cụ thể, gây được ấn tượng mạnh; giọng điệu biến đổi linh hoạt, phù hợp với từng đoạn văn, từng hoàn cảnh lịch sử. Cảnh tháo chạy của quân tướng nhà Thanh được miêu tả dưới cái nhìn hả hê, mãn nguyện của người thắng trận trước sự thất bại thảm hại của kẻ thù cướp nước: âm hưởng nhanh, dồn dập, gợi sự tán loạn, tan tác.
Cảnh bỏ chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả dài hơn, âm hưởng chậm, toát lên vẻ chua xót, ngậm ngùi... Đặc biệt sự thành công nổi bật trong đoạn trích là nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật với đầy đủ diện mạo tới bản chất: Tôn Sĩ Nghị (tướng nhà Thanh) thì kiêu căng, ngạo mạn, khi bị quân Tây Sơn đánh đến thì "sợ mất mật" hèn hạ dẫn quân bỏ chạy;
Vua Lê Chiêu Thống hiện lên là con người ích kỉ, vì lợi ích dòng họ mà trở thành kẻ phản động, đớn hèn, nhục nhã cướp cả thuyền dân mà bỏ trốn; Còn vua Quang Trung – nhân vật chính trong truyện lại hội tụ biết bao phẩm chất của một người anh hùng "văn võ song toàn", đầu đội trời chân đạp đất... Tất cả đã hòa với nhau làm một, tạo nên sự thành công tuyệt vời của một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi.
Khép lại đoạn trích "Hồi thứ mười bốn" người đọc thấy được những âm mưu tàn ác của quân xâm lược phương Bắc đối với dân tộc ta. Đồng thời, qua đoạn trích ta càng cảm thấy tự hào hơn về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc Việt Nam, thấm thía và biết ơn sâu sắc những con người anh hùng, trong đó có nhà vua, nhà quân sự tài ba Quang Trung – Nguyễn Huệ.
186 Đánh giá
50%
40%
0%
0%
0%