Bài tập Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ có đáp án
36 người thi tuần này 4.6 0.9 K lượt thi 9 câu hỏi
🔥 Đề thi HOT:
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 6)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 9)
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 10)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 3)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)
Bộ 12 đề kiểm tra giữa học kì 1 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án - Đề 1
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 7)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 3)
Nội dung liên quan:
Danh sách câu hỏi:
Lời giải
Dàn ý
1. Mở bài
Giới thiệu bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi.
Dẫn dắt vào khổ thơ cần phân tích
2. Thân bài
a) 3 câu thơ đầu tiên
- Cảm nhận vẻ đẹp của mùa thu Hà Nội bằng hình ảnh của hoài niệm “sáng mát trong như sáng năm xưa”
- Bức tranh mùa thu gợi ra bằng hình ảnh giản dị: hương cốm mới, sáng mát trong.
- Từ đây cảm xúc nhà thơ dâng trào, nhớ về mùa thu Hà Nội, nhớ những ngày thu đã xa
=> Mùa thu Hà Nội đẹp được cảm nhận qua tâm trạng của người xa quê, khi đất nước đang bị chia cắt, giày xéo bởi thực dân, thế nên mang màu sắc đượm buồn.
b) 4 câu thơ tiếp theo
- Cảm xúc của tác giả khi nhớ về mùa thu Hà Nội:
+ Không khí se lạnh quen thuộc của mùa thu.
+ Những con phố dài, hơi heo may của tiết trời mùa thu.
- Hình ảnh “người ra đi đầu không ngoảnh lại” => tư thế của những người lính, quyết tâm cầm súng chiến đấu để giành độc lập cho quê hương. Dứt khoát, mạnh mẽ “không ngoảnh lại” nhưng con tim hẳn đều day dứt với nỗi nhớ về Hà Nội nên “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
3. Kết bài
- Khái quát nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ
- Cảm xúc bản thân, liên hệ, đánh giá tài năng tấm lòng của tác giả…
Mẫu 1
Đất nước là một trong những bài thơ hay nhất của tác giả Nguyễn Đình Thi. Bài thơ có thời gian thai nghén suốt một thời gian dài, là một bản tổng kết về hành trình dài của đất nước từ những năm thực dân Pháp giày xéo, đau thương trong chiến tranh đến ngày ca khúc ca chiến thắng. Bài thơ khá dài, có nhiều khổ thơ hay, đặc biệt là khổ thơ đầu tiên:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
…………………………..
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
7 câu thơ đầu chính là nỗi nhớ của người ra đi trước mùa thu của Hà Nội. Mang tâm sự của người lính ra đi,chưa có ngày trở về, nhà thơ vô cùng bồi hồi, xao xuyến khi nhớ về mùa thu Hà Nội, một mùa thu đẹp với bao nhiêu cảnh, bao nhiêu tình:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Mùa thu trong nỗi nhớ hiện ra qua cái không khí rất đặc trưng “sáng mát trong”: gợi ra không gian mát lành của hồn thu, trời thu. Phép so sánh sáng mát trong với như sáng năm xưa, gợi lên một mùa thu trong quá khứ, không rõ là thời điểm nào nhưng chắc chắn đó là những ngày tháng tươi đẹp nhất của mùa thu Hà Nội. Đó có thể là mùa thu năm 1945, trước quảng trường Ba Đình lịch sử mà chủ tịch đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, hoặc là mùa thu của những ngày tháng còn hoà bình. Mùa thu ấy hiện ra qua không khí, tiết trời và qua những thức quà rất giản dị “hương cốm mới”, “trái hồng chín đỏ”, “trái na thơm lừng”... thật bình dị, thân thương mà ý nghĩa làm sao.
Chính trong không khí như vậy nhà thơ hồi tưởng về “ những ngày thu đã xa”. Ở thời điểm hiện tại nhà thơ nhìn về những năm tháng quá khứ, “nhớ” đồng hiện cả quá khứ và hiện tại trong một khổ thơ.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Lúc này đương độ thu chín nhất nên cảm nhận rõ được cái chớm lạnh, chưa gay gắt, khắc nghiệt như mùa đông nhưng cũng đủ để gợi cảm giác mơn man nơi da thịt. Trong không khí lành lạnh của mùa thu đó là hình ảnh của những con phố dài đang trong mùa thay lá, xao xác những chiếc lá vàng rụng, từ láy “xao xác” kết hợp với “hơi may” khiến cho câu thơ có nhịp điệu trầm, buồn. Phải chăng đó cũng là tâm trạng của những con người đã lâu không được cảm nhận cái không khí của mùa thu Hà Nội.
Kết thúc khổ thơ là hình ảnh của người ra đi “đầu không ngoảnh lại”. Người ra đi ở đây ta có thể hiểu là những người lính quyết tâm ra đi vì non sông đất nước, đi để bảo vệ Hà Nội, với quyết tâm đất nước thoát khỏi giày xéo của chiến tranh. Người ra đi ôm bao hoài vọng, chí lớn nên có tư thế ngang tàng, quyết tâm “không ngoảnh lại”, nghe như âm vang của lời thề “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” . Cái quay lưng đi quyết tâm như thế nhưng tấm lòng, sự vương vấn với Hà Nội sao có thể dứt khoát ngay được, thế nên mới có cảnh “sau lưng thềm…rơi đầy:”
Một đoạn thơ ngắn nhưng đã thâu tóm được trọn vẹn cái hồn của mùa thu miền Bắc nói chung và mùa thu của Hà Nội nói riêng. Mùa thu đẹp đến nao lòng nhưng cũng có cái gì đó buồn đến tê tái. Nhất là khi ấy đất nước còn đang bị giày xéo đau thương do chiến tranh mang lại. Thông qua bài thơ chúng ta cảm nhận được tình yêu kín đáo nhưng sâu sắc của nhà thơ dành cho Hà Nội, tự hào về mảnh đất nghìn năm văn hiến này.
Mẫu 2
Nguyễn Đình Thi làm thơ từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông mang bản sắc và giọng điệu riêng vừa tự do, phóng khoáng, vừa hàm súc, vừa sâu lắng suy tư. Đặc biệt, Nguyễn Đình thi co những bài thơ đằm thắm, thiết tha về quê hương đất nước Việt Nam lam lũ, đau thương đứng lên chiến đấu và chiến thắng. Đất nước là một thi phẩm xuất sắc nhất cho sự nghiệp thơ ca của ông. Chỉ vài nét phác họa, phát thảo nhẹ nhàng, nhà thơ đã gợi lên được cái hồn của mùa thu Hà Nội năm xưa, cổ kính, đẹp một cách hắt hiu, vắng lặng và còn phảng phất nỗi buồn.
Tác giả mở ra một không gian vô cùng an lành, êm đềm gợi bao cảm xúc:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Tín hiệu gợi nhắc về mùa thu Hà Nội: sáng mát trong và gió thổi mùa thu hương cốm mới, đây là những nét đặc trưng quen thuộc của mùa thu Bắc Bộ, mùa thu Hà Nội. những hình ảnh trong hiện tại có sức gợi nhớ về ngày rời Hà Nội cổ kính, thơ mộng. Mùa thu Hà Nội ngày xưa trở về trong ký ức nhà thơ:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Từ láy gợi tả gợi lên cảnh mùa thu với nét quen thuộc, có nắng, có lá vàng rơi, có gió heo may – một mùa thu rất nhẹ, rất thơ mang nét buồn xao xuyến đọng lại trong lòng người ra đi. Bức tranh mùa thu có hình khối, đường nét, màu sắc những chứa đầy tâm trạng của người ra đi “Người ra đi… lá rơi đầy”. Cảnh sắc mùa thu chân thực, thi vị, mang đậm đặc trưng mùa thu Hà Nội nhưng thoáng buồn: những buổi sáng mát trong, gió thổi, hương cốm, chớm lạnh, hơi may xao xác, nắng lá, phố phường Hà Nội. Người ra đi: “đầu không ngoảnh lại, sau lưng thềm…”. Hình ảnh con người ra đi với tư thế và dáng đi tỏ ra kiên quyết, dứt khoát nhưng tâm hồn vẫn lưu luyến với trời thu Hà Nội, với những gì thơ mộng của thủ đô yêu dấu. Những chàng trai Hà Nội sẵn sàng từ biệt căn nhà, góc phố ra đi làm nghĩa vụ của một công dân. Cảnh thu và con người Hà Nội cũng chính là niềm tự hào của tác giả.
Trong hoài niệm của nhà thơ, mùa thu Hà Nội với những cảnh vật thiên nhiên và con người hiện ra thật cụ thể và sinh động. Còn tâm trạng của nhà thơ phảng phất một nỗi buồn hiu hắt. Mùa thu Hà Nội đẹp nhưng buồn thấm thía bởi nhân vật trữ tình phải ly biệt Hà Nội để đi tìm con đường thoát vòng nô lệ đau thương, tủi nhục.
Mẫu 3
Đối với mảnh đất quê hương của mình, ai mà chẳng có những kỉ niệm, sự gắn bó, thân thương. Bài thơ “Đất nước” ra đời với tất cả sự nâng niu, ấp ủ của tác giả trong một thời gian dài 1948 - 1955. Mặc dù dựa trên những suy ngẫm của tác giả về đất nước và con người Việt Nam từ “Sáng mát trong như sáng năm xưa” (1948) và “Đêm mít tinh” (1949). “Đất nước” vẫn có được tính chỉnh thể của một tác phẩm nghệ thuật và người đọc vẫn cảm nhận được nó một cách sâu sắc.
Khơi nguồn cho những cảm xúc và suy ngẫm về đất nước là những cảm giác trực tiếp trong một buổi sáng mùa thu gợi lên nỗi nhớ về đất nước:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những mùa thu đã xa”
Hà Nội hiện lên trong tâm tưởng người thanh niên trí thức đi theo tiếng gọi cách mạng với tất cả những hình ảnh thân thuộc ngày nào: buổi sáng mùa thu trong lành, gió nhẹ thổi và đặc trong gió thoang thoảng mùi hương cốm mới - một mùi hương rất đỗi quen thuộc của Hà Nội - đã gợi lên trong tâm trí nhà thơ một nỗi nhớ da diết, bồi hồi. Chỉ bằng vài nét phác họa tác giả đã gợi lên cả không gian và thời gian, cả màu sắc và hương vị. Một điều gây thắc mắc cho ta là tại sao giữa vùng rừng núi Việt Bắc lại có được mùi “hương cốm mới” ấy. Nhưng nếu liên hệ, đến hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, có lẽ mùi hương cốm ấy là có thật và điều này cũng có thể được hiểu: các chiến sĩ hoạt động ở vùng rừng núi rất ít khi có điều kiện về Hà Nội thăm gia đình, do đó mỗi lần về Hà Nội họ đều nhớ mang theo đặc sản của quê hương - cốm. Khi trở lại Việt Bắc và mùi hương cốm vào buổi sớm tinh mơ có lẽ bắt nguồn từ đó. Ắt phải là một người yêu quê hương ghê gớm lắm tác giả mới cảm nhận được mùi hương ấy. Và có lẽ mùi hương cốm mới đã dẫn nhà thơ ngược dòng thời gian, sống lại những kỉ niệm xưa:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Mùa thu Hà Nội với những cảnh vật thiên nhiên và con người hiện ra trong hoài niệm thật cụ thể, sinh động và gợi cảm. Sự nhạy cảm, tinh tế đã giúp nhà thơ nhận ra cái “chớm lạnh” của buổi sáng mùa thu, cảm giác thật cụ thể cái “xao xác hơi may trên những phố dài”. Câu thơ rất gợi cảm, đầy ấn tượng, một phần là nhờ cách đảo ngữ: “Những phố dài xao xác hơi may”. Cả Hà Nội dường như trở thành một thành phố trống không, chỉ có những chiếc lá vàng bị những đợt gió heo may cuốn bay. Nhân vật người ra đi - có lẽ là người duy nhất và cuối cùng giã biệt Hà Nội để lên chiến khu Việt Bắc để lại thềm nắng đầy lá vàng rơi cho nên “đầu không ngoảnh lại” nhưng là cả một sự xao xuyến, bâng khuâng trong tâm tưởng. Hình ảnh người ra đi giữa không gian đầy màu sắc ánh sáng, tạo một ấn tượng sâu đậm, chất chứa những nỗi niềm, những tâm trạng. Với bảy chữ “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” tác giả đã vẽ nên một bức tranh cực kì gợi cảm: Một người đang bước đi, sau lưng là thềm nhà đầy nắng vàng và lá rụng. Có thể nói bốn câu thơ viết về mùa thu Hà Nội trong niềm hoài niệm của nhà thơ là những câu thơ hay nhất, đẹp nhất của bài thơ. Quả là một mùa thu buồn. Mùa thu thường buồn nhưng mùa thu ở đây có một nét buồn khó hiểu hơn. Đó là cái buồn của người công dân trong cảnh nước nhà đang rơi vào vòng máu lửa, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, mọi người rời lên chiến khu để tham gia kháng chiến, phố phường trở nên hoang vắng và hiu hắt buồn.
Mẫu 4
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ tài hoa. Ông có sự gắn bó mật thiết đối với nền văn học Cách mạng ở Việt Nam từ những ngày đầu trứng nước (từ ngày thành lập Hội Văn hóa Cứu Quốc (1943) cho đến nay). Ông cống hiến tích cực trên nhiều lĩnh vực văn học (thi ca, truyện, kịch, phê bình văn học), thảo luận triết học, sáng tác nhạc. Ông được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - 1996). Trong lĩnh vực sáng tác thi ca, Nguyễn Đình Thi đã để lại cho đời tác phẩm Đất nước. Bài thơ được sáng tác trong quãng thời gian 8 năm (1948 - 1955), diễn tả quá trình nhận thức về kháng chiến, sự hình thành, nảy nở tình cảm yêu nước, căm thù bè lũ cướp nước và khái quát những chặng đường kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng anh dũng, gian khổ nhưng vĩ đại của dân tộc ta.
Chúng ta hãy tìm hiểu phần thứ nhất của bài thơ (từ câu đầu đến câu 21):
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Nguyền Đình Thi cảm nhận về đất nước thân yêu của mình bắt đầu từ buổi sáng tinh khiết của mùa thu. Trời thu mát mẻ, trong trẻo “mùi hương cốm mới” hòa quyện trong những làn gió nhẹ mơn man gợi cảm giác thi vị và cũng gợi cho chúng ta nhớ đến hương vị thơm ngon của lúa nếp trong câu thơ của Hoàng Cầm “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng” (Bên kia sông Đuống). Từ mùa thu nơi núi rừng Việt Bắc, mùa thu độc lập, tự do, mùa thu của quê hương cách mạng, Nguyễn Đình Thi đưa điểm nhìn về “Những ngày thu đã xa”. Có thể nói, nhà thơ chỉ:
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng bay.
Lòng tác giả nhớ về mùa thu Hà Nội:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Khung cảnh Hà Nội hiện lên thật đẹp, bàng bạc chất thơ. Tiết trời chỉ “chớm lạnh” - cái lạnh rất đặc trưng của Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Cái lạnh làm rung động hồn người. Cái lạnh gợi thi hứng khác hẳn cái lạnh lẽo của mùa đông. Những cơn gió heo may xao xác đầu mùa rải trên đường phố tĩnh lặng làm cho phố phường dài hơn, rộng hơn. "Xao xác” là từ láy được nhà thơ dùng “rất đắt”. Đặc biệt những tia nắng hanh vàng soi trên “thềm nắng lá rơi đầy” gợi được thần sắc riêng biệt của vẻ đẹp mùa thu. Chính vì Hà Nội luôn ở nơi hồng trái tim của Nguyễn Đình Thi nên nhà thơ mới miêu tả đúng vẻ đẹp của mùa thu Hà Nội như thế. Tuy nhiên, cảnh sắc ấy dưới điểm nhìn của tác giả có chút xao xuyến, bâng khuâng, buồn lặng lẽ. Nhưng không thể vui được khi Hà Nội vẫn còn bóng dáng của quân cướp nước, bán nước. Cho nên, “Người ra đi đầu không ngoảnh lại'’. Câu thơ đã vẽ lên bức chân dung tự họa của thi sĩ Nguyền Đình Thi. Tâm trạng người ra đi mang nặng niềm thương mến, vấn vương. Vì lí trí nhắc nhở trách nhiệm của người công dân nên “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Còn tinh cảm có sự lưu luyến với nếp sống quen thuộc trong căn nhà bé nhỏ và nỗi nhớ nhung Hà Nội bốn ngàn năm văn hiến. Vì vậy, nhà thơ “đầu không ngoảnh lại” nhưng tâm hồn thì không thể không ngoảnh lại:
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Tóm lại, bằng một hồn thơ đất nước rộng mở, bằng tình cảm mạnh mẽ, bằng điếm nhìn từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại về quá khứ, bằng các thủ pháp nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Đình Thi vừa miêu tả được nét đẹp tuyệt vời của đất nước Việt Nam trăm quý ngàn yéu, hết lời ca ngợi đất nước, vừa bày tỏ được cảm hứng về đất nước và dân tộc anh hùng một cách nhất quán, chân thành.
Mẫu 5
"Tháng tám mùa thu, lá rơi vàng chưa nhỉ? Từ độ người đi, thương nhớ âm thầm, ..." Nhắc về mùa thu của non sông Việt Nam thì chẳng đâu hơn mùa thu của Hà Nội, cái mùa mà mỗi con người Việt Nam luôn cảm thấy bồi hồi, thân thương nhất. Mùa thu của một Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn hiến cứ vấn vương, da diết trong ta biết bao điều. Thu Hà Nội thật đẹp, thật nên thơ, trữ tình. Chẳng vậy mà bất cứ người con nào của Hà Nội đi xa cũng đều nhớ về quê hương, nơi có Hồ Tây chiều hôm, có hương sen thơm, có "hương cốm mới" và có một mùa thu thật dịu dàng. Với Nguyễn Đình Thi cũng vậy, Hà Nội trong ông, quê hương đất nước trong ông là một mùa thu của Hà Nội thật bình yên, vương vấn tâm hồn người:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những con phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy."
Chẳng phải mùa xuân với những đóa hoa thơm rực rỡ khoe sắc màu, không phải mùa hạ với tiếng ve kêu râm ran, cũng chẳng phải mùa đông với những vạt sương bảng lảng trên mặt hồ Gươm buổi sớm, mùa thu của Hà Nội mới là thứ khiến cho Nguyễn Đình Thi luôn bâng khuâng mỗi khi nhớ về. Bởi Hà Nội đẹp nhất, dịu dàng nhất có lẽ chính trong những ngày với sắc trời thu này. Mang tâm sự của một người ra đi, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lại mùa thu ly biệt thật đặc sắc đã từ nửa thế kỉ trước thế mà vẫn khiến tâm hồn người đọc chúng ta vương vấn mãi không thôi.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã viết trong nỗi nhung nhớ đến cháy lòng, nhớ một mùa thu đã xa. Ông đã xúc động mà viết lên cái hồn của đất nước muôn đời để mở đầu cho bài thơ "Đất nước":
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới".
Những rung động sâu thẳm trong tâm hồn tác giả đã khiến ông tái hiện lên một mùa thu trong nỗi nhớ miên man của mình. Những sáng mùa thu với hương gió lạnh se se áo, với những chùm hoa sữa ngất ngây lòng người, với bầu trời xanh, với khí trong lành, ... Như Nguyễn Khuyến cũng đã gợi tả:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt"
Phải, bầu trời ấy thật trong lành, "mát trong" biết bao nhiêu như những ngày tháng "năm xưa". Chỉ với hai từ "mát trong" dường như khiến cho tâm hồn của chúng ta được đắm trong cái không khí của làn gió thu mơn man khắp da thịt, thổi mát của tâm hồn con người khiến cho ta thật lâng lâng. Chỉ với hai chữ này thôi, cả một mùa thu với khí thu, hồn thu của sông núi được tóm lại thật gọn gàng, với màu sắc thật đẹp đẽ. Ở đây, Nguyễn Đình Thi đã sử dụng phép so sánh giữa hiện tại và quá khứ "sáng mát trong" của ngày hôm nay với "sáng năm xưa". Đặt vào thời điểm sáng tác bài thơ này, chúng ta mới thật hiểu được ý của tác giả. Bài thơ được sáng tác trong vòng tám năm, tám năm trời thai nghén từ 1948 đến 1955, biết bao mùa thu đã đi qua Hà Nội, có những năm tháng chiến tranh tàn khốc, có những năm tháng thật êm dịu. Thế nhưng, sáng mùa thu này, thu Hà Nội trở lại là thu Hà Nội, dịu dàng, trong trẻo như xưa, như những ngày thu êm đềm, chiến tranh chưa bắt đầu. Hay cũng có thế là mùa thu độc lập đầu tiên sau những năm tháng dài của chiến tranh khi Bác Hồ thân yêu của chúng ta đứng giữa quảng trường Ba Đình lịch sử dõng dạc đọc bản Tuyên Ngôn khai sinh ra một nước Việt Nam độc lập tự do? Nhưng dù là gì thì mùa thu Hà Nội vẫn "mát trong" như thế, vẫn đẹp và bình yên như thế.
Câu thơ thứ hai, Nguyễn Đình Thi đã viết:
"Gió thổi mùa thu hương cốm mới"
Nếu nhắc về thu Hà Nội mà không nhắc tới món cốm gói trong lá sen thì có lẽ sẽ là một thiếu sót lớn. Thế nên, trong cái nhớ lưu luyến của một người sắp đi xa, thức quà đặc sản mà Nguyễn Đình Thi nhớ nhất là món cốm làng Vòng. Hương gió thu thoang thoảng thổi qua đây mang theo "hương cốm mới". Cái hương cốm ấy quyện sánh lại trong làn gió thu, lướt qua những con phố, phả vào lòng người nỗi nhớ bâng khuâng mùi lúa nếp non, mùi cốm mới thơm nồng. Nó khiến cho con người bừng lên nỗi nhớ da diết không thôi cái hương vị đậm đà của quê hương xứ sở. Người Hà Nội đi đâu cũng không thể nào quên được cái vị thơm nồng của những hạt cốm được gói trong từng lớp lá sen. Cũng như Hữu Thỉnh, ông nhận ra cái thứ mùi riêng biệt, đặc trưng của mùa thu - "hương ổi", cái mùi hương ấy quấn quýt trong làn gió thu khiến cho ai cũng phải vương vấn:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió thu
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Chẳng phải đến thơ Nguyễn Đình Thi ta mới biết đến món đặc sản ấy của Hà Nội, mà từ trong những bài văn xuôi của Vũ Bằng, của Thạch Lam cũng luôn nhắc nhở rằng: cốm vòng Hà Nội là "thức quà riêng của đất nước", "thức quà thanh nhã và tinh khiết". Nhưng đến với thơ Nguyễn Đình Thi, người ta lại cảm nhận được nét đẹp thoáng chút buồn của hồn quê hương đất nước, của Hà Nội trong hương cốm mùa thu.
Dòng hồi tưởng miên man đưa Nguyễn Đình Thi trở về những năm tháng của quá khứ, nhắc ông nhớ tới những hoài niệm xưa kia. Lòng ông trải ra với bao xúc cảm dồn nén, những kỉ niệm xưa ùa về, dâng tràn trong nỗi lòng người thi sĩ:
"Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may"
"Những ngày thu đã xa" mà Nguyễn Đình Thi nhắc tới phải chăng là những ngày thu trước ngày giã biệt quê hương, Hà Nội ra đi vì sông núi non sông, vì dân tộc yêu dấu. Những ngày thu đó giờ đã trở thành miền kí ức "đã xa", hằn in dấu lên tâm hồn người con của Hà Nội. Ra đi vì chí lớn, nhưng nỗi lòng mang nặng niềm thương với Hà Nội thân yêu, để đền giờ đây bao nhiêu nỗi nhớ cứ ùa về trong lòng thi sĩ, nhắc ông nhớ về sáng thu "chớm lạnh" của thành phố quê hương. Cái "chớm lạnh" se se của đầu thu ấy đã gieo vào lòng người biết bao nhung nhớ. "Chớm lạnh" nghe sao mà gợi tả gợi tình, nó không chỉ diễn tả những cơn gió vừa se se hiu hắt của những buổi sáng mùa thu mà còn ẩn trong đó là cảm nhận của con người. Vậy giữa những ngày "chớm lạnh trong lòng Hà Nội" ấy, ta có gì để nhớ? Ta nhớ "những con phố dài xao xác hơi may". Hà Nội ba mươi sáu phố phường, mỗi con phố lại gợi lên những cảm giác riêng, không khí riêng, để làm lên cái riêng khác biệt của Hà Nội.Chẳng vậy mà Nguyễn Đình Thi lại nhớ da diết "những con phố Hà Nội" lúc mùa thu "chớm lạnh" đến thế! Bởi hình ảnh của những con đường với những chiếc lá vàng bay trong gió thu, mang theo cái hơi thu hiu hiu, khiến cho lòng người thêm se sắt. Nguyễn Đình Thi đã khéo léo lồng vào trong câu thơ một từ Hán Việt "hơi may", vừa tinh tế lại quá đỗi giàu sức tưởng. "Hơi may", cũng có nghĩa là gió lạnh, thế nhưng đọc lên hai tiếng "hơi may", người ta thấy nó sao tình tứ, ngọt ngào quá! Nếu đặt hai từ "gió lạnh" ở đây để thay thế thì không khí của câu thơ chẳng phải cái không khí se se kia sẽ nhuốm màu lạnh giá hay sao?
Trong thơ xưa, Nguyễn Khuyến cũng đã có lần dùng từ "hơi may" để gợi tả những cơn gió thu, cái từ mà chỉ gợi lên cái không khí lành lạnh, se se chứ không phải cái lạnh giá mang hơi thở của mùa đông:
"Lác đác ngô đồng mấy lá bay
Tin thu heo hắt lọt hơi may".
Không những vậy, tác giả còn đặt ở đây từ láy "xao xác". Chỉ nghe thôi người ta đã cảm nhận được âm thanh của những chiếc lá bay, đang nhẹ cuốn trên từng vỉa hè, con phố. Đó là tiếng lá rơi, âm thanh của những nhánh cây đang khẽ rùng mình trong cái "chớm lạnh" đầu thu.
"Những con phố dài xao xác hơi may"
Phố Hà Nội xưa nay luôn nổi tiếng với những vẻ đẹp cổ kính và thu Hà Nội cũng vậy, cũng khiến cho người ta man mác buồn, bâng khuâng một nỗi nhớ tha thiết. Chỉ với vài nét bút, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lên một Hà Nội của "những ngày đã xa" với cái chớm lạnh se sắt đầu thu của những cơn gió thu, với cái âm thanh "xao xác hơi may" của những chiếc lá vàng. Ông đã để lại trong lòng chúng ta một cảm nhận rất riêng về thu Hà Nội. Phải yêu thương Hà Nội đến thế nào, hiểu rõ Hà Nội thế nào, ông mới trân quý, mới gợi tả được mùa thu Hà Nội đẹp đến như thế?
Và hai câu cuối của khổ thơ, Nguyễn Đình Thi lại cất lên nỗi lòng của mình trong tâm trạng của người ra đi. Giọng thơ ông vẫn vậy, vẫn buồn thương da diết, nhưng ở đây, cái buồn ấy như nhân lên gấp bội lần vừa sâu lắng lại vừa thiết tha, non nỉ:
"Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy".
"Người ra đi" vì chí lớn non sông, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, biết là thế nhưng sao trong lòng còn vấn vương, còn lưu luyến quá đỗi thế này. Mang trong lòng biết bao kỉ niệm về Hà Nội, về mùa thu của Hà Nội với hương cốm mới, với cái chớm lạnh, cái xao xác của những lá sấu, lá me bay, đó là hành trang để người chiến sĩ bước ra đi. Câu thơ vang lên mà ta nghe thấy cả tiếng lòng quyết tâm đến tột độ của người chiến sĩ. "Không ngoảnh lại" phải chăng đó là sự quyết tâm ra đi để đem về hòa bình, đem về những sáng mùa thu trong mát "như sáng năm xưa"? Nghe đâu đây âm vang của những lời thề "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" của những người lính năm nào!
Câu thơ sau tiếp nối quả là một câu thơ đặc sắc. Người ra đi để lại sau lưng là những giọt nắng thu vương vãi trên thềm nhà, là lá thu rơi trên nền đất, trải rộng trên "những phố dài". Câu thơ không chỉ dùng để tả cảnh mà còn dùng để nói lên nỗi lòng của chính tác giả. Đó là sự lưu luyến, sự ngập ngừng chẳng muốn rời xa. Mặc dù ra đi với quyết tâm "đầu không ngoảnh lại", khí thế là thế, nhưng chẳng thể tránh khỏi những phút lưu luyến, nghẹn ngào nhớ thương. Cái quay lưng của người chiến sĩ quyết tâm là thế, nhưng nghe sao bâng khuâng quá đỗi, bởi người thi sĩ - chiến sĩ ấy còn lưu luyến với quê hương, với mùa thu quê nhà. Cảm xúc ấy dường như là cảm xúc chung của lứa thanh niên trí thức ra đi vì Tổ quốc thời ấy bởi Quang Dũng cũng đã từng viết:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Từ chiến khu xa xôi, người chiến sĩ nhớ về quê nhà với bao tình thương mến, nỗi nhớ man mác sâu nặng chứa chan cả niềm tự hào.
Đoạn thơ trên là đoạn mở đầu của tác phẩm "Đất nước" được thai nghén trong vòng tám năm của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, không chỉ về mặt ý nghĩa mà là cả nghệ thuật nữa. Đã bao người viết về thu Hà Nội, nhưng chưa ai có cái nhìn vừa cảm quan lại sâu sắc như ông, bởi ông là người con của Hà Nội, gắn bó với Hà Nội suốt những tháng năm tuổi thơ. Mùa thu Hà Nội trong ông mang nỗi buồn day dứt, khó tả, mang theo cả hồn thơ sông núi muôn đời nữa. Một chút "xao xác hơi may", "hương cốm mới", cái "chớm lạnh" trên "những phố dài" cổ kính, tất cả đều làm nên một mùa thu khó quên trong lòng người ly biệt. Vậy nên, dù quyết tâm ra đi vì chí lớn non sông, người khách ly biệt cũng chẳng thể nào thôi lưu luyến nắng thu, lá thu đang "rơi đầy" ngoài "thềm" trong gió thu kia.
Đoạn thơ đã gợi tả xuất sắc hình ảnh của mùa thu Hà Nội trong nỗi nhớ của người ly biệt. Nguyễn Đình Thi đã giúp cho chúng ta càng thêm yêu hơn dáng hình non sông quê hương mình, yêu thêm những con phố cổ kính của Hà Nội -Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Mẫu 6
Có lẽ không có một nhà thơ nào trên thế gian này, trở thành một nhà thơ chân chính mà lại không có một vần thơ, một bài thơ viết về đất nước, về quê hương. Bởi vì đất nước là nguồn cảm hứng vô tận đối với thi sĩ muôn đời. Nhưng tình cảm đất nước ở mỗi con người lại hình thành theo một con đường riêng, mang nội dung màu sắc riêng và dựa trên những cảm nhận riêng.
Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ viết nhiều về đất nước. Nhưng có lẽ chưa ở đâu, trong thơ và trong văn của ông, cảm hứng về đất nước lại nổi bật, tập trung đặc sắc như ở bài thơ Đất nước.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành, so với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi ngắn hơn, thế mà Hoàng cầm sáng tác chỉ trong một đêm, còn Nguyễn Đình Thi đã viết trong bảy tám năm ròng rã. So sánh như vậy để thấy cảm hứng về đất nước của hai nhà thơ ngay ở mặt này đã có cái gì rất khác nhau:
Bên kia sông Đuống là cảm hứng tuôn tràn, Đất nước là tình cảm nung nấu: Những đêm dài hành quân nung nấu. Lần giở lại "tiền sử" của bài thơ và đọc kĩ phần thứ nhất Đất nước, ta càng thấy rõ đó là một tình cẩm nang nấu, nung nấu nỗi nhớ, nung nấu niềm vui, niềm tin yêu của người làm chủ.
Là một thanh niên sống và hoạt động ở Hà Nội, Nguyễn Đình Thi viết về đất nước, trước hết là viết về Hà Nội, thủ đô của đất nước, thủ đô của trái tim ông, Hà Nội với hương sắc xao động long lanh trong nắng gió mùa thu.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Chẳng phải ngẫu nhiên chút nào khi nói đến đất nước là nói đến Hà Nội và nói đến Hà Nội lại nói đến mùa thu. Đất nước ta tươi đẹp bốn mùa nhưng đẹp nhất là vào mùa thu và có mùa thu ở đâu lại đẹp, lại "mát trong" hơn mùa thu Hà Nội? Nhất là mùa thu nơi đây lại từng điểm một cái mốc vàng son vào lịch sử - "Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình" giữa "Tháng Tám mùa thu xanh thẳm" (Tố Hữu). Cho nên, chẳng phải chờ đến bốn câu tuyệt tác, ngay từ những đồng đầu đã có cái gì xôn xao, xào xạc trong hồn:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Đất nước gắn với nỗi nhớ, nỗi nhớ khởi từ mùa thu, mùa thu "đã xa" được gợi lại từ "mùa thu nay". Rõ ràng là có hai mùa thu như đang soi chiếu vào nhau làm cho mọi phía đều long lanh lấp lánh hơn lên trong tâm hồn thi sĩ. Cái cảm giác "mát trong" là chung, là muôn thuở đối với mọi mùa thu Việt Nam, mùa thu Hà Nội.
Cái riêng biệt cái "đã xa" đã "khó rồi" giữa hai mùa thu, còn lại là gì? Trong những ngày thu đã xa Hà Nội "mát trong" vẫn "mát trong" vẫn đẹp và thơ mộng. Nhưng đó là cái đẹp buồn. Phố xá vắng vẻ, xao xác, sân thềm đầy nắng, đầy lá vàng rơi. Gió heo may mang theo khí lạnh đầu mùa thổi dài theo những dãy phố cổ vắng người. Có một cái gì buồn, thật trang trọng trong thời khắc chuyển mùa, thời khắc chia xa.
Mùa thu nay vẫn "mát trong" như "sáng năm xưa" ấy nhưng cũng "đã khác rồi". Khác rồi bởi cái "Người ra đi đầu không ngoảnh lại" của "những ngày thu đã xa", giờ đây đã "đứng giữa núi đồi", đúng từ một tầm cao của chiến khu kháng chiến Việt Bắc để mà "nhớ' mà "nghe". Lòng người đã đổi nên ngọn gió cũng đổi, âm thanh cũng đổi, sắc hương cũng đổi:
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Đó là cơn gió thổi, sắc áo mới, tiếng nói cười giữa một cuộc hồi sinh. Có một thay đổi nhỏ trong cách xưng hô ở trên là "tôi nhớ", "tôi đứng vui nghe". Đến đoạn thơ tiếp theo, đất trời mùa thu lại vang vọng tiếng "nói cười thiết tha" của "chúng ta".
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Nước chúng ta...
Mấy chữ "của chúng ta", "chúng ta" ấy vang lên thật rắn rỏi, kiêu hãnh tin yêu, "chúng ta" tự hào về "nước chúng ta" có chủ quyền, tự hào vì "nước chúng ta" giàu đẹp rộng lớn.
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa...
Tự hào vì truyền thống "không bao giờ khuất" của cha ông mình:
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Ở trên, ta nghe một "tiếng nói cười thiết tha" vọng lên đâu đó giữa tầng trời "trong biếc", ơ đây trong những dòng khép lại phần thứ nhất bài thơ, ta lại nghe tiếng nói thiêng vọng lên từ lòng đất thiêng mà nhà thơ gọi là "tiếng đất". Như vậy, cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong phần thứ nhất của bài thơ là niềm vui của người làm chủ.
Đó là niềm vui, là nỗi nhớ vừa sâu lắng vừa náo nức trong lòng, một thứ nỗi niềm vọng trong tâm thức thành một thứ tiếng nói riêng, "tiếng thu" riêng, nghe mênh mang sâu thẳm: sâu thẳm giữa bầu trời, sâu thẳm trong lòng đất và sâu thẳm giữa hồn người đi kháng chiến.
Như trên đã nói, Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác từ năm 1948 đến 1955 mới hoàn thành. Phần thứ nhất được hoàn thành năm 1948 ("Sáng mát trong như sáng năm xưa"), ("Đêm mít tinh") phần thứ hai, được viết tiếp từ 1949 đến 1955.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ đặc sắc về đề tài này. Đặc sắc nhất là ở cảm hứng rất riêng về đất nước của ông: Một đất nước gắn liền với mùa thu, gắn liền với niềm vui nỗi nhớ của con người làm chủ, một đất nước thật đẹp ngay trong cảnh gian khổ đau thương. Chính nhà thơ đã từng viết:
Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần
(Nhớ)
Có lẽ vì vậy mà giữa bao nhiêu bài thơ hay về đất nước của bao nhiêu nhà thơ, người đọc vẫn không thể quên được những câu thơ tuyệt tác của ông về phố Hà Nội, về "Những cánh đồng quê chảy máu - Dây thép gai đâm nát trời chiều" và về "Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy sáng lòa".
Mẫu 7
Đất nước là đề tài lớn, xuyên suốt trong lịch sử văn học, nhưng ở mỗi thời kì văn học, đề tài này được các nhà thơ khai thác ở những góc độ khác nhau. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất hiện rất nhiễu bài thơ tập trung khắc họa hình ảnh đất nước đau thương nhưng anh hùng quật khởi, nổi bật nhất là Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ là cả một chặng đường nhận thức về đất nước của tác giả.
Từ ba bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít linh (1949), và Đất (1965), Nguyễn Đình Thi đã tập hợp lại thành Đất nước. Qua những cảm nhận tinh tế về mùa thu đất nước, qua hình tượng Tổ quốc đau thương mà anh hùng, bài thơ thể hiện sâu sắc ý thức độc lập tự chủ, tình cảm yêu nước, căm thù giặc và niềm tự hào về sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ là sự tập hợp, ghép nối từ nhiều bài thơ nhưng không hề mất đi tính thống nhất chỉnh thể, trái lại đã phát triển theo một mạch cảm xúc tinh tế và khá nhất quán về tư tưởng. Bài thơ mở đầu với dòng cảm xúc về mùa thu đất nước, nhưng là trong những thời điểm và không gian khác nhau:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương, cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Trong một sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, nhà thơ bỗng có cảm giác cái mát mẻ, trong sáng của sớm mùa thu ấy giống như “sáng năm xưa” khi nhà thơ ra đi, hơn nữa trong gió thu nhẹ thổi còn thoảng bay hương cốm mới, gợi nhớ tới một mùi hương rất đặc trưng của Hà Nội vào thu. gần với cuộc sống sinh hoạt của người dân Thủ đô. Nhịp thơ như chậm rãi, nhẹ nhàng, dòng hồi tưởng của nhà thơ trong không khí ấy dào dạt tuôn chảy:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Đó là “những ngày thu đã xa” – những ngày thu trước Cách mạng, nhà thơ phải tạm biệt Thủ đô để lên đường. Cũng là viết về cảnh thu nhưng có bao nhiêu mơ hồ, mặc cảm trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến; bao nhiêu lãng mạn trong thơ Xuân Diệu, bao nhiêu cái ngơ ngác của con nai vàng đạp trên lá khô trong thơ Lưu Trọng Lư.
Trong thơ Nguyễn Đình Thi, cảnh thu Hà Nội chỉ hiện ra trong hồi tưởng nhưng thật đẹp, tuy nhiên vẫn có cái tĩnh lặng và buồn man mác. Đó là cảnh thu đất nước trong những năm đau thương: Sương chớm lạnh trong lòng Hà Nội. Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời tiết thu được nói đến “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” – đó là thời tiết chính thu. Thơ Nguyễn Đình Thi cũng nói về mùa thu nhưng là độ đầu thu.
Hai chữ “chớm lạnh” thật gợi cảm: chút se lạnh trong mùa thu tuy mới đến nhưng không phải là “những hiện tượng da thịt bên ngoài” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) mà đã thấm thía tận “trong lòng Hà Nội”. Nghĩa là tất cả không gian, cỏ cây, hoa lá, con người, phố phường đã cảm nhận sâu sắc được cái lạnh của mùa thu. Cái “chớm” ấy không ngọt ngào như cái rét đầu mùa. nhưng không phải là cái mát mẻ trong mùa hè mà đã là sự pha trộn trong cả hai mùa.
Có lẽ chỉ mùa thu, khí thu Hà Nội mới mang lại cho con người cái cảm giác về thời tiết như vậy. Hà Nội vào thu, gió thổi trên những dãy phố dài cổ kính lại rất nhẹ, chưa phải gió “heo may” mà mới chỉ dừng lại ở độ “hơi may”. Nghĩa là cũng mới chỉ ở độ “chớm” mà thôi.
Dường như tất cả mới chỉ đang ở độ bắt đầu, hết sức nhẹ nhàng nhưng đã làm cho người đọc cảm nhận được sự thay đổi, sự mới bắt đầu ở ranh giới ấy. Nhà thơ đã nhận ra, người Hà Nội đã nhận ra được “hơi thở dịu dàng” ấy của mùa thu. Lẽ tất nhiên, con người ra đi trong hoàn cảnh ấy, dù có mục đích gì chăng nữa tuy bê ngoài có tạo ra dáng vẻ mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát “đầu không ngoảnh lại” nhưng từ trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tràn đầy lưu luyến, nhớ thương, vẫn nhận ra rất rõ những gì của Hà Nội ở phía sau: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy .
Câu thơ có cả chất nhạc, có cả chất họa trong cái rơi đầy của nắng, lá. Phải chăng đó là điều đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội? Màu vàng của nắng quyện vào màu vàng của lá tạo nên một khung cảnh tràn đầy sắc vàng, xua đi cái “chớm lạnh” của “hơi may”. Khung cảnh ấy làm nền cho tâm trạng ấy mới thật hợp. Dường như không gian và thời gian đã có sự biến đổi, cái lắng lại dịu dàng của màu tím Hà Nội rất phù hợp với tiếng lòng thi sĩ, phù hợp với tâm trạng người ra đi.
Đất nước gây ấn tượng sâu sắc bởi chất chứa tình kết hợp với chất chính luận, bởi hình thức câu thơ linh hoạt, nhịp thơ phóng khoáng, hình ảnh thơ đẹp đẽ, chọn lọc, ngôn ngữ thơ cô đọng mà gợi cảm. Những ấn tượng sâu sắc, rõ nét hơn cả là bài thơ đã tạo dựng thành công một tượng đài hùng vĩ bằng thơ về Đất nước, Tổ quốc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì gian khổ nhưng anh dũng và tất thắng.
Mẫu 8
"Đất nước" là bài thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ được sáng tác và hoàn thành trong thời gian khá dài (1948 – 1955) theo hành trình và phát triển đi lên của đất nước và dân tộc. "Đất nước" in trong tập thơ "Người chiến sĩ" của tác giả.
Bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi thể hiện những cảm nhận về đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam hiền hòa, đẹp tươi, trong đau thương đã quật khởi đứng lên anh dũng chiến đấu và chiến thắng với sức mạnh phi thường. Hai câu thơ đầu nói về vẻ đẹp của đất nước khi mùa thu về:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.
Nguyễn Đình Thi chỉ gợi sắc thu, khí thu (mát trong), về gió thu về hương thu (hương cốm mới). Một cách viết hàm súc mở ra bao liên tưởng về bầu trời thu trong xanh, bao la và khí thu mát mẻ mơn man hồn người, về gió thu nhè nhẹ thổi từ những cánh đồng lúa mang theo hương cốm mới phả vào lòng người lâng lâng. Đó là vẻ hiền hòa, tươi đẹp của đất nước đã bao đời nay. Đoạn thơ tiếp theo là hoài niệm của "người ra đi" về "những ngày thu đã xa" – thu Hà Nội:
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
"Chớm lạnh" là cái lành lạnh đầu thu; chỉ có sáng và chiều thu trong buổi thi sơ mới "chớm lạnh" như thế. Hà nội như mở rộng lòng đón nhận cái "chớm lạnh" đầu thu. Hơi may tỏa khắp mọi nơi. Lá thu, lá vàng rụng bay bay, xoay xoay theo chiều gió, để lại tiếng thu xao xác trên những phố dài.
Cảnh giã biệt phố cũ của "người ra đi" buồn lẳng lặng. Khách chinh phu của thời đại "ôm chí nhớn" ra đi, cố nén lại bao tâm tư trĩu lòng. "Đầu không ngoảnh lại" là một tâm thế của li khách. "Người ra đi" xa dần, xa dần năm cửa ô, chốn cũ yêu thương, tuy "đầu không ngoảnh lại" nhưng vẫn cảm thấy có bao nhiêu nắng thu, lá thu "rơi đầy" trên hè phố, thềm đường ở phía sau lưng mình. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều.
Tâm trạng của người ra đi buổi sáng sớm đầu thu ngày xưa ấy như vương vấn mang theo một mảnh trời thu Hà Nội với nắng vàng và lá thu rơi. Có nhiều người đã đưa ra các cách ngắt nhịp cảm thụ vẻ đẹp câu thơ cuối đoạn: ngắt nhịp 3/4 hoặc 4/3; lại có người cho rằng nên ngắt nhịp 2/5 để làm rõ chủ thể trữ tình với không gian nghệ thuật: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
"Đất nước" là hồn thơ chiến sĩ, tiêu biểu cho bốn hồn thơ Nguyễn Đình Thi. Viết về chủ đề quê hương , đất nước trong chiến tranh, thơ Nguyễn Đình Thi mang tính khái quát, chất trữ tình đằm thắm kết hợp hài hòa với chất chính luận sâu sắc để lại một số câu thơ, đoạn thơ đẹp, đầy ấn tượng. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, sắc nét, chan chứa nồng độ xúc cảm. Câu thơ biến hóa : thất ngôn, lục ngôn, có lúc đan xen vào câu thơ ba tiếng , năm tiếng đã làm cho giọng thơ biến hóa: lúc man mác, bồn chồn, lúc dồn dập mạnh mẽ.
Hình tượng đất nước vừa mang vẻ đẹp hiền hòa trong sắc thu, hương thu, mang cái bát ngát của quân và dân ta trong những năm dài kháng chiến. "Đất nước" là bài thơ kiệt tác, mà người đọc lúc nào cũng cảm thấy mới mẻ, niềm tự hào dân tộc cứ lâng lâng mãi tâm hồn mỗi chúng ta.
Mẫu 9
Đất nước là một đề tài được nhiều nhà văn, nhà thơ chú ý thể hiện. Tuy nhiên, đây là đề tài thuộc loại hóc búa. Nếu cảm xúc không đủ mạnh, đủ sâu và khả năng khái quát hạn chế, chắc chắn tác phẩm sẽ rơi vào công thức, sơ lược và bị lối đại ngôn chia phôi. Nhưng những cá tính thơ mạnh mẽ bao giờ cũng tìm được một cách thể hiện riêng, làm cho đất nước mỗi lúc lại hiện ra với một vẻ mặt mới lấp lánh, đa dạng và hàm chứa một nội dung cụ thể lịch sử.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ hay. Nó không thiếu tính khái quát nhưng vẫn đầy ắp ấn tượng, cảm giác về những cảm giác, những người cụ thể (đặc biệt là những cảnh, những người trong kháng chiến chống Pháp). Bài thơ vì thế không sa vào tự biện, mặt khác, có được không khí chân thực của đời sống đủ sức đồng hóa những ý thơ sẽ đôi khi được cho vào chỉ để cho “đủ”, cho “toàn diện” và “bề thế”.
Đúng như có người nhận xét, cái từ của bài thơ không được thể hiện thật rõ. Mới đọc qua phần đầu, ta khó hình dung được dòng chảy của cảm xúc hay hình tượng then chốt của bài thơ. Phải chăng việc lắp ghép một đoạn của bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) với một đoạn của bài thơ Đêm mít tinh(1949) rồi kéo dài thêm để tạo ra Đất nước(1955) đã quy định đặc điểm riêng đó của bài thơ?
Trên ý nghĩa khách quan, quá trình hình thành độc đáo của bài thơ phản ánh khá rõ một chặng đường từ nhận diện để đi đến thấu hiểu về đất nước của nhà thi sĩ. Tất cả không diễn ra một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có sự trải nghiệm, nghiền ngẫm, đòi hỏi tự nhà thơ phải vượt lên trong cuộc hòa mình vào đời sống chiến đấu của toàn dân tộc. Đối với việc bộc lộ tâm hồn của nhà thơ, cái vẻ lỏng lẻo ở kết cấu bề mặt của bài thơ lại trở nên một sáng tạo lí thú. Vì vậy, trong ý đồ sáng tạo, chưa hẳn nhà thơ đã muốn che dấu hoàn toàn những mối “hàn ghép”.
Phần đầu bài thơ - phần vẫn được đánh giá là hay hơn cả - chứa đựng rất nhiều ấn tượng cụ thể về một mùa thu đất nước. Thoạt tiên, đó là một cảm giác thư thái như muốn nhẹ nhàng bay lên theo hai câu thơ có đến 12/14 âm tiết mang thanh điệu có âm cực cao:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.
Một sự tương đồng gợi nhớ. Một liên tưởng của nét đẹp trường cửu của mùa thu xứ sở với hơi may phảng phất và hương cốm dìu dịu tỏa bay. Mùa thu nay cũng như mùa thu xưa, thiên nhiên vẫn đẹp đến nao lòng. Có khác chăng là lòng người và hoàn cảnh xã hội. Nỗi nhớ của tác giả đã thực sự làm một đối chiếu tự nhiên để hình ảnh của ngày qua được dịp trở về vô cùng sống động:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Còn có thể nói gì thêm về câu thơ ấy? Một tiết trời dễ khiến lòng ta xao xuyến. Một chút thoáng heo may se se khơi gợi biết mấy nỗi niềm. Thu tới - không gian chợt yên ắng để tiếng nói của nội tâm cất lời. Các dãy phố như dài thêm và đượm vẻ trầm u đặc biệt, tạo nên một bối cảnh xao xác rất thích hợp cho hình ảnh người ra đi xuất hiện. Người ra đi ở đây là ai, tác giả không nói rõ cụ thể chỉ biết rằng Người ấy rời Hà Nội yêu dấu với rất nhiều quyết tâm, tương tự các tráng sĩ xưa đã lên đường là đi một mạch chẳng ngoảnh đầu trở lại.
Phải chăng đó cũng chính là mẫu người từng được Thâm Tâm nhắc tới "Một giã gia đình một dửng dưng" Và chắc chắn giống nhân vật của Tống biệt hành, người ấy tuy bên ngoài có vẻ lạnh lùng nhưng lòng thì để lại đang trăn trở thao thức với “ thềm nắng lá rơi đầy” ở phía sau lưng. Cả đoạn thơ rất giàu chất điện ảnh, trong đó câu cuối đặc tả cận cảnh để tự cảnh đó kể với người đọc bao điều.
Bắt đầu mờ dần để tiếng nói công nhân sang sảng cất lời. Thời gian mở ra (từ “sáng chớm lạnh” của kỉ niệm riêng đến những năm đau thương, “ngày nắng đốt theo đêm mưa dội” của cả dân tộc), không gian mở ra (từ “thềm nắng lá rơi đầy”) Hà Nội quen thuộc đến quê hương, đất nước, “trời đất mới” không còn của riêng của một con người và lịch sử cũng mang chiều kích mới (từ lịch sử một tâm hồn đầy “nhớ”, đầy “xao xác”, thậm chí cả “phấp phới” đến lịch sử một đất nước vận động từ “đau thương”, “căm hờn” đến “ đứng dậy”, “vỡ bờ”).
Trong bài thơ này, nét mặt quê hương đã ngời lên với những vẻ đa dạng thông qua sự cảm nhận, khám phá của một tâm hồn thi sĩ rất giàu nội tâm cũng như rất giàu ý thức công dân. Nhưng về cơ bản, sự phát hiện của Nguyễn Đình Thi chủ yếu hướng vào truyền thống anh hùng, bất khuất của đất nước - một phẩm chất càng trải qua gian khó, qua thử thách chiến tranh nó càng rạng ngời tỏa sáng. Đây là một góc nhìn vừa của riêng nhà thơ lại vừa của lịch sử trong một thời kỳ nhất định.
Mẫu 10
Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Đình Thi là người đa tài. Thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện sự tìm tòi về hình ảnh. Bài thơ “Đất nước” chính là những tìm tòi độc đáo nhất. Bài thơ lấy hình tượng đất nước làm trung tâm với hai màu sắc vừa tươi đẹp vừa bất khuất.
Trước hết, Nguyễn Đình Thi cảm nhận đất nước trong mùa thu hoài niệm và mùa thu hiện tại. Mùa thu trở thể hiện nối tiếp từ hiện tại về quá khứ rồi trở lại hiện tại. Thi sĩ mở đầu “Đất nước” bằng một vài chiêm nghiệm:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”
Không gian vô cùng tươi sáng của một buổi sớm thu đặc trưng quê hương Việt Nam. Một chút mùi vị “hương cốm” gợi lòng người bao điều. “Cốm làng vòng thơm mát những vòng tay”. Người ta bỗng nhớ những câu văn đầy đặc sắc Hà Nội trong thơ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng… Người ta nhớ về người mẹ, người bà, người em thảo thơm. Thật bình dị và thân thương! Từ hương cốm, mùa thu năm xưa hiện về:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
Hai câu đầu là cảnh, hai câu sau là người. Cảnh và người hợp hảo trong cuộc chia ly năm ấy. Mỗi câu từ chứa một nét chạm khắc thú vị như cái buồn vắng lặng của “những phố dài”, chút “chớm lạnh” cô đơn, đẹp nhưng buồn của cái “xao xác” và chút “hơi may”. Thiên nhiên đẹp nhưng buồn còn lòng người cũng không nguôi cảm giác đơn côi. Người ra đi tựa thế Kinh Kha đầy quyết tâm. Người ở lại chùn chân dưới lá thu bay. Hình ảnh thơ vừa giàu chất cổ điển vừa đầy tinh thần hiện đại.
Cuối cùng, thi sĩ về với mùa thu hiện đại. “Mùa thu nay khác rồi”. Thi sĩ reo vang về thu nay với tâm trạng phơi phới. Từ trong tư thế “đứng vui”, “phấp phới” mà tác giả cảm nhận được thiên nhiên như “thay áo mới”, “Trong biếc”, “nói cười”… Mùa thu ngày nay đầy hứng khởi và niềm vui sống. Từ đó, tâm trạng đơn côi xưa cũ đã thay thế cho tâm trạng hào phóng, tấm lòng rộng mở.
Nó được chứng minh từ những hình ảnh trải rộng về địa lí “trời xanh”, “núi rừng”, “cánh đồng”, “ngả đường”, “dòng sông”… Phụ từ “đây” như khoe như mời mọc tận hưởng. Hẳn thi sĩ đang tự hào về quê hương lắm!
Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi rất đặc sắc trong cách sáng tạo ngôn từ, diễn đạt liền mạch đầy cảm xúc, giọng thơ phong phú và nhiều hình ảnh thú vị giàu sức gợi. Nguyễn Đình Thi đã mang tới một bài ca về đất nước đậm nét đặc trưng và tinh thần chung của người Việt.
Lời giải
Dàn ý
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác và nội dung chủ đề của bài thơ
2. Thân bài
Phân tích theo khổ:
- Khổ thơ đầu: “cành mận… con trẻ”. Phân tích nội dung và hình thức của khổ thơ
+ Hoa mận trắng muốt mang theo không khí mùa xuân
+ Màu hoa mận cũng là màu của tuối thơ
+ Màu hoa mận đi cùng năm tháng, lặng lẽ nhìn ngắm mọi sự thay đổi
- Khổ thứ 2: “cành mận… làm đu”
+ Mùa hoa mận là một phần của buôn làng
+ Mùa hoa mận là dấu hiệu để dân làng nhận ra một mùa xuân mới đã về
+ Màu hoa mận là biểu tượng của màu xuân
- Khổ thứ ba: “canh mận… trở về”
+ Mùa hoa mận là của hiện tại
+ Mùa hoa mận là sự tiếp diễn
+ Mùa hoa mận là vòng lặp
+ Mùa hoa mận là hồi ức, kỉ niệm
3. Kết bài
Kết luận về mùa hoa mận, về dân làng và về mối quan hệ giữa dân làng và mùa hoa mận, đưa ra nhận xét của bản thân.
Mẫu 1
Mùa hoa mận là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Chu Thùy Liên. Bài thơ là nỗi lòng của "người đi xa" về những nối nhớ da diết cùng với hình ảnh gần gũi, quen thuộc của quê hương mình.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã cho ta thấy một khung cảnh mùa hoa mận dưới cái nhìn đầy sự tinh tế:
Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ.
Cảnh "cành mận bung cánh muốt" đã báo hiệu rằng mùa xuân đã về cùng với nhiều điều mới mẻ làm bừng sáng khắp khung trời nơi đây. Dưới cành mận ấy, chúng ta lại thấy những hình ảnh vô cùng gần gũi, quen thuộc, đó là hình ảnh "lũ con trai háo hức chơi cù, lũ con gái rộng ràng khăn áo". Cùng với tâm thế rộn ràng, vui tươi ấy, cành mận cũng được gắn liền với tuổi thơ của những đứa trẻ nơi đây, nó theo suốt quá trình trưởng thành và chứa đựng những ước mơ nhỏ bé của con trẻ. Tiếp nối về khung cảnh sinh hoạt của dân làng, ta lại thấy nơi đây đầy sự rộn ràng, tấp nập, nhộn nhịp:
Cành mận bung cánh muốt
Giục mẹ xôn xang lá, gạo
Giục cha vui lòng căng cánh nỏ
Giục người già bản hối hả làm đu
Mọi người nơi đây đều đang chuẩn bị để đón một mùa xuân cùng với những điều tốt lành. Hình ảnh người mẹ "xôn xang lá, gạo" để làm bánh, một món bánh đặc trưng cho mùa xuân, người cha thì "căng cánh nỏ", người già bản "làm đu" để phục vụ cho trò chơi dân gian của bản địa. Tất cả đã hiện lên không khí của mùa xuân, chất chứa bao niềm vui, nỗi buồn, gắn bó với bản làng suốt năm tháng.
Và rồi, một lần nữa, tác giả sử dụng điệp ngữ lại lần thứ ba với câu thơ "Cành mận bung cánh muốt". Nó như nhấn mạnh thêm vẻ đẹp của mùa hoa mận cùng với cảnh vật, con người nơi đây, tạo nên một khung cảnh hết sức nên thơ:
Cành mận bung cánh muốt
Nhà trình tường ủ hương nếp
Giục lửa hồng nở hoa trong bếp
Cho người đi xa nhớ lối trở về
Trong ngôi nhà truyền thống "nhà trình tường ấy", mùi "nếp" lan toả ra khắp căn phòng với ánh lửa hồng biến căn nhà ấy trở nên gần gũi, ấm cúng hơn. Để rồi khi "người đi xa", họ luôn hướng về quê hương với những thứ mộc mạc, gần gũi và thân quen, đặc biệt là vào mùa hoa mận nỗi niềm đó lại nhân lên gấp bội, gợi nhớ về những kí ức xa xưa. Hoa mận như dẫn lối họ trở về với những hoài niệm, nhớ nhung, nhớ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày đang diễn ra một cách hối hả, xốn xang của các mẹ, cha, người già bản, sự vui vẻ, háo hức của lũ con trai, con gái trong bản làng.
Nhờ những hình ảnh được miêu tả tinh tế dưới ngòi bút của nhà văn Chu Thùy Liên, em như hình dung ra mình đang lạc vào khung cảnh đẹp đẽ ấy với tất cả sự bình yên đến lạ. Qua đó, ta cũng thấy được vẻ đẹp của miền núi Tây Bắc, tất cả được gói gọn trong ba khổ thơ, đã lột tả được bức tranh nên thơ ấy. Để rồi dù ta có đi xa đến đâu thì lòng ta thì mãi luôn nhớ về quê hương, nơi chăn rau cắt rốn của mình với những điều rất đỗi giản dị, nhưng lại chan chứa nhiều kỉ niệm đau đáu.
Với người dân vùng núi Tây Bắc sắc trắng của hoa mơ, hoa mận không chỉ là tín hiệu của mùa xuân mà còn là tín hiệu của quê hương. Với những người xa quê chỉ nhìn thấy sắc trắng hoa mơ, hoa mận qua hình ảnh trên tivi, báo đài thôi cũng thấy xao xuyến và bồi hồi khó tả. Bài thơ “Mùa hoa mận” được tác giả Chu Thuỳ Liên sáng tác đúng tháng chạp năm 2007 đã thể hiện nỗi nhớ sâu sắc về quê hương, buôn làng của những người đi xa thông qua sắc trắng quen thuộc đó.
Mẫu 2
Mùa hoa mận là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Chu Thùy Liên. Bài thơ là nỗi lòng của "người đi xa" về những nối nhớ da diết cùng với hình ảnh gần gũi, quen thuộc của quê hương mình. Mở đầu bài thơ, tác giả đã cho ta thấy một khung cảnh mùa hoa mận dưới cái nhìn đầy sự tinh tế:
Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ.
Cảnh "cành mận bung cánh muốt" đã báo hiệu rằng mùa xuân đã về cùng với nhiều điều mới mẻ làm bừng sáng khắp khung trời nơi đây. Dưới cành mận ấy, chúng ta lại thấy những hình ảnh vô cùng gần gũi, quen thuộc, đó là hình ảnh "lũ con trai háo hức chơi cù, lũ con gái rộng ràng khăn áo". Cùng với tâm thế rộn ràng, vui tươi ấy, cành mận cũng được gắn liền với tuổi thơ của những đứa trẻ nơi đây, nó theo suốt quá trình trưởng thành và chứa đựng những ước mơ nhỏ bé của con trẻ. Tiếp nối về khung cảnh sinh hoạt của dân làng, ta lại thấy nơi đây đầy sự rộn ràng, tấp nập, nhộn nhịp:Cành mận bung cánh muốtGiục mẹ xôn xang lá, gạoGiục cha vui lòng căng cánh nỏGiục người già bản hối hả làm đuMọi người nơi đây đều đang chuẩn bị để đón một mùa xuân cùng với những điều tốt lành. Hình ảnh người mẹ "xôn xang lá, gạo" để làm bánh, một món bánh đặc trưng cho mùa xuân, người cha thì "căng cánh nỏ", người già bản "làm đu" để phục vụ cho trò chơi dân gian của bản địa. Tất cả đã hiện lên không khí của mùa xuân, chất chứa bao niềm vui, nỗi buồn, gắn bó với bản làng suốt năm tháng.Và rồi, một lần nữa, tác giả sử dụng điệp ngữ lại lần thứ ba với câu thơ "Cành mận bung cánh muốt". Nó như nhấn mạnh thêm vẻ đẹp của mùa hoa mận cùng với cảnh vật, con người nơi đây, tạo nên một khung cảnh hết sức nên thơ:Cành mận bung cánh muốtNhà trình tường ủ hương nếpGiục lửa hồng nở hoa trong bếpCho người đi xa nhớ lối trở vềTrong ngôi nhà truyền thống "nhà trình tường ấy", mùi "nếp" lan toả ra khắp căn phòng với ánh lửa hồng biến căn nhà ấy trở nên gần gũi, ấm cúng hơn. Để rồi khi "người đi xa", họ luôn hướng về quê hương với những thứ mộc mạc, gần gũi và thân quen, đặc biệt là vào mùa hoa mận nỗi niềm đó lại nhân lên gấp bội, gợi nhớ về những kí ức xa xưa. Hoa mận như dẫn lối họ trở về với những hoài niệm, nhớ nhung, nhớ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày đang diễn ra một cách hối hả, xốn xang của các mẹ, cha, người già bản, sự vui vẻ, háo hức của lũ con trai, con gái trong bản làng.Nhờ những hình ảnh được miêu tả tinh tế dưới ngòi bút của nhà văn Chu Thùy Liên, em như hình dung ra mình đang lạc vào khung cảnh đẹp đẽ ấy với tất cả sự bình yên đến lạ. Qua đó, ta cũng thấy được vẻ đẹp của miền núi Tây Bắc, tất cả được gói gọn trong ba khổ thơ, đã lột tả được bức tranh nên thơ ấy. Để rồi dù ta có đi xa đến đâu thì lòng ta thì mãi luôn nhớ về quê hương, nơi chăn rau cắt rốn của mình với những điều rất đỗi giản dị, nhưng lại chan chứa nhiều kỉ niệm đau đáu.
Mẫu 3
Chu Thùy Liên là một hồn thơ đẹp, những tác phẩm của ông được đánh gia cao và còn giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ ngành văn hóa. Mùa hoa mận là một trong những tác phẩm tiêu biểu về vẻ đẹp của thiên nhiên, được in trong tập Thuyền đuôi én. Bài thơ là nỗi lòng của một người xa quê, nỗi nhớ quê hương da diết. Bài thơ được Chu Thùy Liên dùng những tình cảm tha thiết nhất của một người con xa quê khi viết về quê hương của mình.
Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ
Ngay trong khổ thơ đầu tiên, cành mận đã là một điểm nhấn quan trọng. Màu trắng của hoa mận bung nở giữa bức tranh chính là lời báo hiệu mùa xuân đã về. Xuân tới, khung cảnh đặc trưng trên những bản làng dân tộc chính là cánh rừng trắng muốt của hoa mận. Hình ảnh này cũng được tác giả đưa vào để làm một dấu hiệu để biết mùa xuân đã tới. Dưới những tán mận rợp trời, hình ảnh nam thanh nữ tú sửa soạn đi chơi vô cùng rộn ràng. Đó đều là những khung cảnh vô cùng quen thuộc với tác giả, với những đứa trẻ vùng cao. Nó theo giấc mơ của những đứa trẻ qua thời gian để trưởng thành, chứng kiến những con người thành tài.
Cành mận bung cánh muốt
Giục mẹ xôn xang lá, gạo
Giục cha vui lòng căng cánh nỏ
Giục người già bản hối hả làm đu
Vẫn mở đầu bằng hình ảnh cánh hoa mận bung nở trắng đầy trời, bên dưới tán cây lại thay bằng hình ảnh sinh hoạt của thôn làng nơi đây. Cảnh sinh hoạt ấy vô cùng tấp nập, rộn ràng, hòa theo không khí mùa xuân mọi người chuẩn bị để đón một cái Tết mới. Những phong tục trong ngày Tết của những người dân bản. Người mẹ bận bịu bên lá, gạo làm bánh. Cha căng cánh nỏ để chuẩn bị cho cuộc đi săn. Những người già hối hả làm xích đu để trẻ em, mọi người vui chơi. Đây đều là những hình ảnh gần gũi và quen thuộc vào mùa xuân, khung cảnh mà tác giả cảm thấy thân thuộc. Dịp lễ Tết luôn là thời gian nhộn nhịp và vui vẻ nhất trong năm, đó cũng chính là những hình ảnh tác giả ghi nhớ sau nhiều năm xa quê của mình.
Cành mận bung cánh muốt
Nhà trình tường ủ hương nếp
Giục lửa hồng nở hoa trong bếp
Cho người đi xa nhớ lối trở về
Ở khổ thơ cuối cùng, một lần nữa cánh hoa mận bung nở trắng rừng lại được tác giả nhắc đến. Trong bài thơ, nó đã được điệp lại 3 lần, đều là hình ảnh mở đầu cho một bức tranh bên dưới. Đó cũng được coi là hình ảnh quan trọng nhất trong bức tranh xuân, là hình ảnh gợi nhớ về quê hương của tác giả. Trong ngôi nhà nhỏ, mùi hương nếp ấy chính là mùi hương của bánh ngày Tết. Những nồi bánh bên lửa hồng, bốc hơi nghi ngút cũng là một trong những hình ảnh gần gũi trong dịp Tết. Không chỉ riêng một hay hai nơi, mà là cả trên đất nước Việt Nam. Tất cả những hình ảnh ấy đều như lời thúc giục nhưng người con xa quê trở về. Có thể là màu hoa trắng muốt, có thể là hương thơm thanh mát dịu dàng, tất cả chúng như lòi nhắc nhở, lời chỉ dẫn những người con xa quê trở về.
Chu Thùy Liên đã rất sáng tạo và tinh tế khi lồng ghép hình ảnh hoa mận trắng muốt vào bài thơ. Sự kết hợp tuyệt vời giữa thiên nhiên và cảnh sinh hoạt náo nhiệt của con người dịp xuân về đã khiến cho bài thơ trở nên vô cùng uyển chuyển, xinh đẹp. Đó là một bức tranh Tây Bắc vào mùa xuân làm cho những người xa quê hương lưu luyến, cũng khiến cho những người đọc da diết khôn nguôi.
Mẫu 4
Bài thơ có ba khổ thơ, mỗi khổ thơ đều bắt đầu bằng hình ảnh hoa mận nở trắng muốt “cành mận bung cánh muốt”, sắc trắng tinh khôi của hoa mận nở khắp vùng trời Tây Bắc dường như chính là tín hiệu của mùa xuân. Và cũng từ đây nó là cái cớ để nhà thơ tuôn trào những cảm xúc về quê hương mình. Dưới tán mận, dưới sắc trắng tinh khôi của hoa mận, toàn bộ sinh hoạt bình dị của dân làng hiện ra, thân thương mà thiêng liêng làm sao:
Cành mận bung cánh muốt
Lũ con trai háo hức chơi cù
Lũ con gái rộn ràng khăn áo
Bóng bay nâng ước mơ con trẻ
Vui nhất và háo hứa nhất khi xuân về chính là lũ trẻ nhỏ. Chúng rộn ràng, sung sướng vì được mặc áo mới, được chơi những trò chơi dân gian mà không sợ cha mẹ mắng. Con trai thì “háo hức chơi cù”, “con gái thì rộn ràng khăn áo”... niềm vui ấy như lan toả sang cả không khí xung quanh. Các từ láy “háo hức”, “rộn ràng” khiến ý thơ tươi vui, rộn rã, dường như ta thấy được nụ cười trong trẻo của lũ trẻ. Dường như cành mận cũng đã cùng vui với lũ trẻ, chứng kiến bao ước mơ và theo con đường trưởng thành của chúng.
Cành mận bung cánh muốt
Giục mẹ xôn xang lá, gạo
Giục cha vui lòng căng cánh nỏ
Giục người già bản hối hả làm đu
Không khí thật nhộn nhịp, tất bật và khẩn trương. Dưới tán mận mẹ vội vàng rửa lá, ngâm gạo để chuẩn bị thổi xôi, làm bánh cúng tổ tiên, mong mỏi một vụ mùa no ấm. Cha đi căng cánh nỏ, người già hối hả làm đu, để chuẩn bị cho những trò chơi dân gian vào năm mới. Động từ “giục” xuất hiện liên tiếp ở ba dòng thơ “giục mẹ”, “giục cha”, “giục người già”... tất cả gợi một không khí thật khẩn trương, rộn rã, tưng bừng. Cả buôn làng từ già đến trẻ đều đang háo hức, phấn khởi chờ đón một mùa xuân mới về.
Cành mận bung cánh muốt
Nhà trình tường ủ hương nếp
Giục lửa hồng nở hoa trong bếp
Cho người đi xa nhớ lối trở về
Trong những ngôi nhà truyền thống mùi hương nếp tỏa ra thơm lừng. Dân làng thổi xôi, làm cơm rượu nếp, ủ men lá, thịt lợn, làm bánh… căn bếp không khi nào hết ánh lửa bập bùng. Không khí thật ấm cúng, hạnh phúc làm sao. Tác giả thật tinh tế khi viết “giục lửa hồng nở hoa trong bếp”, khiến chúng ta cảm nhận được hương vị của mùa xuân đã lan tỏa khắp các ngõ ngách của buôn làng.
Màu trắng của hoa mận, cánh trắng tinh khôi, sắc trắng bao trùm cả những con đường, ven suối, bản làng làm cho quê hương đẹp hơn. Chính màu sắc ấy cũng dấy lên trong lòng những người xa quê cảm xúc bồi hồi, nhớ thương da diết. Ai đi xa chẳng mong trở về, nhất là khi năm mới đến, con người ta lại càng da diết với nỗi nhớ quê hương hơn. Hoa mận như là hoài niệm, như là tín hiệu dẫn lối con người ta trở về với quê hương, nơi ta sinh ra và gắn bó suốt những năm tháng tuổi thơ.
Bài thơ có ba khổ, viết theo thể thơ 5 chữ, không gieo vần, không nặng nề về hình thức. Mạch cảm xúc của nhà thơ chi phối đến mạch chung của bài thơ. Bằng những nét vẽ tinh tế nhà thơ đã giúp bạn đọc cảm nhận được vẻ đẹp cùng không khí rộn ràng của quê hương vào những ngày xuân sang. Qua đó dấy lên trong lòng mỗi người tình yêu tha thiết với nơi chôn nhau cắt rốn.
Lời giải
Mẫu 1
Đất nước là một đề tài quen thuộc từ xưa đến nay của các nhà thơ nhà văn. Nguyễn Đình Thi chính là một gương mặt tiêu biểu cho đề tài này, Đất nước Nguyễn Đình Thi không giống với bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Các câu thơ trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi là các câu dài, ngắn xen kẽ nhau, nhịp điệu biến đổi linh hoạt. Hình ảnh sinh động, biểu cảm, có những đoạn hình ảnh tương phản, có sức khái quát cao. Nhà thơ chú ý diễn tả sâu sắc, tinh tế tiếng nói nội tâm của nhân vật. Trong đó có sự kết hợp giữa cảm xúc và suy tưởng.
Mẫu 2
Từ việc cảm nhận bài thơ Đất nước, ta thấy được nhiều nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ. Tác giả lựa chọn thể thơ tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên. Bằng việc sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục – tập quán sinh hoạt của nhân dân đến các thể loại của văn học dân gian như ca dao – dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích, …Điều đặc biệt là tác giả sử dụng một cách sáng tạo, không trích dẫn nguyên văn mà chỉ trích một vài từ nhưng người đọc cũng có thể hiểu về thi liệu dân gian ấy. Giọng thơ trữ tình – chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người.. Bài thơ như một lời ca, lời hát chạm đến trái tim người đọc
Mẫu 3
Đất nước là đề tài lớn, xuyên suốt trong lịch sử văn học mà các nhà thơ luôn tìm đến để khai thác. Nguyễn Đình Thi chính là một gương mặt tiêu biểu cho đề tài này, nổi tiếng vời bài thơ Đất nước. Bài thơ đã nói về một đất nước mỗi lúc lại hiện ra với một vẻ mặt mới lấp lánh, đa dạng và hàm chứa một nội dung cụ thể lịch sử. Các câu thơ trong bài có độ dài, ngắn xen kẽ nhau cùng nhịp điệu biến đổi linh hoạt. Ngoài ra, bài có sự kết hợp với những hình ảnh sinh động, biểu cảm, có những đoạn hình ảnh tương phản, có sức khái quát cao tạo cho đoạn thơ như một áng văn hay ca ngợi về tình yêu quê hương, đất nước. Đồng thời, nhà thơ chú ý diễn tả sâu sắc, tinh tế tiếng nói nội tâm của nhân vật trữ tình. Trong đó có sự kết hợp giữa cảm xúc và suy tưởng.
Mẫu 4
Đất nước là một trong những bài thơ hay nhất của tác giả Nguyễn Đình Thi. Bài thơ có thời gian thai nghén suốt một thời gian dài, là một bản tổng kết về hành trình dài của đất nước từ những năm thực dân Pháp giày xéo, đau thương trong chiến tranh đến ngày ca khúc ca chiến thắng. Bài thơ khá dài, có nhiều khổ thơ hay, đặc biệt là khổ thơ đầu tiên:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
…………………………..
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
7 câu thơ đầu chính là nỗi nhớ của người ra đi trước mùa thu của Hà Nội. Mang tâm sự của người lính ra đi,chưa có ngày trở về, nhà thơ vô cùng bồi hồi, xao xuyến khi nhớ về mùa thu Hà Nội, một mùa thu đẹp với bao nhiêu cảnh, bao nhiêu tình:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Mùa thu trong nỗi nhớ hiện ra qua cái không khí rất đặc trưng “sáng mát trong”: gợi ra không gian mát lành của hồn thu, trời thu. Phép so sánh sáng mát trong với như sáng năm xưa, gợi lên một mùa thu trong quá khứ, không rõ là thời điểm nào nhưng chắc chắn đó là những ngày tháng tươi đẹp nhất của mùa thu Hà Nội. Đó có thể là mùa thu năm 1945, trước quảng trường Ba Đình lịch sử mà chủ tịch đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, hoặc là mùa thu của những ngày tháng còn hoà bình. Mùa thu ấy hiện ra qua không khí, tiết trời và qua những thức quà rất giản dị “hương cốm mới”, “trái hồng chín đỏ”, “trái na thơm lừng”... thật bình dị, thân thương mà ý nghĩa làm sao.
Chính trong không khí như vậy nhà thơ hồi tưởng về “ những ngày thu đã xa”. Ở thời điểm hiện tại nhà thơ nhìn về những năm tháng quá khứ, “nhớ” đồng hiện cả quá khứ và hiện tại trong một khổ thơ.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Lúc này đương độ thu chín nhất nên cảm nhận rõ được cái chớm lạnh, chưa gay gắt, khắc nghiệt như mùa đông nhưng cũng đủ để gợi cảm giác mơn man nơi da thịt. Trong không khí lành lạnh của mùa thu đó là hình ảnh của những con phố dài đang trong mùa thay lá, xao xác những chiếc lá vàng rụng, từ láy “xao xác” kết hợp với “hơi may” khiến cho câu thơ có nhịp điệu trầm, buồn. Phải chăng đó cũng là tâm trạng của những con người đã lâu không được cảm nhận cái không khí của mùa thu Hà Nội.
Kết thúc khổ thơ là hình ảnh của người ra đi “đầu không ngoảnh lại”. Người ra đi ở đây ta có thể hiểu là những người lính quyết tâm ra đi vì non sông đất nước, đi để bảo vệ Hà Nội, với quyết tâm đất nước thoát khỏi giày xéo của chiến tranh. Người ra đi ôm bao hoài vọng, chí lớn nên có tư thế ngang tàng, quyết tâm “không ngoảnh lại”, nghe như âm vang của lời thề “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” . Cái quay lưng đi quyết tâm như thế nhưng tấm lòng, sự vương vấn với Hà Nội sao có thể dứt khoát ngay được, thế nên mới có cảnh “sau lưng thềm…rơi đầy:”
Một đoạn thơ ngắn nhưng đã thâu tóm được trọn vẹn cái hồn của mùa thu miền Bắc nói chung và mùa thu của Hà Nội nói riêng. Mùa thu đẹp đến nao lòng nhưng cũng có cái gì đó buồn đến tê tái. Nhất là khi ấy đất nước còn đang bị giày xéo đau thương do chiến tranh mang lại. Thông qua bài thơ chúng ta cảm nhận được tình yêu kín đáo nhưng sâu sắc của nhà thơ dành cho Hà Nội, tự hào về mảnh đất nghìn năm văn hiến này.
Mẫu 5
Nguyễn Đình Thi làm thơ từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông mang bản sắc và giọng điệu riêng vừa tự do, phóng khoáng, vừa hàm súc, vừa sâu lắng suy tư. Đặc biệt, Nguyễn Đình thi co những bài thơ đằm thắm, thiết tha về quê hương đất nước Việt Nam lam lũ, đau thương đứng lên chiến đấu và chiến thắng. Đất nước là một thi phẩm xuất sắc nhất cho sự nghiệp thơ ca của ông. Chỉ vài nét phác họa, phát thảo nhẹ nhàng, nhà thơ đã gợi lên được cái hồn của mùa thu Hà Nội năm xưa, cổ kính, đẹp một cách hắt hiu, vắng lặng và còn phảng phất nỗi buồn.
Tác giả mở ra một không gian vô cùng an lành, êm đềm gợi bao cảm xúc:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Tín hiệu gợi nhắc về mùa thu Hà Nội: sáng mát trong và gió thổi mùa thu hương cốm mới, đây là những nét đặc trưng quen thuộc của mùa thu Bắc Bộ, mùa thu Hà Nội. những hình ảnh trong hiện tại có sức gợi nhớ về ngày rời Hà Nội cổ kính, thơ mộng. Mùa thu Hà Nội ngày xưa trở về trong ký ức nhà thơ:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Từ láy gợi tả gợi lên cảnh mùa thu với nét quen thuộc, có nắng, có lá vàng rơi, có gió heo may – một mùa thu rất nhẹ, rất thơ mang nét buồn xao xuyến đọng lại trong lòng người ra đi. Bức tranh mùa thu có hình khối, đường nét, màu sắc những chứa đầy tâm trạng của người ra đi “Người ra đi… lá rơi đầy”. Cảnh sắc mùa thu chân thực, thi vị, mang đậm đặc trưng mùa thu Hà Nội nhưng thoáng buồn: những buổi sáng mát trong, gió thổi, hương cốm, chớm lạnh, hơi may xao xác, nắng lá, phố phường Hà Nội. Người ra đi: “đầu không ngoảnh lại, sau lưng thềm…”. Hình ảnh con người ra đi với tư thế và dáng đi tỏ ra kiên quyết, dứt khoát nhưng tâm hồn vẫn lưu luyến với trời thu Hà Nội, với những gì thơ mộng của thủ đô yêu dấu. Những chàng trai Hà Nội sẵn sàng từ biệt căn nhà, góc phố ra đi làm nghĩa vụ của một công dân. Cảnh thu và con người Hà Nội cũng chính là niềm tự hào của tác giả.
Trong hoài niệm của nhà thơ, mùa thu Hà Nội với những cảnh vật thiên nhiên và con người hiện ra thật cụ thể và sinh động. Còn tâm trạng của nhà thơ phảng phất một nỗi buồn hiu hắt. Mùa thu Hà Nội đẹp nhưng buồn thấm thía bởi nhân vật trữ tình phải ly biệt Hà Nội để đi tìm con đường thoát vòng nô lệ đau thương, tủi nhục.
Mẫu 6
Đối với mảnh đất quê hương của mình, ai mà chẳng có những kỉ niệm, sự gắn bó, thân thương. Bài thơ “Đất nước” ra đời với tất cả sự nâng niu, ấp ủ của tác giả trong một thời gian dài 1948 - 1955. Mặc dù dựa trên những suy ngẫm của tác giả về đất nước và con người Việt Nam từ “Sáng mát trong như sáng năm xưa” (1948) và “Đêm mít tinh” (1949). “Đất nước” vẫn có được tính chỉnh thể của một tác phẩm nghệ thuật và người đọc vẫn cảm nhận được nó một cách sâu sắc.
Khơi nguồn cho những cảm xúc và suy ngẫm về đất nước là những cảm giác trực tiếp trong một buổi sáng mùa thu gợi lên nỗi nhớ về đất nước:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những mùa thu đã xa”
Hà Nội hiện lên trong tâm tưởng người thanh niên trí thức đi theo tiếng gọi cách mạng với tất cả những hình ảnh thân thuộc ngày nào: buổi sáng mùa thu trong lành, gió nhẹ thổi và đặc trong gió thoang thoảng mùi hương cốm mới - một mùi hương rất đỗi quen thuộc của Hà Nội - đã gợi lên trong tâm trí nhà thơ một nỗi nhớ da diết, bồi hồi. Chỉ bằng vài nét phác họa tác giả đã gợi lên cả không gian và thời gian, cả màu sắc và hương vị. Một điều gây thắc mắc cho ta là tại sao giữa vùng rừng núi Việt Bắc lại có được mùi “hương cốm mới” ấy. Nhưng nếu liên hệ, đến hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, có lẽ mùi hương cốm ấy là có thật và điều này cũng có thể được hiểu: các chiến sĩ hoạt động ở vùng rừng núi rất ít khi có điều kiện về Hà Nội thăm gia đình, do đó mỗi lần về Hà Nội họ đều nhớ mang theo đặc sản của quê hương - cốm. Khi trở lại Việt Bắc và mùi hương cốm vào buổi sớm tinh mơ có lẽ bắt nguồn từ đó. Ắt phải là một người yêu quê hương ghê gớm lắm tác giả mới cảm nhận được mùi hương ấy. Và có lẽ mùi hương cốm mới đã dẫn nhà thơ ngược dòng thời gian, sống lại những kỉ niệm xưa:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Mùa thu Hà Nội với những cảnh vật thiên nhiên và con người hiện ra trong hoài niệm thật cụ thể, sinh động và gợi cảm. Sự nhạy cảm, tinh tế đã giúp nhà thơ nhận ra cái “chớm lạnh” của buổi sáng mùa thu, cảm giác thật cụ thể cái “xao xác hơi may trên những phố dài”. Câu thơ rất gợi cảm, đầy ấn tượng, một phần là nhờ cách đảo ngữ: “Những phố dài xao xác hơi may”. Cả Hà Nội dường như trở thành một thành phố trống không, chỉ có những chiếc lá vàng bị những đợt gió heo may cuốn bay. Nhân vật người ra đi - có lẽ là người duy nhất và cuối cùng giã biệt Hà Nội để lên chiến khu Việt Bắc để lại thềm nắng đầy lá vàng rơi cho nên “đầu không ngoảnh lại” nhưng là cả một sự xao xuyến, bâng khuâng trong tâm tưởng. Hình ảnh người ra đi giữa không gian đầy màu sắc ánh sáng, tạo một ấn tượng sâu đậm, chất chứa những nỗi niềm, những tâm trạng. Với bảy chữ “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” tác giả đã vẽ nên một bức tranh cực kì gợi cảm: Một người đang bước đi, sau lưng là thềm nhà đầy nắng vàng và lá rụng. Có thể nói bốn câu thơ viết về mùa thu Hà Nội trong niềm hoài niệm của nhà thơ là những câu thơ hay nhất, đẹp nhất của bài thơ. Quả là một mùa thu buồn. Mùa thu thường buồn nhưng mùa thu ở đây có một nét buồn khó hiểu hơn. Đó là cái buồn của người công dân trong cảnh nước nhà đang rơi vào vòng máu lửa, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, mọi người rời lên chiến khu để tham gia kháng chiến, phố phường trở nên hoang vắng và hiu hắt buồn.
Mẫu 7
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ tài hoa. Ông có sự gắn bó mật thiết đối với nền văn học Cách mạng ở Việt Nam từ những ngày đầu trứng nước (từ ngày thành lập Hội Văn hóa Cứu Quốc (1943) cho đến nay). Ông cống hiến tích cực trên nhiều lĩnh vực văn học (thi ca, truyện, kịch, phê bình văn học), thảo luận triết học, sáng tác nhạc. Ông được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I - 1996). Trong lĩnh vực sáng tác thi ca, Nguyễn Đình Thi đã để lại cho đời tác phẩm Đất nước. Bài thơ được sáng tác trong quãng thời gian 8 năm (1948 - 1955), diễn tả quá trình nhận thức về kháng chiến, sự hình thành, nảy nở tình cảm yêu nước, căm thù bè lũ cướp nước và khái quát những chặng đường kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng anh dũng, gian khổ nhưng vĩ đại của dân tộc ta.
Chúng ta hãy tìm hiểu phần thứ nhất của bài thơ (từ câu đầu đến câu 21):
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Nguyền Đình Thi cảm nhận về đất nước thân yêu của mình bắt đầu từ buổi sáng tinh khiết của mùa thu. Trời thu mát mẻ, trong trẻo “mùi hương cốm mới” hòa quyện trong những làn gió nhẹ mơn man gợi cảm giác thi vị và cũng gợi cho chúng ta nhớ đến hương vị thơm ngon của lúa nếp trong câu thơ của Hoàng Cầm “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng” (Bên kia sông Đuống). Từ mùa thu nơi núi rừng Việt Bắc, mùa thu độc lập, tự do, mùa thu của quê hương cách mạng, Nguyễn Đình Thi đưa điểm nhìn về “Những ngày thu đã xa”. Có thể nói, nhà thơ chỉ:
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng bay.
Lòng tác giả nhớ về mùa thu Hà Nội:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Khung cảnh Hà Nội hiện lên thật đẹp, bàng bạc chất thơ. Tiết trời chỉ “chớm lạnh” - cái lạnh rất đặc trưng của Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Cái lạnh làm rung động hồn người. Cái lạnh gợi thi hứng khác hẳn cái lạnh lẽo của mùa đông. Những cơn gió heo may xao xác đầu mùa rải trên đường phố tĩnh lặng làm cho phố phường dài hơn, rộng hơn. "Xao xác” là từ láy được nhà thơ dùng “rất đắt”. Đặc biệt những tia nắng hanh vàng soi trên “thềm nắng lá rơi đầy” gợi được thần sắc riêng biệt của vẻ đẹp mùa thu. Chính vì Hà Nội luôn ở nơi hồng trái tim của Nguyễn Đình Thi nên nhà thơ mới miêu tả đúng vẻ đẹp của mùa thu Hà Nội như thế. Tuy nhiên, cảnh sắc ấy dưới điểm nhìn của tác giả có chút xao xuyến, bâng khuâng, buồn lặng lẽ. Nhưng không thể vui được khi Hà Nội vẫn còn bóng dáng của quân cướp nước, bán nước. Cho nên, “Người ra đi đầu không ngoảnh lại'’. Câu thơ đã vẽ lên bức chân dung tự họa của thi sĩ Nguyền Đình Thi. Tâm trạng người ra đi mang nặng niềm thương mến, vấn vương. Vì lí trí nhắc nhở trách nhiệm của người công dân nên “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Còn tinh cảm có sự lưu luyến với nếp sống quen thuộc trong căn nhà bé nhỏ và nỗi nhớ nhung Hà Nội bốn ngàn năm văn hiến. Vì vậy, nhà thơ “đầu không ngoảnh lại” nhưng tâm hồn thì không thể không ngoảnh lại:
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Tóm lại, bằng một hồn thơ đất nước rộng mở, bằng tình cảm mạnh mẽ, bằng điếm nhìn từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại về quá khứ, bằng các thủ pháp nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Đình Thi vừa miêu tả được nét đẹp tuyệt vời của đất nước Việt Nam trăm quý ngàn yéu, hết lời ca ngợi đất nước, vừa bày tỏ được cảm hứng về đất nước và dân tộc anh hùng một cách nhất quán, chân thành.
Mẫu 8
"Tháng tám mùa thu, lá rơi vàng chưa nhỉ? Từ độ người đi, thương nhớ âm thầm, ..." Nhắc về mùa thu của non sông Việt Nam thì chẳng đâu hơn mùa thu của Hà Nội, cái mùa mà mỗi con người Việt Nam luôn cảm thấy bồi hồi, thân thương nhất. Mùa thu của một Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn hiến cứ vấn vương, da diết trong ta biết bao điều. Thu Hà Nội thật đẹp, thật nên thơ, trữ tình. Chẳng vậy mà bất cứ người con nào của Hà Nội đi xa cũng đều nhớ về quê hương, nơi có Hồ Tây chiều hôm, có hương sen thơm, có "hương cốm mới" và có một mùa thu thật dịu dàng. Với Nguyễn Đình Thi cũng vậy, Hà Nội trong ông, quê hương đất nước trong ông là một mùa thu của Hà Nội thật bình yên, vương vấn tâm hồn người:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những con phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy."
Chẳng phải mùa xuân với những đóa hoa thơm rực rỡ khoe sắc màu, không phải mùa hạ với tiếng ve kêu râm ran, cũng chẳng phải mùa đông với những vạt sương bảng lảng trên mặt hồ Gươm buổi sớm, mùa thu của Hà Nội mới là thứ khiến cho Nguyễn Đình Thi luôn bâng khuâng mỗi khi nhớ về. Bởi Hà Nội đẹp nhất, dịu dàng nhất có lẽ chính trong những ngày với sắc trời thu này. Mang tâm sự của một người ra đi, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lại mùa thu ly biệt thật đặc sắc đã từ nửa thế kỉ trước thế mà vẫn khiến tâm hồn người đọc chúng ta vương vấn mãi không thôi.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã viết trong nỗi nhung nhớ đến cháy lòng, nhớ một mùa thu đã xa. Ông đã xúc động mà viết lên cái hồn của đất nước muôn đời để mở đầu cho bài thơ "Đất nước":
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới".
Những rung động sâu thẳm trong tâm hồn tác giả đã khiến ông tái hiện lên một mùa thu trong nỗi nhớ miên man của mình. Những sáng mùa thu với hương gió lạnh se se áo, với những chùm hoa sữa ngất ngây lòng người, với bầu trời xanh, với khí trong lành, ... Như Nguyễn Khuyến cũng đã gợi tả:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt"
Phải, bầu trời ấy thật trong lành, "mát trong" biết bao nhiêu như những ngày tháng "năm xưa". Chỉ với hai từ "mát trong" dường như khiến cho tâm hồn của chúng ta được đắm trong cái không khí của làn gió thu mơn man khắp da thịt, thổi mát của tâm hồn con người khiến cho ta thật lâng lâng. Chỉ với hai chữ này thôi, cả một mùa thu với khí thu, hồn thu của sông núi được tóm lại thật gọn gàng, với màu sắc thật đẹp đẽ. Ở đây, Nguyễn Đình Thi đã sử dụng phép so sánh giữa hiện tại và quá khứ "sáng mát trong" của ngày hôm nay với "sáng năm xưa". Đặt vào thời điểm sáng tác bài thơ này, chúng ta mới thật hiểu được ý của tác giả. Bài thơ được sáng tác trong vòng tám năm, tám năm trời thai nghén từ 1948 đến 1955, biết bao mùa thu đã đi qua Hà Nội, có những năm tháng chiến tranh tàn khốc, có những năm tháng thật êm dịu. Thế nhưng, sáng mùa thu này, thu Hà Nội trở lại là thu Hà Nội, dịu dàng, trong trẻo như xưa, như những ngày thu êm đềm, chiến tranh chưa bắt đầu. Hay cũng có thế là mùa thu độc lập đầu tiên sau những năm tháng dài của chiến tranh khi Bác Hồ thân yêu của chúng ta đứng giữa quảng trường Ba Đình lịch sử dõng dạc đọc bản Tuyên Ngôn khai sinh ra một nước Việt Nam độc lập tự do? Nhưng dù là gì thì mùa thu Hà Nội vẫn "mát trong" như thế, vẫn đẹp và bình yên như thế.
Câu thơ thứ hai, Nguyễn Đình Thi đã viết:
"Gió thổi mùa thu hương cốm mới"
Nếu nhắc về thu Hà Nội mà không nhắc tới món cốm gói trong lá sen thì có lẽ sẽ là một thiếu sót lớn. Thế nên, trong cái nhớ lưu luyến của một người sắp đi xa, thức quà đặc sản mà Nguyễn Đình Thi nhớ nhất là món cốm làng Vòng. Hương gió thu thoang thoảng thổi qua đây mang theo "hương cốm mới". Cái hương cốm ấy quyện sánh lại trong làn gió thu, lướt qua những con phố, phả vào lòng người nỗi nhớ bâng khuâng mùi lúa nếp non, mùi cốm mới thơm nồng. Nó khiến cho con người bừng lên nỗi nhớ da diết không thôi cái hương vị đậm đà của quê hương xứ sở. Người Hà Nội đi đâu cũng không thể nào quên được cái vị thơm nồng của những hạt cốm được gói trong từng lớp lá sen. Cũng như Hữu Thỉnh, ông nhận ra cái thứ mùi riêng biệt, đặc trưng của mùa thu - "hương ổi", cái mùi hương ấy quấn quýt trong làn gió thu khiến cho ai cũng phải vương vấn:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió thu
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Chẳng phải đến thơ Nguyễn Đình Thi ta mới biết đến món đặc sản ấy của Hà Nội, mà từ trong những bài văn xuôi của Vũ Bằng, của Thạch Lam cũng luôn nhắc nhở rằng: cốm vòng Hà Nội là "thức quà riêng của đất nước", "thức quà thanh nhã và tinh khiết". Nhưng đến với thơ Nguyễn Đình Thi, người ta lại cảm nhận được nét đẹp thoáng chút buồn của hồn quê hương đất nước, của Hà Nội trong hương cốm mùa thu.
Dòng hồi tưởng miên man đưa Nguyễn Đình Thi trở về những năm tháng của quá khứ, nhắc ông nhớ tới những hoài niệm xưa kia. Lòng ông trải ra với bao xúc cảm dồn nén, những kỉ niệm xưa ùa về, dâng tràn trong nỗi lòng người thi sĩ:
"Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may"
"Những ngày thu đã xa" mà Nguyễn Đình Thi nhắc tới phải chăng là những ngày thu trước ngày giã biệt quê hương, Hà Nội ra đi vì sông núi non sông, vì dân tộc yêu dấu. Những ngày thu đó giờ đã trở thành miền kí ức "đã xa", hằn in dấu lên tâm hồn người con của Hà Nội. Ra đi vì chí lớn, nhưng nỗi lòng mang nặng niềm thương với Hà Nội thân yêu, để đền giờ đây bao nhiêu nỗi nhớ cứ ùa về trong lòng thi sĩ, nhắc ông nhớ về sáng thu "chớm lạnh" của thành phố quê hương. Cái "chớm lạnh" se se của đầu thu ấy đã gieo vào lòng người biết bao nhung nhớ. "Chớm lạnh" nghe sao mà gợi tả gợi tình, nó không chỉ diễn tả những cơn gió vừa se se hiu hắt của những buổi sáng mùa thu mà còn ẩn trong đó là cảm nhận của con người. Vậy giữa những ngày "chớm lạnh trong lòng Hà Nội" ấy, ta có gì để nhớ? Ta nhớ "những con phố dài xao xác hơi may". Hà Nội ba mươi sáu phố phường, mỗi con phố lại gợi lên những cảm giác riêng, không khí riêng, để làm lên cái riêng khác biệt của Hà Nội.Chẳng vậy mà Nguyễn Đình Thi lại nhớ da diết "những con phố Hà Nội" lúc mùa thu "chớm lạnh" đến thế! Bởi hình ảnh của những con đường với những chiếc lá vàng bay trong gió thu, mang theo cái hơi thu hiu hiu, khiến cho lòng người thêm se sắt. Nguyễn Đình Thi đã khéo léo lồng vào trong câu thơ một từ Hán Việt "hơi may", vừa tinh tế lại quá đỗi giàu sức tưởng. "Hơi may", cũng có nghĩa là gió lạnh, thế nhưng đọc lên hai tiếng "hơi may", người ta thấy nó sao tình tứ, ngọt ngào quá! Nếu đặt hai từ "gió lạnh" ở đây để thay thế thì không khí của câu thơ chẳng phải cái không khí se se kia sẽ nhuốm màu lạnh giá hay sao?
Trong thơ xưa, Nguyễn Khuyến cũng đã có lần dùng từ "hơi may" để gợi tả những cơn gió thu, cái từ mà chỉ gợi lên cái không khí lành lạnh, se se chứ không phải cái lạnh giá mang hơi thở của mùa đông:
"Lác đác ngô đồng mấy lá bay
Tin thu heo hắt lọt hơi may".
Không những vậy, tác giả còn đặt ở đây từ láy "xao xác". Chỉ nghe thôi người ta đã cảm nhận được âm thanh của những chiếc lá bay, đang nhẹ cuốn trên từng vỉa hè, con phố. Đó là tiếng lá rơi, âm thanh của những nhánh cây đang khẽ rùng mình trong cái "chớm lạnh" đầu thu.
"Những con phố dài xao xác hơi may"
Phố Hà Nội xưa nay luôn nổi tiếng với những vẻ đẹp cổ kính và thu Hà Nội cũng vậy, cũng khiến cho người ta man mác buồn, bâng khuâng một nỗi nhớ tha thiết. Chỉ với vài nét bút, Nguyễn Đình Thi đã vẽ lên một Hà Nội của "những ngày đã xa" với cái chớm lạnh se sắt đầu thu của những cơn gió thu, với cái âm thanh "xao xác hơi may" của những chiếc lá vàng. Ông đã để lại trong lòng chúng ta một cảm nhận rất riêng về thu Hà Nội. Phải yêu thương Hà Nội đến thế nào, hiểu rõ Hà Nội thế nào, ông mới trân quý, mới gợi tả được mùa thu Hà Nội đẹp đến như thế?
Và hai câu cuối của khổ thơ, Nguyễn Đình Thi lại cất lên nỗi lòng của mình trong tâm trạng của người ra đi. Giọng thơ ông vẫn vậy, vẫn buồn thương da diết, nhưng ở đây, cái buồn ấy như nhân lên gấp bội lần vừa sâu lắng lại vừa thiết tha, non nỉ:
"Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy".
"Người ra đi" vì chí lớn non sông, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, biết là thế nhưng sao trong lòng còn vấn vương, còn lưu luyến quá đỗi thế này. Mang trong lòng biết bao kỉ niệm về Hà Nội, về mùa thu của Hà Nội với hương cốm mới, với cái chớm lạnh, cái xao xác của những lá sấu, lá me bay, đó là hành trang để người chiến sĩ bước ra đi. Câu thơ vang lên mà ta nghe thấy cả tiếng lòng quyết tâm đến tột độ của người chiến sĩ. "Không ngoảnh lại" phải chăng đó là sự quyết tâm ra đi để đem về hòa bình, đem về những sáng mùa thu trong mát "như sáng năm xưa"? Nghe đâu đây âm vang của những lời thề "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" của những người lính năm nào!
Câu thơ sau tiếp nối quả là một câu thơ đặc sắc. Người ra đi để lại sau lưng là những giọt nắng thu vương vãi trên thềm nhà, là lá thu rơi trên nền đất, trải rộng trên "những phố dài". Câu thơ không chỉ dùng để tả cảnh mà còn dùng để nói lên nỗi lòng của chính tác giả. Đó là sự lưu luyến, sự ngập ngừng chẳng muốn rời xa. Mặc dù ra đi với quyết tâm "đầu không ngoảnh lại", khí thế là thế, nhưng chẳng thể tránh khỏi những phút lưu luyến, nghẹn ngào nhớ thương. Cái quay lưng của người chiến sĩ quyết tâm là thế, nhưng nghe sao bâng khuâng quá đỗi, bởi người thi sĩ - chiến sĩ ấy còn lưu luyến với quê hương, với mùa thu quê nhà. Cảm xúc ấy dường như là cảm xúc chung của lứa thanh niên trí thức ra đi vì Tổ quốc thời ấy bởi Quang Dũng cũng đã từng viết:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Từ chiến khu xa xôi, người chiến sĩ nhớ về quê nhà với bao tình thương mến, nỗi nhớ man mác sâu nặng chứa chan cả niềm tự hào.
Đoạn thơ trên là đoạn mở đầu của tác phẩm "Đất nước" được thai nghén trong vòng tám năm của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, không chỉ về mặt ý nghĩa mà là cả nghệ thuật nữa. Đã bao người viết về thu Hà Nội, nhưng chưa ai có cái nhìn vừa cảm quan lại sâu sắc như ông, bởi ông là người con của Hà Nội, gắn bó với Hà Nội suốt những tháng năm tuổi thơ. Mùa thu Hà Nội trong ông mang nỗi buồn day dứt, khó tả, mang theo cả hồn thơ sông núi muôn đời nữa. Một chút "xao xác hơi may", "hương cốm mới", cái "chớm lạnh" trên "những phố dài" cổ kính, tất cả đều làm nên một mùa thu khó quên trong lòng người ly biệt. Vậy nên, dù quyết tâm ra đi vì chí lớn non sông, người khách ly biệt cũng chẳng thể nào thôi lưu luyến nắng thu, lá thu đang "rơi đầy" ngoài "thềm" trong gió thu kia.
Đoạn thơ đã gợi tả xuất sắc hình ảnh của mùa thu Hà Nội trong nỗi nhớ của người ly biệt. Nguyễn Đình Thi đã giúp cho chúng ta càng thêm yêu hơn dáng hình non sông quê hương mình, yêu thêm những con phố cổ kính của Hà Nội -Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Mẫu 9
Có lẽ không có một nhà thơ nào trên thế gian này, trở thành một nhà thơ chân chính mà lại không có một vần thơ, một bài thơ viết về đất nước, về quê hương. Bởi vì đất nước là nguồn cảm hứng vô tận đối với thi sĩ muôn đời. Nhưng tình cảm đất nước ở mỗi con người lại hình thành theo một con đường riêng, mang nội dung màu sắc riêng và dựa trên những cảm nhận riêng.
Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ viết nhiều về đất nước. Nhưng có lẽ chưa ở đâu, trong thơ và trong văn của ông, cảm hứng về đất nước lại nổi bật, tập trung đặc sắc như ở bài thơ Đất nước.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành, so với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi ngắn hơn, thế mà Hoàng cầm sáng tác chỉ trong một đêm, còn Nguyễn Đình Thi đã viết trong bảy tám năm ròng rã. So sánh như vậy để thấy cảm hứng về đất nước của hai nhà thơ ngay ở mặt này đã có cái gì rất khác nhau:
Bên kia sông Đuống là cảm hứng tuôn tràn, Đất nước là tình cảm nung nấu: Những đêm dài hành quân nung nấu. Lần giở lại "tiền sử" của bài thơ và đọc kĩ phần thứ nhất Đất nước, ta càng thấy rõ đó là một tình cẩm nang nấu, nung nấu nỗi nhớ, nung nấu niềm vui, niềm tin yêu của người làm chủ.
Là một thanh niên sống và hoạt động ở Hà Nội, Nguyễn Đình Thi viết về đất nước, trước hết là viết về Hà Nội, thủ đô của đất nước, thủ đô của trái tim ông, Hà Nội với hương sắc xao động long lanh trong nắng gió mùa thu.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Chẳng phải ngẫu nhiên chút nào khi nói đến đất nước là nói đến Hà Nội và nói đến Hà Nội lại nói đến mùa thu. Đất nước ta tươi đẹp bốn mùa nhưng đẹp nhất là vào mùa thu và có mùa thu ở đâu lại đẹp, lại "mát trong" hơn mùa thu Hà Nội? Nhất là mùa thu nơi đây lại từng điểm một cái mốc vàng son vào lịch sử - "Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình" giữa "Tháng Tám mùa thu xanh thẳm" (Tố Hữu). Cho nên, chẳng phải chờ đến bốn câu tuyệt tác, ngay từ những đồng đầu đã có cái gì xôn xao, xào xạc trong hồn:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Đất nước gắn với nỗi nhớ, nỗi nhớ khởi từ mùa thu, mùa thu "đã xa" được gợi lại từ "mùa thu nay". Rõ ràng là có hai mùa thu như đang soi chiếu vào nhau làm cho mọi phía đều long lanh lấp lánh hơn lên trong tâm hồn thi sĩ. Cái cảm giác "mát trong" là chung, là muôn thuở đối với mọi mùa thu Việt Nam, mùa thu Hà Nội.
Cái riêng biệt cái "đã xa" đã "khó rồi" giữa hai mùa thu, còn lại là gì? Trong những ngày thu đã xa Hà Nội "mát trong" vẫn "mát trong" vẫn đẹp và thơ mộng. Nhưng đó là cái đẹp buồn. Phố xá vắng vẻ, xao xác, sân thềm đầy nắng, đầy lá vàng rơi. Gió heo may mang theo khí lạnh đầu mùa thổi dài theo những dãy phố cổ vắng người. Có một cái gì buồn, thật trang trọng trong thời khắc chuyển mùa, thời khắc chia xa.
Mùa thu nay vẫn "mát trong" như "sáng năm xưa" ấy nhưng cũng "đã khác rồi". Khác rồi bởi cái "Người ra đi đầu không ngoảnh lại" của "những ngày thu đã xa", giờ đây đã "đứng giữa núi đồi", đúng từ một tầm cao của chiến khu kháng chiến Việt Bắc để mà "nhớ' mà "nghe". Lòng người đã đổi nên ngọn gió cũng đổi, âm thanh cũng đổi, sắc hương cũng đổi:
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Đó là cơn gió thổi, sắc áo mới, tiếng nói cười giữa một cuộc hồi sinh. Có một thay đổi nhỏ trong cách xưng hô ở trên là "tôi nhớ", "tôi đứng vui nghe". Đến đoạn thơ tiếp theo, đất trời mùa thu lại vang vọng tiếng "nói cười thiết tha" của "chúng ta".
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Nước chúng ta...
Mấy chữ "của chúng ta", "chúng ta" ấy vang lên thật rắn rỏi, kiêu hãnh tin yêu, "chúng ta" tự hào về "nước chúng ta" có chủ quyền, tự hào vì "nước chúng ta" giàu đẹp rộng lớn.
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa...
Tự hào vì truyền thống "không bao giờ khuất" của cha ông mình:
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Ở trên, ta nghe một "tiếng nói cười thiết tha" vọng lên đâu đó giữa tầng trời "trong biếc", ơ đây trong những dòng khép lại phần thứ nhất bài thơ, ta lại nghe tiếng nói thiêng vọng lên từ lòng đất thiêng mà nhà thơ gọi là "tiếng đất". Như vậy, cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong phần thứ nhất của bài thơ là niềm vui của người làm chủ.
Đó là niềm vui, là nỗi nhớ vừa sâu lắng vừa náo nức trong lòng, một thứ nỗi niềm vọng trong tâm thức thành một thứ tiếng nói riêng, "tiếng thu" riêng, nghe mênh mang sâu thẳm: sâu thẳm giữa bầu trời, sâu thẳm trong lòng đất và sâu thẳm giữa hồn người đi kháng chiến.
Như trên đã nói, Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác từ năm 1948 đến 1955 mới hoàn thành. Phần thứ nhất được hoàn thành năm 1948 ("Sáng mát trong như sáng năm xưa"), ("Đêm mít tinh") phần thứ hai, được viết tiếp từ 1949 đến 1955.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ đặc sắc về đề tài này. Đặc sắc nhất là ở cảm hứng rất riêng về đất nước của ông: Một đất nước gắn liền với mùa thu, gắn liền với niềm vui nỗi nhớ của con người làm chủ, một đất nước thật đẹp ngay trong cảnh gian khổ đau thương. Chính nhà thơ đã từng viết:
Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần
(Nhớ)
Có lẽ vì vậy mà giữa bao nhiêu bài thơ hay về đất nước của bao nhiêu nhà thơ, người đọc vẫn không thể quên được những câu thơ tuyệt tác của ông về phố Hà Nội, về "Những cánh đồng quê chảy máu - Dây thép gai đâm nát trời chiều" và về "Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy sáng lòa".
Mẫu 10
Đất nước là đề tài lớn, xuyên suốt trong lịch sử văn học, nhưng ở mỗi thời kì văn học, đề tài này được các nhà thơ khai thác ở những góc độ khác nhau. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất hiện rất nhiễu bài thơ tập trung khắc họa hình ảnh đất nước đau thương nhưng anh hùng quật khởi, nổi bật nhất là Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ là cả một chặng đường nhận thức về đất nước của tác giả.
Từ ba bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít linh (1949), và Đất (1965), Nguyễn Đình Thi đã tập hợp lại thành Đất nước. Qua những cảm nhận tinh tế về mùa thu đất nước, qua hình tượng Tổ quốc đau thương mà anh hùng, bài thơ thể hiện sâu sắc ý thức độc lập tự chủ, tình cảm yêu nước, căm thù giặc và niềm tự hào về sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ là sự tập hợp, ghép nối từ nhiều bài thơ nhưng không hề mất đi tính thống nhất chỉnh thể, trái lại đã phát triển theo một mạch cảm xúc tinh tế và khá nhất quán về tư tưởng. Bài thơ mở đầu với dòng cảm xúc về mùa thu đất nước, nhưng là trong những thời điểm và không gian khác nhau:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương, cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Trong một sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, nhà thơ bỗng có cảm giác cái mát mẻ, trong sáng của sớm mùa thu ấy giống như “sáng năm xưa” khi nhà thơ ra đi, hơn nữa trong gió thu nhẹ thổi còn thoảng bay hương cốm mới, gợi nhớ tới một mùi hương rất đặc trưng của Hà Nội vào thu. gần với cuộc sống sinh hoạt của người dân Thủ đô. Nhịp thơ như chậm rãi, nhẹ nhàng, dòng hồi tưởng của nhà thơ trong không khí ấy dào dạt tuôn chảy:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Đó là “những ngày thu đã xa” – những ngày thu trước Cách mạng, nhà thơ phải tạm biệt Thủ đô để lên đường. Cũng là viết về cảnh thu nhưng có bao nhiêu mơ hồ, mặc cảm trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến; bao nhiêu lãng mạn trong thơ Xuân Diệu, bao nhiêu cái ngơ ngác của con nai vàng đạp trên lá khô trong thơ Lưu Trọng Lư.
Trong thơ Nguyễn Đình Thi, cảnh thu Hà Nội chỉ hiện ra trong hồi tưởng nhưng thật đẹp, tuy nhiên vẫn có cái tĩnh lặng và buồn man mác. Đó là cảnh thu đất nước trong những năm đau thương: Sương chớm lạnh trong lòng Hà Nội. Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời tiết thu được nói đến “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” – đó là thời tiết chính thu. Thơ Nguyễn Đình Thi cũng nói về mùa thu nhưng là độ đầu thu.
Hai chữ “chớm lạnh” thật gợi cảm: chút se lạnh trong mùa thu tuy mới đến nhưng không phải là “những hiện tượng da thịt bên ngoài” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) mà đã thấm thía tận “trong lòng Hà Nội”. Nghĩa là tất cả không gian, cỏ cây, hoa lá, con người, phố phường đã cảm nhận sâu sắc được cái lạnh của mùa thu. Cái “chớm” ấy không ngọt ngào như cái rét đầu mùa. nhưng không phải là cái mát mẻ trong mùa hè mà đã là sự pha trộn trong cả hai mùa.
Có lẽ chỉ mùa thu, khí thu Hà Nội mới mang lại cho con người cái cảm giác về thời tiết như vậy. Hà Nội vào thu, gió thổi trên những dãy phố dài cổ kính lại rất nhẹ, chưa phải gió “heo may” mà mới chỉ dừng lại ở độ “hơi may”. Nghĩa là cũng mới chỉ ở độ “chớm” mà thôi.
Dường như tất cả mới chỉ đang ở độ bắt đầu, hết sức nhẹ nhàng nhưng đã làm cho người đọc cảm nhận được sự thay đổi, sự mới bắt đầu ở ranh giới ấy. Nhà thơ đã nhận ra, người Hà Nội đã nhận ra được “hơi thở dịu dàng” ấy của mùa thu. Lẽ tất nhiên, con người ra đi trong hoàn cảnh ấy, dù có mục đích gì chăng nữa tuy bê ngoài có tạo ra dáng vẻ mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát “đầu không ngoảnh lại” nhưng từ trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tràn đầy lưu luyến, nhớ thương, vẫn nhận ra rất rõ những gì của Hà Nội ở phía sau: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy .
Câu thơ có cả chất nhạc, có cả chất họa trong cái rơi đầy của nắng, lá. Phải chăng đó là điều đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội? Màu vàng của nắng quyện vào màu vàng của lá tạo nên một khung cảnh tràn đầy sắc vàng, xua đi cái “chớm lạnh” của “hơi may”. Khung cảnh ấy làm nền cho tâm trạng ấy mới thật hợp. Dường như không gian và thời gian đã có sự biến đổi, cái lắng lại dịu dàng của màu tím Hà Nội rất phù hợp với tiếng lòng thi sĩ, phù hợp với tâm trạng người ra đi.
Đất nước gây ấn tượng sâu sắc bởi chất chứa tình kết hợp với chất chính luận, bởi hình thức câu thơ linh hoạt, nhịp thơ phóng khoáng, hình ảnh thơ đẹp đẽ, chọn lọc, ngôn ngữ thơ cô đọng mà gợi cảm. Những ấn tượng sâu sắc, rõ nét hơn cả là bài thơ đã tạo dựng thành công một tượng đài hùng vĩ bằng thơ về Đất nước, Tổ quốc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì gian khổ nhưng anh dũng và tất thắng.
Lời giải
Dàn ý
I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả La Quán Trung và tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa
- Giới thiệu khái quát về đoạn trích Hồi trống cổ thành
II. Thân bài:
1. Trương Phi và những hiểu lầm đối với Quan Công
a. Phản ứng của Trương Phi khi nghe xong lời của Tôn Càn:
- Chẳng nói chẳng rằng lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa.
- Dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa Bắc.
⇒ Hành động bột phát, trong tâm thế chiến đấu với kẻ thù.
b. Khi Trương Phi gặp Quan Công:
- Trương phi:
- Diện mạo: mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược.
- Hành động: hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công.
- Xưng hô: mày – tao.
- Lập luận buộc tội Quan Công.
- Nguyên nhân: Trương Phi hiểu lầm Quan Công đã phản bội lại mình.
⇒ Trương phi là người ngay thẳng, cứng cỏi, không dung thứ cho kẻ hai lòng.
- Quan Công:
- Gọi Trương Phi là “hiền đệ”, “em”.
- Lời lẽ mềm mỏng.
- Nhờ hai chị dâu giải thích hộ.
2. Sự xuất hiện của Sái Dương, giải hiềm nghi và hai anh em đoàn tụ
- Ý nghĩa việc xuất hiện của Sái Dương:
- Đẩy mâu thuẫn của hai anh em lên đến cao trào.
- Là mở nút để minh oan cho Quan Công.
- Trương Phi khi thấy Sái Dương xuất hiện:
- Suy nghĩ: Nghĩ Quan Công đem quân đến bắt mình.
- Hành động: Múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công.
- Yêu cầu: Đánh ba hồi trống để Quan Công chém chết tướng giặc thể hiện lòng thành, thẳng tay đánh trống để thách thức Quan Công.
⇒ Thái độ dứt khoát, kiên quyết của con người ngay thẳng.
⇒ Quan Công chấp nhận thử thách.
- Quan Công giết Sái Dương khi chưa hết một hồi trống:
+ Thái độ, hành động của Trương Phi: rỏ nước mắt, thụp lạy Quan Công.
⇒ Thái độ bao dung, phục thiện đúng lúc.
⇒ Trương Phi là con người giàu tình cảm, nóng nảy, thô lỗ nhưng khôn ngoan và biết trọng lẽ phải.
3. Ý nghĩa của hồi trống cổ thành
- Hồi trống thách thức, minh oan, đoàn tụ của các anh hùng.
- Biểu dương tính cương trực của Trương Phi.
- Ca ngợi lòng trung nghĩa của Quan Công.
III. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 1
Là tác phẩm tiểu thuyết viết theo lối chương hồi, "Tam quốc diễn nghĩa" - một tác phẩm văn học viết về đề tài lịch sử, xã hội Trung Quốc thời kì cát cứ phân tranh, chiến tranh liên miên, người dân trải qua nhiều đau khổ, mọi diễn biến của thời kì biến loạn đó được tác giả La Quán Trung tái hiện lại rõ nét qua tác phẩm giàu giá trị hiện thực. "Hồi trống cổ thành" là một trích đoạn tiêu biểu của tác phẩm "Tam quốc diễn nghĩa", đoạn trích tái hiện lại rõ nét chân dung của những con người nhân nghĩa Trương Phi, Vân Trường, đó chính là những con người đại diện cho lòng "trung", cho chữ "nghĩa" trong quan hệ vua tôi, huynh đệ.
Nếu trong nền văn học Việt Nam có tác phẩm chương hồi giàu giá trị lịch sử, giá trị thời đại là "Hoàng Lê nhất thống chí" của các tác giả Ngô Gia Văn Phái thì ở một nền văn học lớn như Trung Hoa cũng không thiếu những tác phẩm lớn của các tác giả tài ba, trong số các tác phẩm lịch sử đó, nổi bật lên hẳng chính là tác phẩm "Tam Quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung, cả một giai đoạn dài nhiều thăng trầm, với sự đổi thay của biết bao nhiêu thời đại đều được tái giả khắc họa lại trong tác phẩm của mình. Trở lại với trích đoạn "Hồi trống cổ thành", như đã nói, tác phẩm này đề cập đến lòng chung nghĩa, tình cảm huynh đệ giữa hai nhân vật chính là Trương Phi và Quan Vân Trường, và đặc biệt, tình cảm ấy còn được đặt trong một tình huống éo le, gây cho các nhân vật nhiều sự đấu tranh, giằng xé để có được quyết định cuối cùng giữa chữ trung và chữ nghĩa.
Theo dõi "Tam quốc diễn nghĩa" nói chung, trích đoạn "Hồi trống cổ thành" nói riêng ta có thể thấy cả Quan Vân Trường và Trương Phi đều là những vị tướng tài giỏi, những người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất. Là những con người tiêu biểu đại diện cho chữ "dũng". Nói qua như vậy để ta hiểu hơn về tính cách, con người của những nhân vật này, họ là những người thà chết chứ không chịu nhục, thà mất đi mạng sống chứ không chịu phản bội lại chủ. Nhưng ở đây, để thửu thách tấm lòng trung nghĩa của hai nhân vật này, tác giả La Quán Trung đã đặt họ vào một tình huống ngặt nghèo, mà ở đó những phẩm chất, con người thật của mỗi người được bộc lộ một cách rõ nét.
Ba anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi ẩn náu dưới trướng của Tào Tháo, biết được Tào Tháo là một con người gian hùng nên họ đã tìm cách bỏ đi. Trên đường trốn chạy, tránh sự truy sát của Tào Tháo thì ba huynh đệ đã mỗi người một ngả. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mọi hiểu lầm sau này của hai huynh đệ Quan Công và Trương Phi. Vì phải dẫn theo hai chị dâu, vốn là hai bà vợ của Lưu Bị nên Quan Công không thể rút chạy an toàn mà bị Tào Tháo vây bắt. Vì biết Quan Công là một người tài hiếm có nên Tào Tháo không những không giết mà còn tìm mọi cách để Quan Công quy phục mình.
Nếu có một mình, thì dù phải hi sinh tính mạng thì Quan Công cũng không chịu hang Tào Tháo, nhưng vì đảm bảo sự an nguy cho hai người chị dâu, cực chẳng đã Quan Công đã phải tạm hang Tào Tháo, dù là tạm hang nhưng Quan Công cũng khẳng định mạnh mẽ, tuyên bố rõ rang việc mình hang ở đây không phải hang Tào Tháo mà là hang vua Hán, vì lúc này vua Hán đang bị Tào Tháo không chế. Quan Công đợi thời cơ, một khi có tin tức của anh mình, tức Lưu Bị thì sẽ lập tức đi ngay. Ta có thể thấy, Quan Công là một con người ngay thẳng, tuyệt đối trung thành với Lưu Bị, vì dù được Tào Tháo tìm mọi cách lấy lòng, "ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn, lại ban thưởng chức tước, vàng bạc, mĩ nữ…" nhưng Quan Công cũng không hề đái hoài, không bị tác động dù chỉ một chút "Thân tại Tào doanh, tâm tại Hán".
Nhân vật Quan Công còn hiện lên là một vị tướng kiêu hùng, dũng mãnh hơn người, vì khi đã nghe ngóng tin tức, xác định được vị trí của huynh đệ thì Quan Công lập tức lên đường, khi ấy các tướng dưới trướng của Tào Tháo ngăn cản thì Quan Công đã vung đao chém luôn sáu tướng, vượt được năm cửa quan để đến Cổ Thành gặp người huynh đệ Trương Phi. Hành động oai dũng ấy tuy đươc miêu tả qua một vài chi tiết ngắn gọn, nhưng ta cũng phải thấy được mức độ hiểm nguy, khó khăn của tình huống này, bởi Quan Công chỉ có một thân một mình, lại phải bảo vệ cho sự an nguy của các chị dâu thì việc chiến thắng tướng của Tào Tháo và qua các cửa quan là một việc hết sức phi thường.
Khi đến được Cổ Thành, Quan Công đã rất vui mừng khi sắp tới sẽ gặp được người em thân thiết Trương Phi, bởi Trương Phi không những trốn chạy thành công mà còn chiếm thành công Cổ Thành, nhưng niềm vui đoàn tụ ấy chưa kịp xảy ra thì một tình huống bất ngờ mà Quan Công không thể lường trước đã xảy ra, Trương Phi không những không chào đón mình bằng cái ôm nồng nhiệt của huynh đệ mà tiếp đón bằng đao, vẻ mặt hung dữ như thể nghênh chiến kẻ thù "Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công". Vì không thể lường trước được tình huống này sẽ xảy ra nên Quan Công rất bất ngờ, vội tránh mũi mâu "Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa đào ru?"
Quan Công đã nhắc lại tình nghĩa huynh đệ với Trương Phi và hoài nghi về sự manh động của Trương Phi, ta có thể nhận thấy Quan Công là một con người điềm tĩnh, luôn bình tĩnh giải quyết mọi thứ, dù trong tình cảnh khó khăn, ngặt nghèo nhất. Dù Trương Phi một mực khẳng định Quan Công là kẻ phản bội thì sự điềm đạm trong khí chất đã giữ cho Quan Công sự bình tĩnh trước mọi việc mà rành rọi giải thích đầu đuôi mọi sự hiểu lầm. Và khi Trương Phi vẫn nhất quyết không chịu tin và muốn Quan Công chứng tỏ sự trong sạch bằng cách lấy đầu của tướng giặc qua ba hồi trống, dù khó khăn nhưng vì phẩm tiết ản thân, vì tình huynh đệ thì Quan Công vẫn chấp nhận. Và cuối cùng, sau khi chém chết tướng giặc thì Quan Công đã làm tỏ rạng mối hàm oan của Trương Phi đối với mình, tình huynh đệ gắn kết trở lại.
Nếu Quan Công là một con người điềm tĩnh, biết suy xét, nhận biết tình hình thì Trương Phi lại ngược lại, tuy là một người tướng giỏi nhưng Trương Phi tính tình lại nóng nảy, không nghe những lời giải thích, dù có lí, thuyết phục đến đâu. Vì vậy mà chỉ khi Quan Công giết chết được tên tướng giặc thì Trương Phi mới chấp nhận sự trong sạch của Quan Công, dù trước đó Quan Công có giải thích đến đâu, dù người chị dâu có làm chứng thì Trương Phi cũng một mực không nghe. Tuy nhiên, sự cố chấp này của Trương Phi cũng xuất phát từ chính tấm lòng trung thành với Lưu Bị, vì quá trọng chữ "trung" nên không cho phép sự phản bội, hai lòng làm hoen ố, ảnh hưởng. Ta cũng không thể phủ nhận được sự dũng mãnh, tài ba hơn người của Trương Phi, vì chỉ có dưới trướng khoảng hơn trăm người nhưng Trương Phi đã đoạt được Cổ Thành về tay và làm chủ nơi đây.
Đây không hề là việc đơn giản nếu như không muốn nói đây là một hành động quá sức phi thường. Là người trọng sự trung thành nên dù tình cảm huynh đệ có gắn bó nhưng một khi đã phản bội thì Trương Phi cũng kiên quyết chống lại đến cùng. Hành động ấy, suy nghĩ ấy rất đúng nếu như Quan Công là con người hai mặt thực sự. Nhưng ở đây sự thật không như những phán đoán mơ hồ của Trương Phi nên sự nông nổi, cứng nhắc của anh ta khiến cho hành động nhân vật này trở nên mù quáng. Tuy nhiên, Trương phi cũng là người biết hối lối khi nhận ra những sai lầm của mình, khi iết Quan Công không hề phản bội thì Trương Phi đã tạ lỗi, khóc lóc, quỳ lạy Quan Công để hối lỗi "..nhỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường…"
Như vậy, đoạn trích "Hồi trống cổ thành" đã khắc họa thành công và chân thực hình ảnh của hai người anh hùng trong Tam Quốc chí, là Trương Phi và Quan Công. Tuy có những đối lập về tính cách, một người điềm tĩnh, một người nóng nảy, bộc trực nhưng cả hai đều có điểm chung đó chính là một lòng chung thành, coi trọng tình nghĩa huynh đệ, đều là những tướng lĩnh tài giỏi, dũng mãnh. Và hơn hết, cả hai người anh hùng này đều là đại diện cho chữ "dũng", là những nhân tố tạo nên sức mạnh cho Lưu Bị.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 2
“Tam quốc diễn nghĩa” được coi là một trong bốn tác phẩm cổ điển nổi tiếng nhất Trung Quốc. Tác phẩm gây ấn tượng với người đọc bởi “tuyệt nhân” – Lưu Bị, “tuyệt trí” – Khổng Minh, “tuyệt gian” – Tào Tháo. Trích đoạn “Hồi trống Cổ Thành” đặc biệt làm nổi bật vẻ đẹp và phẩm chất tuyệt nghĩa của Trương Phi, đồng thời qua đó, ta cũng thấy ý nghĩa của vấn đề “trung thành hay phản bội” được đặt ra trong đoạn trích.
Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nằm giữa hồi thứ 28 của bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, kể về việc Trương Phi gặp lại Quan Công sau bao ngày xa cách nhưng với thái độ tức giận, đòi đâm Vân Trường. Dù Quan Công ra sức giải thích, mọi người can ngăn, Trương Phi lại càng tức giận. Thậm chí, khi quân mã của Tào Tháo đến, lửa giận lại càng bừng lên dữ dội. Chỉ đến khi Quan Công lấy đầu Sái Dương – tướng của Tào Tháo sau một hồi trống thì Trương Phi mới nguôi giận. Khi nghe tên lính kể chuyện thực hư, Trương Phi mới tin, khóc lóc thụp lạy Vân Trường.
Trước tiên, đoạn trích khắc họa cảnh gặp mặt và mâu thuẫn giữa Trương Phi và Quan Công. Lúc này, vẻ đẹp của hai nhân vật thể hiện qua việc nghe tin báo. Quan Công khi nghe tin em thì mừng rỡ vô cùng, nôn nóng muốn gặp mặt và tin tưởng Trương Phi sẽ mừng rỡ đón mình. Qua đó, nhân vật toát lên vẻ đẹp là một người giàu lòng trung nghĩa, giàu tình nghĩa và biết nghĩ cho mọi người. Trái với Quan Công, Trương Phi nghe tin Quan Công đến bèn “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác xà mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân” chạy lại đâm Quan Công. Hành động dứt khoát, quyết liệt ấy khẳng định vẻ đẹp cương trực, khảng khái, trắng đen rõ ràng của Trương Phi.
Vẻ đẹp của hai nhân vật còn toát lên khi cả hai gặp mặt. Quan Công khi mới gặp Trương Phi vội tránh mũi mâu, nhắc lại tình nghĩa vườn đào và ra sức thanh minh cho bản thân mình: “Chuyện này em cũng không biết, ta cũng khó nói. May có hai chị ở đây, em đến mà hỏi”. Lời nói dứt khoát cùng hành động từ tốn, điềm đạm ấy chứng minh Quan Công là một người kiên nhẫn, nhẹ nhàng dù rơi vào tình huống khó xử. Trái lại, Trương Phi khi vừa gặp Quan Công bèn quát mắng, nổi giận đùng đùng cho Quan Công là kẻ bội nghĩa, thậm chí không nghe những lời khuyên can của mọi người, lời thanh minh của Quan Công. Qua đó, vẻ nóng nảy, cương trực của con người tuyệt nghĩa đã được đề cao.
Chi tiết Hồi trống hóa giải mâu thuẫn của cả hai càng tô đậm vẻ đẹp của hai nhân vật. Khi nhìn thấy quân mã của Tào Tháo kéo đến, Quan Công đưa ra gợi ý chém tên tướng Sái Dương để tỏ lòng. Dường như tấm lòng trung nghĩa, trước sau như một ấy nhất quát với tính cách điềm đạm của Quan Công. Trương Phi đưa ra lời thách đố khi đánh ba hồi trống, Quan Công phải chém đầu tên tướng giặc. Trong khi Trương Phi đánh trống, Quan Công múa đao xô lại, hành động dứt khoát chém đầu Sái Dương.
Có thể nói, chi tiết hồi trống Cổ Thành đã giải quyết mâu thuẫn một cách chóng vánh, đồng thời khắc sâu và làm nổi bật tấm lòng trung nghĩa của Quan Công, vẻ thẳng thắn mạnh mẽ của Trương Phi. Hồi trống cũng đem lại không khí chiến trận đặc trưng, mọi mâu thuẫn đều được giải quyết bằng đường gươm, mũi giáo trong không khí thúc giục, binh mã ngập trời. Chi tiết này cũng thể hiện thủ pháp phóng đại, cường điệu đặc trưng trong tiểu thuyết chương hồi. Có thể nói, qua đoạn trích “Hồi trống Cổ Thành”, vẻ đẹp trung nghĩa của Quan Công và vẻ thẳng thắn của Trương Phi được tái hiện một cách chân thực.
Tình anh em với quan niệm tín nghĩa, chân thành cùng lối ứng xử của người quân tử được gửi gắm qua tác phẩm là bài học không bao giờ cũ dành cho mỗi chúng ta.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 3
La Quán Trung là người đầu tiên đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử thời Minh - Thanh ở Trung Quốc, ông chuyên sưu tầm và biên soạn dã sử như Tam quốc diễn nghĩa, Bình yêu truyện, Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa… trong đó tam quốc diễn nghĩa có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam, nó phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa mà đường nét nổi bật là “cát cứ phân tranh”, cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh liên miên, nhân dân đói khổ, điêu linh. Trong một thời kì như vậy , nhân dân mong muốn hòa bình, ổn định, thống nhất. Đoạn trích “Hồi trống cổ thành” thuộc hồi 28 nói lên việc tranh quyền của ba tập đoàn phong kiến quân phiệt: Ngụy – Thục –Ngô và ý nghĩa sâu xa của hồi trống cổ thành.
Hồi trống cổ thành có bố cục khá chặt chẽ gồm sáu phần gồm trình bày, mở mối, phát triển, đỉnh điểm, mở nút và kết thúc.
Mở đầu đoạn trích “từ đầu… bảo Trương Phi ra đón hai chị”. Quan Công vì phải hộ tống hai chị dâu nên tạm hàng Tào với điều kiện chỉ hàng Hán chứ không hàng Tào. Khi nghe tin Lưu Bị đang ở bên Viên Thiệu lập tức trả hết ấn tín, vàng bạc châu báu, lên ngựa đi tìm anh. Trên đường đi nghe ngóng được tin Trương Phi đang nắm giữ Cổ Thành, quân đội hùng mạnh, lương thực rồi rào, Quan Công được tin hay vui mừng khôn xiết, không ngờ anh em thất lạc nay lại tìm thấy nhau ở đây, sai người đi báo tin cho Trương Phi để anh em đoàn tụ và đón hai chị về.
Trương Phi là người nóng nảy, thẳng thắn như tên bắn, mạnh mẽ, nói chuyện với kẻ thù bằng gươm giáo, trắng đen phải rõ ràng, không chấp nhận sự quanh co, lắt léo phức tạp. Vì vậy mà sau khi Tôn Càn vào chào hỏi, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp vác vâu lên ngựa dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa Bắc. Hành động vô cùng giận dữ “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công” vì Phi tưởng Quan Công phản bội, đầu hàng Tào Tháo cầu vinh. Lời nói hầm hầm “Mày đã bội nghĩa, còn mặt nào đến gặp tao nữa?” Phi rất tức giận và lòng hận thù dâng ngùn ngụt như lửa. Quan Công vui mừng vô cùng cứ tưởng đoàn tụ vui vẻ ai ngờ mọi chuyện lại như thế. Quan bình tĩnh hỏi lại Trương Phi, Phi càng bốc hỏa lên mà quát rằng “Mày bỏ anh em, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước, nay lại đến đây đánh lừa tao!” và quyết liều sống chết phải giết được Quan Công cho hả giận.
Quan Công không thể giải thích được, bèn nhờ hai chị dâu, nhưng Phi bỏ ngoài tai mọi lời can gián. Hai chị dâu kể lại việc Quan Công nương nhờ bên Tào là bất đắc dĩ, đã không ngại hiểm trở, đưa hai chị tới đây bình an, khuyên Phi không được nghĩ lầm như thế , Trương Phi phớt lờ và nêu ra đạo lí với hai chị “Hai chị bị lừa dối đấy”, bề tôi trung có chết cũng không chịu nhục, người đàn ông tài năng lại thờ hai chủ. Quan Công đau lòng thanh minh với đệ của mình, nhưng chỉ chút thêm dầu vào lửa. Tôn Càn thấy vậy cũng can ngăn Trương Phi, bị Trương Phi mắng mỏ : “mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây tất là để bắt ta đó.” Qua đó càng nổi bật lên con người nóng nảy nhưng rất cương trực, trung nghĩa và vô cùng cẩn thận cảnh giác. Quan Công bình tĩnh thuyết phục Trương Phi, nhưng Trương Phi phát hiện ra quân lính phía xa đã hăm hở xông lại đâm Quan Công. Lúc này Phi đang rất tức giận, không gì có thể ngăn cản được, Quan Công cảm nhận được sự tức giận của hiền đệ nên đã nói là chém đầu tên tướng giặc cho Trương Phi. Phi ra điều kiện là đánh xong ba hồi trống phải chặt được đầu giặc không thì mạng khó giữ, Trương Phi thẳng tay đánh trống. Trong con người Trương Phi toát ra sự thẳng thắn, quyết liệt, mạnh mẽ, dứt khoát, muốn biết rõ trắng đen như thế nào. Chưa hết một hồi trống thì đầu Sái Dương đã rơi dưới đất. Trương Phi lúc này chưa tin, bắt tên lính hỏi cho thật kỹ rồi mới tin vô cùng thận trọng và khôn ngoan. Vào thành nghe hai chị kể lại chuyện Quan Công, Trương Phi khóc, quỳ lạy anh mình mong anh mình bỏ qua mọi chuyện. Con người Trương Phi tuy nóng nảy, thô lỗ nhưng cương trực, trung nghĩa, thẳng thắn, đó là một phẩm chất tốt đẹp. Quan Công tuy là vai phụ nhưng đã hiện ra người hùng dũng, giàu nghĩa khí, tấm lòng son sắt. Nỗi oan của Quan Công là nỗi oan đặc biệt, ông làm vì chủ tướng nhưng công việc ấy trái với khí phách của kẻ anh hùng, phải tự minh oan bằng tài nghệ và sự dũng cảm của chính mình.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 4
Trong dòng lịch sử Trung Quốc có bốn tác phẩm lớn đã làm nên tứ đại danh tác của dòng văn học Trung Hoa bao gồm Tây Du kí, Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử và Tam Quốc Diễn Nghĩa. Trong số đó, Tam Quốc Diễn Nghĩa là tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến văn hóa và quân sự của Việt Nam ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới.
Tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa ra đời vào đầu thời Minh, ra đời trong âm hưởng của cuộc chiến đấu chống lại sự thống trị xưng bá của Mông Nguyên để khôi phục nhà Hán. Tác phẩm được sáng tác dựa một phần vào lịch sử và những truyện kịch dân gian.
Tam Quốc Diễn Nghĩa là một tiểu thuyết chương hồi bao gồm một trăm hai mươi hồi, kể lại quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của ba triều đại phong kiến Trung Hoa là Ngụy, Thục, Ngô đồng thời thể hiện khát vọng hòa bình của nhân dân.
Cuốn tiểu thuyết của tác giả La Quán Trung về tư tưởng đã vạch trần được bản chất tàn bạo, xấu xa, giả dối của giai cấp thống trị xã hội, phơi bày cục diện chính trị của Trung Hoa thời kỳ "cát cứ phân tranh" khi mà chiến tranh liên miên, người dân loạn lạc. Nó còn phơi bày cuộc sống đầy bất trắc, bi thảm, loạn li của người dân trong xã hội đó đồng thời thể hiện ước mơ về một đất nước yên bình, thịnh trị với vua hiền, tướng giỏi của nhân dân. Đó là khát vọng hòa bình, thống nhất, một nền hòa bình nhân đạo mà tác giả La Quán Trung cũng như muôn dân muốn gửi gắm.
Về phần nghệ thuật, Tam Quốc Diễn Nghĩa mang giá trị không chỉ về lịch sử mà còn về mảng quân sự. Cùng với đó là nghệ thuật kể chuyện vô cùng hấp dẫn, lôi cuốn của tác giả khiến người đọc say mê từ chương này qua hồi khác, đặc biệt phải kể tới phần miêu tả các trận đánh cực kì sinh động. Cuốn tiểu thuyết với lượng nhân vật đồ sộ và mỗi nhân vật chính đều có nét cá tính riêng biệt, sinh động. Tác giả cũng đặt ra những mâu thuẫn gay gắt trong từng chương hồi, dùng chính mâu thuẫn để giải quyết từng mâu thuẫn.
Đoạn trích Hồi trống Cổ thành là nửa sau hồi thứ hai mươi tám của tác phẩm khi mà Quan Công đưa hai người chị dâu của mình sang Nhữ Nam, đến Cổ thành thì gặp Trương Phi. Việc Quan Công hàng Tào Tháo để bảo vệ hai người chị đã bị người em hiểu nhầm là sự bội nghĩa, một hai đòi giết chết Quan Công mà không chịu nghe ai khuyên can. Để chứng minh lòng trung trong sạch của mình, Quan Công đã ngỏ ý chém đầu Sái Dương (tên tướng của Tào Tháo) trong ba hồi trống của Trương Phi. Chưa dứt hồi đầu, đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Đến lúc đó, Trương Phi mới cởi bỏ được mối nghi ngờ với Quan Công, nghe kể lại sự việc, nhỏ nước mắt mà thụp lạy Quan Công.
Hồi trống Cổ thành là linh hồn của hồi thứ hai mươi tám, là hồi trống của sự đoàn tụ, minh oan, của sự trung thành. Nó còn biểu dương sự trung thành trung nghĩa của hai người anh hùng Quan Công và Trương Phi.
Đoạn trích mở ra bằng cảnh gặp gỡ của hai anh em Quan Công và Trương Phi. Muốn đến được Nhữ Nam đoàn tụ với Lưu Bị, Quan Công buộc phải đưa hai người chị của mình qua Cổ thành, đến đây thì bất chợt nghe tin Trương Phi đang có mặt tại đây. Vui mừng khôn xiết, Quan Công cho mời Trương Phi ra trước cổng thành. Thế nhưng, nhận lại chỉ là sự đối mặt giữa hai người và một ngàn binh lính phía sau Trương Phi. Nguyên cớ bởi vì Trương Phi cho rằng Quan Công đã hàng Tào Tháo mà phản bội ơn nghĩa vườn đào của ba anh em. Là một người có tính cách nóng nảy, bộc trực, thẳng tính, dứt khoát và cương trực, Trương Phi vừa hay tin đã nổi giận đùng đùng. Trái lại Quan Công lại là một người biết từ tốn, khoan dung và cẩn trọng, tuy thế cả hai đều là những người anh hùng trung nghĩa.
Ở đây, tác giả đã xây dựng lên cuộc đối mặt vô cùng kịch tính với hai nhân vật có nét tính cách trái ngược hoàn toàn nhau. Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật ở đây vô cùng xuất sắc, qua đó mà La Quán Trung đã bộc lộ được cá tính cũng như làm rõ thêm những mâu thuẫn trong câu chuyện.
Đầu tiên phải kể tới là nhân vật Trương Phi. Ấn tượng đầu tiên đến với người đọc là một Trương Phi cực kì nóng nảy, uất hận, dứt khoát. Khi nghe tin người anh của mình đã hàng Tào, một hai đòi giết chết cho hả giận. Thế nhưng cũng là Trương Phi ấy khi nghe được đầu đuôi câu chuyện đã nhỏ lệ mà thụp xuống lạy Quan Công, một con người vô cùng giàu tình cảm.
La Quán Trung không đưa ra những lời nhận xét trực tiếp về từng con người trong câu chuyện mà ông lại dùng những cử chỉ, những nét tính cách riêng biệt, những hành động và đặt vào trong mối quan hệ với nhân vật khác để nhân vật chính tự bộc lộ nét tính cách của mình. Với Trương Phi, ông để nhân vật đưa ra hành động vô cùng quyết liệt "Trương Phi mắt tròn xoe, râu vểnh ngược, hò thét như sấm. múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công", cùng với đó là những lời nói vô cùng tức giận: "hầm hầm quát;" Mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa?". Hành động và ngôn từ của Trương Phi hết sức bộc trực, nóng nảy, biểu lộ cho một cá tính cực kì nóng nảy, dứt khoát và cương trực của bậc đại trượng phu.
Trong mối quan hệ với các nhân vật khác, mặc dù được Tôn Càn cùng hai người chị dâu ra sức thanh minh cho Quan Công, nhưng Trương Phi không hề thay đổi ý định của mình. Qua đó có thể thấy, hành động đối đầu của Trương Phi khi gặp Quan Công ở Cổ thành là một hành động đã được suy nghĩ cẩn trọng, không phải là hành động bộc phát trong lúc nóng giận. Bởi xưa nay, lời thề trung nghĩa của những bậc trượng phu vô cùng thiêng liêng, nếu vi phạm thì chỉ có cái chết mới có thể bù đắp nổi.
La Quán Trung đã đặt Trương Phi vào một tình huống vô cùng kịch tính nhằm bộc lộ tính cách của nhân vật, đồng thời sử dụng phương pháp miêu tả trái ngược, một Trương Phi tuy nóng nảy, bộc trực nhưng lại cực kì trọng tình cảm, tình nghĩa huynh đệ.
Đối mặt với Trương Phi là Quan Công, tác giả đã đặt nhân vật này vào trong một tình huống hết sức kịch tính khi bị nghi ngờ trở thành kẻ phản bội anh em của mình. Cũng như Trương Phi, Quan Công được tác giả miêu tả thông qua những hành động, cử chỉ của mình. Với bút pháp miêu tả cổ điển, tác giả đã dựng lên điển hình của người trượng phu trượng nghĩa.
Đoạn trích Hồi trống Cổ thành được xây dựng với một kết cấu hoàn chỉnh, có mở đầu, phát triển sự việc, với nút thắt được hình thành và mở nút một cách triệt để. Nếu như mở đầu là hình ảnh Quan Công đến Cổ thành và gọi Trương Phi ra đón thì cách triển khai câu chuyện là khi mâu thuẫn nảy sinh giữa hai anh em. Những xung đột kịch tính diễn ra giữa Quan Công và Trương Phi được mở ra với nguyên do Trương Phi vô cùng tức giận với Quan Công vì cho rằng Quan Công đã bội nghĩa, phản bội huynh đệ đi theo kẻ thù, bất trung bất nghĩa. Thế nhưng Trương Phi đâu biết rằng mọi nước đi của Quan Công đều vì bảo hộ hai người chị dâu yếu đuối nên mới trái lời thề, với khí phách anh hùng của mình.
Xung đột được phát triển liên tục một cách hết sức logic. Trước khi gặp mặt, nếu như Trương Phi vừa nghe tin Quan Công tới đã không nói năng gì mà chỉ “mặc áo giáp, vác mau lên ngựa, dẫn quân ra cửa bắc”, “mặt trợn tròn, râu hùm vểnh ngược, hò hét, múa mâu đòi đâm Quan Công”, một tâm trạng hết sức kích động, cực kì giận dữ tới sục sôi thì Quan Công lại hoàn toàn trái ngược.
Không hề biết rằng người em kết nghĩa đang vô cùng giận dữ với mình, Quan Công khi gặp mặt Trương Phi thì vô cùng mừng rỡ, “giao long đao cho Chiêu Thương cầm, tế ngựa lại đón”. Đến khi thấy người em cầm mâu đâm thẳng về phía mình, Quan Công mới giật mình vừa tránh mũi mâu vừa nhắc hỏi em rằng tại sao làm vậy “hiền đệ cớ làm sao, há quên nghĩa vườn đào ru?”. Thái độ của Quan Công vừa hết sức điềm tĩnh, lại hết sức mềm mỏng, nhượng bộ. Trong khi Trương Phi tức giận xưng hô mày – tao, mắng anh rằng “mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao?”, khẳng định hai người chị dâu bị lừa, Trương Phi cho rằng đã là người trung nghĩa thì phải trung thành, “thà chết chứ không chịu nhục”. Trương Phi - một con người chính trực có cái nhìn rất rõ ràng về chữ trung, chính vì vậy khi Tôn Càn cất lời bênh vực Quan Công thì Trương Phi đã mắng rằng “mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó đến đây dễ bắt ta đó”. Bộc lộ cho người ta thấy một vị tướng quân vô cùng dũng mãnh nhưng cũng vô cùng nóng nảy, cương trực, có phần thô lỗ nữa. Trái lại, Quan Công lại vô cùng điềm tĩnh, nói với Trương Phi bằng những lời lẽ vô cùng nhẹ nhàng, thái độ khuyên bảo, nói câu nào cũng xưng là hiền đệ, hơn thế, Quan Công còn cầu cứu hai người chị dâu, dùng lời của hai người chị mà thanh minh với người em của mình “hiền đệ nói vậy thì oan uổng cho ta quá”, “nếu ta đến bắt em tất phải mang theo quân mã chứ?”. Từng lời nói vô cùng nhẫn nại giải thích, dù rằng Quan Công đang trong tình thế vô cùng ngặt nghèo nhưng vẫn luôn điềm tĩnh, khoan dung mà giải quyết vấn đề.
Thế nhưng, mối mâu thuẫn giữa hai anh em còn chưa sáng tỏ thì nút thắt của câu chuyện lại được tác giả buộc chặt hơn nữa bằng sự kiện Sái Dương đem theo quân mã đến Cổ thành. Chính sự việc này tuy ngẫu nhiên mà lại vô cùng hợp lý đã đẩy mâu thuẫn, mối nghi ngờ của Trương Phi với Quan Công lên tột đỉnh gay gắt, buộc phải giải quyết vấn đề bằng hành động.
Chính trong lúc này, Quan Công đã mở lời với người em kết nghĩa vườn đào rằng “hiền đệ hãy khoan, xem ta chém tên tướng ấy, để tỏ lòng thực của ta”. Một lời nói thốt ra vừa tỏ lòng trung nghĩa, vừa giãi bày nỗi oan khiên của mình. Thế nhưng, Trương Phi lại không dễ dàng để Quan Công thực hiện nhiệm vụ của mình, Trương Phi đã thẳng thắn bắt Quan Công phải chém đầu Sái Dương chỉ trong vòng ba hồi trống. Không những vậy, Trương Phi còn thẳng tay đánh trống, không chút chần chừ, bởi lẽ hắn đã quyết tìm ra sự thật và lẽ phải, cái mong muốn ấy thôi thúc hắn muốn biết được sớm nhất. Giờ đây, nhiệm vụ này không còn là một nhiệm vụ bình thường nữa mà trở nên vô cùng khó khăn, đầy nguy hiểm. Vậy nhưng, Quan Công để chứng minh cho lòng thành của mình đã không ngần ngại nhận lời, và quả đúng là người anh hùng dũng mãnh, hồi trống đầu tiên còn chưa dứt, đầu Sái Dương đã rơi. Quan Vũ quả không hổ danh là một bậc tướng quân đầy oai phong, tài giỏi.
Thử thách qua đi, Trương Phi mới phần nào bình tâm lại, suy nghĩ mọi vấn đề của câu chuyện, hỏi kĩ tên lính cùng hai người chị dâu của mình, lúc bấy giờ, hắn mới thực tin Quan Vũ, “rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường”. Có thể nói, Trương Phi là một người tướng dũng mãnh, nóng nảy, nhưng lại cương trực, hắn biết nhận ra sai lầm, biết sửa sai và phục thiện. Còn Quan Vũ đã chứng tỏ mình là một bậc đại trượng phu không chỉ có tài năng hơn người mà khí phách cũng vô cùng bất khuất.
Hồi trống Cổ thành kết thúc nhưng dư âm trong lòng người đọc chúng ta còn lại vô cùng mạnh mẽ. Hồi trống vang lên trong lòng Cổ thành như tiếng trống của sự thử thách tấm lòng trung kiên, sự minh oan và sự đoàn tụ. Đặt tên là Hồi trống Cổ thành vừa gợi lên không khí trận mạc, gợi lên mâu thuẫn giữa hai người anh em Trương Phi và Quan Công, giữa Quan Công và Sái Dương, đó là những mâu thuẫn vừa gay gắt, vừa là điểm chính, là nút thắt đẩy câu chuyện lên cao trào. Hồi trống ấy gióng lên với điều kiện của Trương Phi, vừa là quan tòa phán xét Quan Vũ, buộc Quan Vũ phải chém đầu Sái Dương trong thời gian nhanh nhất, nó cũng thúc đẩy khát vọng minh oan của Quan Vũ và khiến hắn có thêm sức mạnh để tỏ bày tấm lòng của mình. Cuối cùng, hồi trống đó là không khí hào hùng của chiến trận, thúc giục tinh thần, sĩ khí chiến đấu, vừa ngợi ca khí phách của những người anh hùng, ca ngợi sự chiến thắng, niềm tin vào họ.
Về phần nghệ thuật, La Quán Trung đã vô cùng xuất sắc khi xây dựng lên những hình tượng nhân vật điển hình, mang tính biểu tượng vô cùng lớn. Ông cũng không trực tiếp bộc lộ tính cách nhân vật mà xây dựng nó qua cử chỉ, lời nói, hành động của từng người. Nghệ thuật kể chuyện theo tiểu thuyết chương hồi được tác giả sử dụng triệt để, xây dựng tình huống truyện với những xung đột kịch tính, tạo nên sức hấp dẫn vô cùng lớn cho người đọc.
Đoạn trích Hồi trống Cổ thành đem lại cho người đọc chúng ta thật nhiều cảm xúc. Không chỉ là sự hồi hộp chờ đợi sự minh oan của Quan Công, những hành động của Trương Phi mà còn cho chúng ta những âm hưởng của tình nghĩa huynh đệ gắn kết. Tam Quốc Diễn Nghĩa nói chung và đoạn trích Hồi trống Cổ thành nói riêng quả thực là tác phẩm vô cùng xuất sắc, xứng đáng là một trong tứ đại danh tác nổi tiếng nhất của Trung Hoa.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 5
Hồi trống Cổ Thành là tên do người biên soạn đặt cho đoạn trích ngắn ở giữa hồi 28, có hai câu thơ làm tiêu đề:
Chém Sái Dương anh em hòa giải,
Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên.
Chữ "hồi" trong câu thơ này có nghĩa là trở về, chứ không phải là hồi trống như trông tên đoạn trích.Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung có nhiều nhân vật, nhưng sinh động nhất, gây ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Tào Tháo, Khổng Minh, Quan Công và Trương Phi.
Lúc mới dựng nghiệp, nhà Thục còn yếu, trong khi quân Tào rất mạnh, vì thế nên quân Thục thua liên tiếp. Lưu Bị cùng Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Quan Công, Trương Phi bàn mưu kế chống lại Tào Tháo. Bị bại lộ, Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi kéo hai mươi vạn quân đánh Lưu Bị. Ba anh em Lưu, Quan, Trương thua trận, mỗi người chạy một ngả. Lưu Bị chạy sang Nhữ Nam ở nhờ Viên Thiệu, Quan Công bị khốn ở Thổ Sơn, Trương Phi tá túc ở Cổ Thành. Trong lúc hoạn nạn, Quan Công theo lời Trương Liêu đưa hai người vợ của Lưu Bị là Cam phu nhân và Mi phu nhân sang ở nhờ Tào Tháo. Tạm hàng Tào Tháo nhưng Quan Công ra điều kiện rằng nếu biết Lưu Bị ở đâu thì sẽ đi tìm ngay.
Biết tin Lưu Bị đang ở trên đất Viên Thiệu, Quan Công đưa hai chị dâu đi tìm. Tào Tháo vì muốn lưu giữ Quan Công để dùng nên không cấp giấy qua ải, nhưng cũng không sai tướng đuổi bắt. Các tướng của Tào Tháo không cho Quan Công qua ải nên ông phải mở đường máu mà đi: Quan Công đã phải chém sáu tướng Tào để vượt qua năm cửa ải: Qua ải Đông Lĩnh chém Khổng Tú. Đến ải Lạc Dương chém Hán Phúc và Mạnh Thần. Qua Nghi Thủy giết Biện Hỷ. Vượt ải Huỳnh Dương chém Vương Thực. Đến bờ Hoàng Hà giết Tần Kỳ.
Đoạn trích kể về cuộc "đụng độ" đặc biệt giữa hai anh em kết nghĩa là Quan Công và Trương Phi ở cổ Thành.
Trên đường sang Nhữ Nam tìm Lưu Bị, đến cổ Thành, Quan Công hỏi thăm được biết Trương Phi đang ở đấy nên xiết bao vui mừng. Trương Phi vốn nghi ngờ Quan Công ăn ở hai lòng đã lầm tưởng là Quan Công lừa mình để bắt nộp cho Tào Tháo nên giận dữ không thèm tiếp, đã thế còn sỉ mắng và dọa đánh. Ngẫu nhiên, lúc đó tướng Tào là Sái Dương dẫn quân ầm ầm kéo đến khiến Trương Phi càng khẳng định thêm nghi ngờ của mình là đúng. Thanh minh không được, Quan Công hứa sẽ chém đầu tướng Tào để tỏ lòng thành. Trương Phi ra điều kiện sau ba hồi trống, Quan Công phải chém rơi đầu tướng Tào thì mới tin. Nhưng Trương Phi vừa đánh dứt một hồi trống thì đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Trương Phi tạm nguôi giận nhưng chỉ sau khi nghe tên lính hầu của Sái Dương bị Quan Công bắt kể đầu đuôi mọi chuyện thì chàng mới tin, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường. Quan Công vào được Cổ Thành, "cửa ải thứ sáu" và cũng là cửa ải thử thách ghê gớm nhất đối với lòng trung nghĩa.
Đoạn trích Hồi trống cổ Thành rất giàu kịch tính, đậm không khí chiến trận và khí phách anh hùng. Lối kể chuyện của tác giả giản dị, không tô vẽ, không bình phẩm. Linh hồn đoạn trích kết tụ trong hồi trống của Trương Phi. Đó là hồi trống ra quân, cũng là hồi trống thu quân, hồi trống thách thức, giải oan và đoàn tụ. Chủ đề đoạn trích toát lên hai ý: Tính cách nóng nảy nhưng tuyệt vời trung nghĩa của Trương Phi và ý nghĩa sâu xa của hồi trống Cổ Thành.
Trương Phi là con người thẳng như làn tên bắn, sáng như tấm gương soi. Ông không chấp nhận sự quanh co, lắt léo. Đối với Trương Phi, đen trắng phải rõ ràng; với kẻ thù thì chỉ có thể nói chuyện bằng gươm giáo. Tính cách Trương Phi vốn dĩ là nóng nảy, bộc trực và đơn giản, song để xác định Quan Công trung thành hay phản bội, Trương Phi lại không đơn giản chút nào. Khi nghe tin Quan Công đến, Trương Phi giận dữ mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đầm Quan Công.
Câu hỏi của Quan Công: Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa vườn đào ư? làm cho Trương Phi bừng bừng nổi giận. Ý của Quan Công là muốn nhắc lại việc ba anh em kết nghĩa vườn đào để uốn nắn thái độ quá khích của Trương Phi, không ngờ lại như đổ thêm dầu vào lửa, càng làm cho Trương Phi thêm phẫn nộ. Theo Trương Phi, Quan Công ở chung với Tào Tháo một thời gian, nhận tước vị Tào Tháo phong cho đã là phản bội; đã phản bội mà còn dám động đến chuyện kết nghĩa vườn đào thì lại càng đáng căm thù và phỉ nhổ. Quan Công phản bội thì phải xử đúng như lời thề trước đây: Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời, người cũng giết. Những lời thanh minh cho Quan Công của hai chị dâu và Tôn Càn không làm dịu bớt cơn thịnh nộ của Trường Phi.
- Khoan đã chú Ba, khoan đã! Chớ hấp tấp mà làm càn bây giờ. Chú Hai không biết tin tức mọi người nên phải tạm nương mình bên Tào. Nay đã biết anh nhà ở Nhữ Nam, không ngại hiểm trở, đưa bọn ta đến đây. Chú không được nghĩ lầm như thế!
Mi phu nhân cũng nói: - Chú Hai trước ở Hứa Đô, thực là bất đắc dĩ.
Phi nói: - Hai chị bị lừa dối đấy. Trung thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?
Quan Công nói: - Hiền đệ đừng nói như vậy, oan uổng quá.
Tôn Càn cũng nói: - Vân Trường đến đây là cốt để tìm tướng quân.
Trương Phi mắng: - Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây tất là để bắt ta đó!
Tôn Càn bênh vực Quan Công không được mà Cam phu nhân, Mi phu nhân thanh minh hộ cũng vô hiệu. Với Trương Phi, dẫu có "trăm nghe" cũng không bằng "một thấy". Trước vấn đề trọng đại, Trương Phi đã hết sức cẩn trọng. Quan Công thanh minh: Nếu ta đến bắt em, tất phải đem theo quân mã chứ! Trương Phi trỏ tay đằng xa, nói: Không phải quân mã là gì kia? Sự hiểu lầm đã lên tới điểm đỉnh vì một chi tiết ngẫu nhiên : Lúc ấy, tình cờ tướng Tào là Sái Dương dẫn quân truy đuổi Quan Công đang tới gần. Để xoá bỏ mối nghi ngờ của Trương Phi, Quan Công chỉ có cách là chém đầu Sái Dương. Trương Phi ra điều kiện bất khả kháng là sau ba hồi trống, Quan Công phải chém rơi đầu tướng của Tào Tháo. Dứt lời, Trương Phi lập tức đánh trống. Bao nhiêu uất ức, căm giận của Trương Phi như dồn cả vào cánh tay thúc trống. Chỉ sau một hồi, đầu Sái Dương đã lăn dưới đất.
Tưởng thế là mọi việc đã rõ và câu chuyện nhanh chóng đi đến kết thúc, song thực tế lại diễn ra không đơn giản. Mãi đến khi nghe một tên lính bị bắt kể về lí do Sái Dương đến cổ Thành là để truy đuổi và trị tội Quan Công vì đã giết cháu ngoại hắn ; rồi Trương Phi còn hỏi kĩ việc ở Hứa Đô, bấy giờ Phi mới tin anh là thực. Tác giả vẫn chưa để Trương Phi vội biểu lộ rõ thái độ ngay lúc ấy mà cho tới lúc đã vào cổ Thành, nghe hai chị dâu kể lại những việc Quan Công đã trải qua thì Trương Phi nghe hết chuyện, "rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường".
Thô lỗ và tinh tế là hai nét tính cách đối lập song ở trong đoạn trích này, chúng lại xuất hiện trong cùng một nhân vật Trương Phi. Trong cuộc đời, Trương Phi đã từng dùng mưu mẹo tinh vi để bắt sống Lưu Đại, tướng giỏi của Tào Tháo và bắt sống Nghiêm Nhan ở đất Ba Thục mà không hề làm hao tổn một binh sĩ! Thô trung hữu tế (trong cái thô có cái tinh tế) là biện chứng của cuộc sống. Thô lỗ và tinh tế ở đây đều là biểu hiện lòng trung thành tuyệt đối của Trương Phi. Với Trương Phi, trong tình huống ở cổ Thành, việc hạ thủ Quan Công có lẽ còn dễ hơn, đơn giản hơn là kiểm nghiệm lòng trung thành của Quan Công. Cái khéo léo của tác giả là đã tạo ra những tình huống để cho cả hai nét trái ngược trong tính cách Trương Phi cùng bộc lộ vừa tự nhiên, vừa sinh động, hấp dẫn.
Trong đoạn trích Hồi trống cổ Thành, Quan Công tỏ ra rất độ lượng và từ tốn, thể hiện qua các chi tiết nổi bật như: sự hốt hoảng trước cách xử sự của Trương Phi, thái độ nhún mình thanh minh trước người em nóng nảy, cầu cứu hai chị dâu, chấp nhận điều kiện khắc nghiệt để minh oan. Nỗi oan của Quan Công cũng là nỗi oan đặc biệt: làm công việc vì chủ tướng nhưng lại trái với khí phách của kẻ anh hùng, phải tự minh oan bằng tài nghệ và lòng dũng cảm, phi thường.
Để đến được Cổ Thành, Quan Công đã phải vượt qua bao thử thách (năm cửa ải). Những kẻ cản đường trong hành trình gay go này là quân địch. Còn tại Cổ Thành, kẻ cản đường lại là anh em kết nghĩa. Chí với chiến công xuất sắc Chém đầu Sái Dương trong nháy mắt, vấn đề trung thành hay phản bội của Quan Công đã được làm sáng tỏ.
Điều thú vị là tác giả đã đặt Quan Công trong quan hệ đối sánh với Trương Phi. Người đời khen Quan Công "tuyệt nghĩa". Nhưng chữ "nghĩa" cũng có hai mặt: trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa là lòng trung thành với vua, với lý tưởng phò nhà Hán. Về mặt này, Quan Công tỏ ra kiên định. Tín nghĩa là lòng tin trong quan hệ giữa bạn bè, anh em, Quan Công cũng rất coi trọng. Đoạn trích có hai nhân vật, nhưng Quan Công chỉ là nhân vật làm nền để tính cách của Trương Phi nổi bật.
Cái tên Hồi trống cổ Thành rất hay vì trước hết, nó gợi lên không khí chiến trận. Ở đây không chỉ có mâu thuẫn chủ yếu giữa Trương Phi và Quan Công mà còn là mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương. Tuy đó chỉ là mâu thuẫn thứ yếu song nó cũng không kém phần căng thẳng và điều đáng nói hơn là nó đã làm cho mâu thuẫn chủ yếu thêm quyết liệt.
Ba hồi trống là điều kiện, hơn thế, là vị quan tòa nghiêm khắc có quyền phán xét Quan Công trung thành hay phản bội. Điều kiện ba hồi trống Trương Phi đặt ra là vô cùng khắc nghiệt: Quan Công không những chém được đầu Sái Dương mà còn phải chém được trong thời gian ngắn nhất. Mặt khác, Sái Dương là tướng giỏi của Tào Tháo đã từng công khai biểu thị thái độ không phục Quan Công, giờ lại mang quyết tâm trả thù rất cao cho cháu, đó cũng là thách thức to lớn với Quan Công. Nhưng lúc này, khát vọng minh oan đã làm tăng sức mạnh và tài nghệ siêu quần của Quan Công, cho nên Quan Công đã làm được một việc ngoài sức tưởng tượng của Trương Phi là chém rơi đầu Sái Dương trong giây lát.
Bởi vậy, Hồi trống cổ Thành dù mang đậm không khí trận mạc song rất khác tiếng trống trận thông thường. Nó đã trở thành một biểu tượng cho lòng trung nghĩa, tinh thần dũng cảm và tinh thần công minh chính trực.
Có thể coi Cổ Thành là cửa ải thứ sáu nhưng đó là cửa ải tinh thần, cửa ải khảo nghiệm lòng trung nghĩa. Với tài nghệ của Quan Công, vượt qua năm cửa ải kia còn dễ hơn nhiều. Trong tình thế "tình ngay lý gian" rất khó biện bạch, giải quyết thông suốt mắc mớ trong tư tưởng, tình cảm của một người nóng nảy như Trương Phi quả là cực khó.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 6
Tam Quốc diễn nghĩa là một trong tứ đại kiệt tác của nền văn học Trung Hoa, thuộc thể loại tiểu thuyết chương hồi, phát triển các sự kiện và cuộc đời nhân vật theo bối cảnh thời gian và bối cảnh lịch sử. Giá trị của tác phẩm nằm ở nhiều khía cạnh trong đó nổi bật là góc nhìn của tác giả về các nhân vật anh tài trong lịch sử có nhiều biến động của Trung Quốc xưa, lồng ghép vào đó là những bài học sâu sắc về cách nhìn nhận cuộc đời, nhìn người, cách đối nhân xử thế, các lĩnh vực chính trị, quân sự thông qua cuộc tranh giành kéo dài gần trăm năm của ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Một trong số những điểm đáng chú ý nhất của Tam Quốc là mối quan hệ của Lưu Bị - Trương Phi - Quan Vũ, vừa là tình anh em thân thiết kết nghĩa đào viên, vừa là mối quan hệ quân thần trung thành, tận tụy. Đoạn trích Hồi trống cổ thành là một trong những đoạn trích hay và đáng giá là nổi bật mối quan hệ của ba nhân vật này, cho người đọc những chiêm nghiệm, ý nghĩa sâu sắc.
Nhận thấy đầu tiên ở đoạn trích Hồi trống cổ thành ấy là sự ca ngợi mối quan hệ huynh đệ gắn bó, nghĩa tình sâu nặng giữa ba người Lưu Bị - Trương Phi - Quan Vũ. Ca ngợi bởi lẽ sự gắn kết ấy là đến từ sự cảm mến, ngưỡng mộ tài năng, đức độ lẫn nhau, dựa trên cơ sở cùng chung lý tưởng gây dựng giang sơn xã tắc, trừ gian diệt hại, lập nên nghiệp lớn. Để khẳng định tình cảm cao đẹp và lý tưởng nam nhi, ba người đã chọn hình thức kết nghĩa vườn đào, uống chén rượu nghĩa để bày tỏ tấm lòng khảng khái hào hiệp, coi trọng mối quan hệ huynh đệ hiếm có, tuy không sinh cùng cha mẹ, cùng ngày cùng tháng, nhưng nguyện được cùng vào sinh ra tử, tin tưởng, bảo bọc lẫn nhau. Có thể nói rằng trong chế độ phong kiến và dưới ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học Khổng Tử, tình huynh đệ kết nghĩa như của bộ ba Lưu Bị - Trương Phi - Quan Vũ là vô cùng đáng trọng, đáng quý, thậm chí là thiêng liêng hơn cả máu mủ ruột già. Lại nói đến hoàn cảnh trong đoạn trích Hồi trống cổ thành, chúng ta có thể nhìn nhận rõ được thứ tình nghĩa gắn bó và cao đẹp này thông qua việc Quan Vũ vì bảo vệ các vị phu nhân của Lưu Bị mà chấp nhận giả vờ hàng Tào Tháo. Tuy vậy trong suốt thời gian dù ở trong doanh trại địch nhưng lòng của Quan Vân Trường vẫn chưa từng dao động bởi những cẩm y ngọc thực và sự hậu đãi của kẻ thù, mà lòng ông chỉ hướng về nghĩa huynh Lưu Bị, hướng về vị quân chủ mình đang phò tá. Ngày ngày tìm cơ hội, chỉ đợi thời cơ tới là lập tức bảo vệ hai vị phu nhân chạy khỏi trướng giặc về với anh em.
Một nội dung nữa mà Hồi trống cổ thành muốn truyền tải ấy là ca ngợi vẻ đẹp của cuộc hội ngộ giữa những người anh hùng. Có thể nói rằng cuộc hội ngộ trong đoạn trích là một cuộc hội có nhiều điểm đặc biệt, khi mà tình cảm kết nghĩa của ba người tưởng chừng như bên bờ đổ vỡ vì những hiểu lầm nghi kỵ, thì sau đó nó lại càng trở nên bền vững, những người trong cuộc càng thâm sáng rõ về tấm lòng của nhau hơn. Sự kiện Quan Vũ giả vờ hàng Tào Tháo để bảo vệ hai chị dâu, sau đó một thời gian thì chạy thoát về cổ thành nơi Trương Phi trấn giữ, đã khiến Trương Phi nghi ngờ là Quan Vũ phản lại tình nghĩa huynh đệ, đầu hàng giặc quay về giết mình và Lưu Bị. Sự nghi kỵ của này của Trương Phi đã đem đến cho Quan Vũ một nỗi oan khó tả, ấy là nỗi oan bất nghĩa với anh em, bất trung với quân chủ. Hơn thế nữa bản thân Trương Phi tuy giỏi đánh đấm nhưng lại là một người nóng tính, lỗ mãng, không chịu nghe phân bua phải trái đã muốn kết tội, thế nhưng vào trường hợp của ông thì không thể không nghi ngờ, đó là cái ngờ chính đáng của một kẻ trượng phu hào kiệt, luôn tâm niệm kẻ bất trung bất nghĩa thì phải giết không tha, kể cả đó có là người từng xưng huynh gọi đệ. Từ đó dẫn đến cách minh oan anh hùng và đầy khí phách của Quan Công, không chỉ hàn gắn mối quan hệ, rửa sạch oan khuất mà còn bộc lộ những tài năng, đức độ của nhân vật này. Người anh hùng giải thích với nhau bằng trận đánh so tài, sự xuất hiện của một viên tướng giặc giữa lúc mâu thuẫn của Trương Phi và Quan Công đến hồi bế tắc, khi một người cố minh oan, còn một kẻ tràn ngập nghi kỵ đã trở thành giải pháp tháo gỡ nút thắt tuyệt vời. Giữa những hồi trống liên tiếp, thúc giục, hồi hộp của Trương Phi, cảnh Quan Vũ chém đầu Sái Dương chỉ trong một hồi trống đã hoàn toàn gỡ bỏ những nghi kỵ của Trương Phi, đồng thời giải oan cho Quan Vũ. Như vậy hồi trống cổ thành vừa là hồi trống cổ vũ ra quân, hồi trống thu quân về, lại là hồi trống giải oan và hồi trống đoàn tụ của hai anh em Trương Phi và Quan Vũ. Cách tạo lập và tháo gỡ các nút thắt của La Quán Trung trong tác phẩm mang đậm chất anh hùng, thể hiện được cái khí thế âm vang của các trận chiến thời cổ, khắc họa rất rõ nét phẩm chất đáng quý, đáng trọng của người anh hùng trên lưng ngựa, thời tam quốc phân tranh.
Ngoài ra đoạn trích còn là một bài học về cách dùng người, nhìn người, cách đối nhân xử thế. Trước việc đại sự quốc gia, người anh hùng muốn làm nên nghiệp lớn không chỉ biết trọng nghĩa tình, mà đứng trước những sự việc bất thường có ảnh hưởng to lớn đến đại cuộc thì cần phải có tấm lòng nghi kỵ một cách đúng đắn, không nên vì nề hà, cả nể mà làm hỏng cơ nghiệp. Đặc biệt với những kẻ có ý bất trung, bất nghĩa thì không nên tiếc mà giữ bên cạnh, tốt nhất là phải tiêu diệt để tránh đại họa mai sau.
Đoạn trích Hồi trống cổ thành, tuy chỉ là một đoạn trích ngắn với những lời đối đáp qua lại đầy căng thẳng của Trương Phi và Quan Vũ, cùng với sự kiện chặt đầu Sái Dương trong một hồi trống của Quan Vũ, nhưng đã để lại nhiều ý nghĩa cho độc giả muôn đời. Bộc lộ được cái tài cầm bút và phát triển cốt truyện của La Quán Trung và Tam Quốc diễn nghĩa xứng đáng là một trong tứ đại danh tác của Trung Hoa.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 7
Tam quốc diễn nghĩa là một trong những câu chuyện kinh điển về tình nghĩa anh em, quân thần thời phong kiến Trung Hoa và Hồi trống Cổ Thành là một trong những trường đoạn khiến người đọc phải lặng suy ngẫm về tình nghĩa giữa Quan Vũ và Trương Phi.
Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi là ba anh em kết nghĩa nhưng tình sâu hơn bể. Sự khác nhau về tính cách không khiến ba con người này trở nên mâu thuẫn bởi cả ba cùng chung một lí tưởng, một tâm nguyện. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan, ba anh em phải tạm li tán. Và chính sự ly tán đó dẫn đến sự nghi ngờ trong lòng Trương Phi ở đoạn trích Hồi trống Cổ Thành này.
Rời Tào doanh, đến Cổ Thành, biết tin Trương Phi đang trấn giữ ở đây, Quan Công mừng rỡ vô cùng. Trong khi đó Trương Phi chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân đi tắt ra cửa bắc. Nhưng tưởng Trương Phi sẽ thi lễ, đón hai anh chị vào thành, vậy mà lại múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công. Thái độ của Trương Phi hoàn toàn đối lập với thái độ của Quan Công và gần như trái ngược với đạo lí làm em. Lẽ nào Trương Phi đã quên nghĩa vườn đào, quên là em mà hành xử với Quan Công như vậy. Nhưng Trương Phi có lý do để hành động như vậy. Nhân vật của La Quán Trung đứng trên hai lập trường (tình nghĩa anh em và nghĩa vua - tôi) để định tội Quan Công. Nhà văn tiếp tục dẫn mâu thuẫn đi xa hơn bằng cách để Trương Phi để xưng mày - tao với Quan Công, luận giải tội trạng của Quan Công "bỏ anh, hàng Tào (…) lừa tao" và kết tội Quan Công bội nghĩa. Quan Công thanh minh, hai phu nhân cũng nói đỡ hộ nhưng Trương Phi vẫn không tin lời anh. Hồi trống Cổ Thành.
Mâu thuẫn truyện được đẩy lên một bậc khi quân của Sái Dương mang cờ Tào đuổi kịp Quan Công. Trương Phi càng có cớ để nghi ngờ lòng dạ Quan Công. Đám quân mã do Sái Dương dẫn đầu khiến Trương Phi nghĩ rằng Vân Trường đưa đến để bắt về qui hàng cho Tào Tháo. Tình thế éo le buộc Vân Trường phải hành động để chứng thực lòng với em: "Hiền đệ hãy khoan, xem ta chém tên tướng ấy, để tỏ lòng thực của ta!". Đến đây, La Quán Trung quyết định thắt nút truyện, đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm bằng tình tiết Hồi trống Cổ Thành.
Trước đề nghị của Quan Vân Trường, Trương Phi đã ra điều kiện - một điều kiện khắc nghiệt: "Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy". Ba hồi trống định mức thời gian để minh chứng cho một tấm lòng, ba hồi trống để giải oan, ba hồi trống để nhận diện nhân cách một con người cũng là ba hồi trống đầy thách thức. Nó quả là quá ngắn ngủi đối với một mạng người. Nó sẽ là một minh chứng nếu quả thật Quan Công do dự, dao động và không có tài nghệ, khí phách. Nhưng nó cũng là cơ hội để Quan Công minh oan, để hai anh em có thể đoàn tụ lẫn nhau, để lời thề vườn đào năm xưa được giữ trọn. Nếu không có ba hồi trống, mối nghi ngờ trong lòng Trương Phi chỉ có thể giải tỏa bằng bát xà mâu. Và lúc đó, khó có thể hình dung giữa Trương Phi và Quan Công hai anh em ngang tài ngang sức, ai sẽ là người chiến thắng, ai là người phải hy sinh. Tình huống đó bắt buộc Quan Vân Trường phải hành động gấp rút. Chưa dứt một hồi trống, đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Mâu thuẫn được hóa giải, nút thắt đầy kịch tính được tháo bỏ. Chi tiết Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường thể hiện tình cảm chân thành của người em cương trực, thẳng thắn, nghĩa dũng đối với người anh em của mình.
Đến cuối đoạn trích Hồi trống Cổ Thành, hồi trống mới xuất hiện nhưng nó đã thực thi nhiệm vụ quan trọng: hóa giải mối nghi ngờ giữa hai anh em Quan Vũ - Trương Phi. Trở lại với diễn biến câu chuyện phía trước, có thể thấy đó là hồi trống ra quân và cũng là hồi trống thu quân, hồi trống thách thức, minh oan và đoàn tụ. Cuộc hội ngộ của hai anh em không có rượu, chỉ có hồi trống trận. Nó cũng chính là một thành công trong nghệ thuật kể chuyện đặc sắc của nhà văn La Quán Trung.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 8
Có thể nói tiểu thuyết chương hồi là thể loại đạt được nhiều thành tựu nổi bật nhất trong kho tàng văn học thời Minh - Thanh ở Trung Quốc. Một trong những tác phẩm nổi tiếng thời kì này phải kể đến "Tam quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung. Ông là tác giả đã có những đóng góp xuất sắc cho thể loại tiểu thuyết lịch sử thời Minh - Thanh và "Tam quốc diễn nghĩa" có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam và các nước trên thế giới.
Đây là tác phẩm lớn gồm 120 hồi được ra đời vào đầu thời nhà Minh (1368 - 1644) kể chuyện "cát cứ phân tranh" của ba tập đoàn phong kiến Ngụy - Thục - Ngô với các cuộc chiến tranh diễn ra liên miên, đời sống nhân dân khổ cực trong gần 100 năm của nước Trung Quốc thời cổ. Đoạn trích "Hồi trống Cổ Thành" thuộc hồi 28 của tác phẩm. Nội dung của đoạn trích kể về việc Quan Công đưa hai chị đến Cổ Thành thì biết Trương Phi đang chiếm thành, tạm lấy chốn nương thân liền sai Tôn Càn vào thành báo tin để Trương Phi ra đón hai chị. Gặp lại Trương Phi, Quan Công "mừng rỡ vô cùng" còn Trương Phi do hiểu nhầm Quan Công "hàng Tào Tháo" nên "múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công". Đang trong lúc phân trần sự thật thì quân Tào kéo đến, Quan Công đã lấy đầu của Sái Dương - tên tướng cầm đầu quân Tào. Sau này, Trương Phi mới tin Quan Công và "mời hai chị vào thành".
Đoạn trích này đã khắc họa thành công hai nhân vật Trương Phi và Quan Công với những đặc điểm tính cách nổi bật. Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi là anh em kết nghĩa nơi vườn đào, có lời thề sống chết bên nhau. Họ cùng có chí khôi phục lại nhà Hán, mang lại thái bình cho đất nước và sự ấm no cho nhân dân. Kẻ nào phản bội lại nghĩa tình anh em thì đó là kẻ bất trung, bất nghĩa. Trước đó, họ nương náu dưới trướng Tào Tháo nhưng khi hiểu được bản chất gian hùng của Tào Tháo nên họ đã bỏ đi. Vì phải "hộ tống hai chị dâu nên Quan Công tạm hàng Tào Tháo với điều kiện hàng Hán chứ không hàng Tào". Tào Tháo tìm mọi cách thu phục Quan Công nhưng khi biết tin Lưu Bị đang ở bên Viên Thiệu thì Phi trả hết con dấu, châu báu, lên đường tìm anh. Đến Cổ Thành thì Quan Công gặp Trương Phi và bị Trương Phi hiểu nhầm.
Với tính tình nóng nảy, cương trực, Trương Phi "mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công". Trương Phi "hầm hầm quát" người anh em kết nghĩa vườn đào với mình năm xưa: "Mày đã bội nghĩa, còn mặt nào đến gặp tao nữa?" và quyết liều sống chết với Quan Công.Trương Phi không nghe bất cứ một lời giải thích nào từ Quan Công, Cam phu nhân, Mi phu nhân và Tôn Càn. Trương Phi không xưng hô lễ nghi như "nhị ca" -"tiểu đệ" mà xưng "tao" - "mày", gọi Quan Công là "nó", là "thằng phụ nghĩa". Điều ấy chứng tỏ Trương Phi là con người thẳng thắn, không thể dung tha cho kẻ đã phản bội anh em, làm những điều phi nghĩa. Nhân vật này còn quả quyết khẳng định: "Hai chị bị lừa dối đấy. Trung thần thà chịu chết chứ không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?" Đó là câu nói thể hiện lí lẽ, quan điểm và sự dứt khoát của Trương Phi. Bậc bề tôi quyết trung thành với vua, thà chịu chết chứ không chịu đầu hàng kẻ thù.
Mâu thuẫn giữa hai nhân vật được La Quán Trung đẩy lên cao trào khi Trương Phi trông thấy quân Tào kéo đến do Sái Dương dẫn đầu, "vác đao tế ngựa xông đến". Vốn đã nghi ngờ Quan Công ngay từ đầu nên khi trông thấy cảnh tượng "bụi bay mù trời, một toán quân mã kéo đến, cờ hiệu phấp phới chính là cờ Tào" như đến để bắt mình nên Trương Phi lại càng nổi giận và "múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công". Khi Quan Công tỏ lòng thực của mình bằng cách chém tên tướng Sái Dương thì Trương Phi cũng kiên quyết ra điều kiện: "Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy". Đây là cơ hội để Quan Công chứng minh được sự trong sạch và tấm lòng ngay thẳng, trung nghĩa của mình.
Chưa dứt một hồi trống, "đầu Sái Dương đã lăn dưới đất", "quân Tào chạy tan tác" nhưng kết quả ấy cũng chưa thuyết phục được lòng tin của Trương Phi. Chỉ khi nghe một tên lính kể chuyện Sái Dương nghe tin Quan Công giết cháu ngoại mình bèn "nổi giận đùng đùng" muốn sang Hà Bắc đánh Quan Công nhưng Tào Tháo không cho đi, "nhân sai Nhữ Nam đánh Lưu Tích" không ngờ đi đến Cổ Thành gặp Quan Công thì lúc đó Trương Phi mới "tin anh là thực" và "mời hai chị vào thành". Hai người chị kể cho Trương Phi nghe những việc mà Quan Công trải qua khiến Trương Phi "rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường". Trương Phi tuy tính tình nóng nảy nhưng khi hiểu hết câu chuyện và hoàn cảnh của người anh kết nghĩa thì đã tin tưởng và phục thiện. Đó là một trong những vẻ đẹp nhân cách của nhân vật này.
Bên cạnh đó, tác giả La Quán Trung cũng khắc họa nhân vật Quan Công với tính cách khiêm nhường, trung nghĩa, thủy chung với tình anh em kết nghĩa vườn đào. Khi gặp được Trương Phi, Quan Công "mừng rỡ vô cùng, giao long đao cho Châu Thương cầm, tế ngựa lại đón". Ngay cả khi bị Trương Phi gọi là "mày", "thằng","nó" nhưng Quan Công vẫn giữ cách xử sự đúng mực, độ lượng khi gọi Trương Phi là "em" và "hiền đệ". Quan Công hết sức bình tĩnh khi "tránh mũi mâu", nhờ hai chị làm nhân chứng cho sự trung thành của mình. Không những thế, Quan Công rất coi trọng tình nghĩa anh em đã có và muốn chứng minh điều ấy qua hành động chém Sái Dương "để tỏ lòng thực". Trước sự nghi ngờ của Trương Phi lớn như vậy nhưng Quan Công vẫn giữ được bình tĩnh và sự từ tốn của bản thân để minh oan.
Hồi trống có ý nghĩa thâu tóm toàn bộ linh hồn, mang lại không khí chiến trận cho đoạn trích. Đó là hồi trống thách thức, minh oan, đoàn tụ của ba anh em của Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi. Đoạn trích đã thể hiện được tính cương trực của Trương Phi và lòng trung nghĩa của Quan Công. Kết cấu của "Hồi trống Cổ Thành" như một vở kịch hoàn chỉnh và mang những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của tiểu thuyết chương hồi. Tác phẩm "Tam quốc diễn nghĩa" không chỉ phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa lúc bấy giờ mà còn để lại những bài học về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín của Nho giáo, các cách ứng xử của bậc quân tử. Đây cũng là nguyên nhân khiến tác phẩm luôn có sức hấp dẫn đối với các thế hệ bạn đọc.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 9
La Quán Trung là một nhà văn lớn của nền văn học Trung Quốc, tên tuổi của ông gắn liền với những tác phẩm mang tính dã sử, nổi bật nhất phải kể đến Tam quốc diễn nghĩa. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết lịch sử đồ sộ và có giá trị nhất của nền văn học Trung Quốc. Đoạn trích Hồi trống cổ thành cũng là một đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng và tầm vóc tư tưởng của nhà văn La Quán Trung.
Đoạn trích Hồi trống cổ thành thuộc hồi thứ hai mươi tám của tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa, trong đoạn trích này tác giả đã miêu tả cuộc hội ngộ của hai người anh em Quan Công và Trương Phi trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Thông qua việc xây dựng nên một tình huống đầy hấp dẫn, tác giả La Quán Trung đã thể hiện được tình huynh đệ cũng như những biểu hiện của lòng tín nghĩa.
Trước tiên, La Quán Trung đã đi khắc họa nhân vật Trương Phi. Trương Phi là một trong những vị tướng đắc lực dưới trướng của Lưu Bị, nhân vật này hiện lên với vóc dáng cao lớn “… cao tám thước, đầu cáo mắt tròn, râu hùm hàm én…”. Trương Phi có tính cách bộc trực, nóng nảy. Tuy là một vị tướng mưu lược nhưng trong nhiều trường hợp nhất định thì Trương Phi lại trở nên thô lỗ, không biết suy tính trước sau.
Nhân vật Trương Phi là đại diện của chữ Trung, là một con người có bản lĩnh cứng cỏi, thẳng thắn, thà chết chứ không chịu khuất phục, luồn cúi dưới trướng của kẻ thù, đặc biệt Trương Phi căm ghét sự phản bội, đây cũng chính là nguyên nhân của những hành động nóng nảy của Trương Phi với Quan Công khi nghi ngờ Quan Công đã phản bội lại tình nghĩa huynh đệ để theo Tào Tháo.
Vốn có những hiềm khích, hiểu lầm nên cuộc hội ngộ của an hem Quan Công và Trương Phi cũng thật đặc biệt, đó không lại sự sum họp trong sự vui mừng, nồng nhiệt đón tiếp mà là một trận giao chiến đầy căng thẳng. Để thoát khỏi sự kiểm soát của Tào Tháo, Quan Công đã phải mở con đường máu đưa hai chị dâu chạy trốn, sau đó gặp Trương Phi.
Quan Công những tưởng giây phút huynh đệ hội ngộ sẽ vô cùng cảm động và vui mừng mà không thể ngờ được Trương Phi lại đón tiếp mình bằng gương mặt đỏ bừng tức giận, hành động quyết dồn mình vào con đường chết. Trước những hành động của Trương Phi, Quan Công không thể hiểu vì sao người anh em thân thiết lại đối xử với mình như vậy.
Là một con người tỉnh táo, thức thời nên dù bị Trương Phi tấn công quyết liệt cùng cách xưng hô mày- tao đầy xa lạ thì Quan Công vẫn xưng huynh- đệ và cố dò hỏi nguyên nhân vì sao Trương Phi lại có những hành động như vậy. Qua những lời nói và hành động của Quan công, ta có thể thấy được ở con người này một sự nhẫn nại, một con người biết lí lẽ, phân tích tình tình hình dù trong tình thế căng thẳng nhất.
Sau khi đã biết được nguyên nhân khiến cho TRương Phi tức giận và có những hành động nông nổi là do hiểu lầm mình phản bội lại tình nghĩa huynh đệ, đi theo Tào. Quan Công đã rất bình tĩnh để giải thích cho Trương Phi hiểu nhưng dù có nói như thế nào thì Trương Phi cũng không tin. Cuối cùng, tình thế bị đẩy lên căng thẳng nhất khi Sái Dương đuổi tới chân thành, sự nghi ngờ ở Trương Phi ngày càng dâng cao. Cuối cùng, Trương Phi đã đưa ra một thử thách để chứng minh sự trong sạch của Quan Công, đó chính là trong thời gian của ba hồi trống thì Quan Công phải chém đầu Sái Dương.
Trước lời thách thức của Trương Phi, Quan Công đã chấp nhận, khi tiếng trống đầu tiên vang lên thì ngay lập tức Quan Công đã lao vào Sái Dương, bằng bản lĩnh và võ nghệ của một vị tướng tài ba, trong ba hồi trống mà Trương Phi đánh lên thì Quan Công đã chém được đầu của Sái dương.
Về phía của Trương Phi, sau khi Quan Công đã hoàn thành xong thử thách thì vẫn chưa tin tưởng hoàn toàn, trong lòng vẫn chưa thể gỡ bỏ hết được những nghi ngờ. Cuối cùng, trước những lời kể của ai chị dâu và một tên lính thì Trương Phi đã hiểu ra sự việc, sự hối hận tột cùng khiến cho Trương Phi quỳ rạp xuống van khóc, xin lỗi người anh em của mình về những hành động nông nổi.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, tên nhan đề của đoạn trích này chẳng phải ngẫu nhiên mà được đặt là Hồi trống cổ thành, đó là tiếng trống minh oan,tiếng trống hóa giải những hiểu lầm của hai anh em Quan Công và Trương Phi:
“Chém Sái Dương anh em hòa giải
Hồi cổ thành tôi chúa đoàn viên”
Qua đoạn trích Hồi trống cổ thành ta có thể thấy rõ nét tính cách của từng nhân vật, đồng thời đoạn trích cũng hướng đến ca ngợi tình anh em gắn bó, dù trải qua những khó khăn thì cũng sẽ có ngày đoàn tụ.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 10
Tam Quốc diễn tức là tác phẩm phản ánh chân thực giai đoạn lịch sử đầy biến động của lịch sử Trung Quốc với tam quốc phân tranh quyết liệt. Đoạn trích “Hồi trống cổ thành” là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất thể hiện cuộc đối đầu đầy căng thẳng của Trương Phi và Quan Công, những người huynh đệ từng kết nghĩa vườn đào, để khi hồi trống cổ thành vang lên mọi hiềm khích được hóa giải, người đọc lại một lần nữa cảm động về tình huynh đệ gắn bó, tấm lòng trước sau như một dù trải qua những thử thách khốc liệt nhất. Đoạn trích thành công xây dựng những nét tính nhữngh đặc trưng của từng nhân vật, đặc biệt người võ tướng Trương Phi được khắc họa với tính nhữngh nóng nảy, bộc trực cùng tấm lòng trung thành không gì rất có thể thay đổi.
Trương Phi là người võ tướng tài giỏi dưới trướng của Lưu Bị, khắc họa chân dung nhân vật này, tác giả La Quán Trung đã viết: “…tiếng vang như sấm, nhanh như ngựa, râu cọp hàm én, đầu beo mắt lồi”. Nổi tiếng với tính nhữngh bộc trực, thà chết chứ không chịu khuất phục, luồn cúi dưới trướng của kẻ thù, rất có thể nói Trương Phi là nhân vật đại diện cho chữ “trung”. Tuy nhiên, người võ tướng này tính tình lại nóng nảy, bộc trực, ghét sự phản bội, đây cũng là lí do của việc nghi ngờ Quan Vân Trường thất tín và cũng là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đối đầu căng thẳng ở cổ thành.
Nói về tính nhữngh nóng nảy, bộc trực của Trương Phi, dân gian cũng đã có câu “Nóng như Trương Phi, đa nghi như tào tháo”, thế mới thấy hình ảnh của một Trương Phi dung mạnh nhưng nóng nảy đã in đậm trong tiềm thức của mọi người. Là người trung thành, tôn vinh chữ Trung nên TRương Phi không thể chấp thuận được hành động phản bội, Trương Phi điển hình cho người anh hùng thời loạn tôn vinh trung nghĩa với lí tưởng “Trung thần thà chết chứ không chịu nhục”. Sự bộc trực, trung thành tuyệt đối của Trương Phi với Lưu Bị thể hiện ngay trong hành động đối đầu với Quan Công. Trong nhận thức của Trương Phi thì Quan Công đã phản bội lại tình nghĩa huynh đệ để đi theo Tào Tháo. Do đó khi thấy Quan Công đến Cổ Thành thì Trương Phi đã quyết tâm chiến đấu đến cùng “Phen này tao quyết liều sống chết với mày”. Vì sự trung nghĩa, TRương Phi đã tạm gác tình cảm cá nhân mà đối đầu với Quan Công như với kẻ thù vì lợi mà phản bội anh em.
Tính nhữngh trung thực, nóng nảy nên khi nghe báo tin Quan Công và hai chị dâu đang đi vào cổ thành, TRương Phi đã ngay lập tức mặc áo giáp, lên ngựa dẫn quân đi qua cửa Bắc để bắt Quan Công. Hành động quyết liệt, dữ dội cùng với thái độ tức giận “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Tuy nhiên, ở Trương Phi cũng tồn tại hạn chế của người võ tướng, vì nóng nảy mà Trương Phi mất đi khả năng đánh giá tình hình, cố chấp không chịu tin tưởng vào những lời giải thích của Quan Công.
Cuối cùng, khi Sái Dương kéo quân đến chân thành thì TRương Phi đã đưa ra một quyết định, đó là trong ba hồi trống, Quan Công phải chém được đầu của Sái Dương để chứng tỏ sự trong sáng. Trong ba hồi trống ấy, Quan Công đã chém được đầu của Sái Dương, tuy nhiên lúc này thì Trương Phi vẫn vẫn chưa dám tin tưởng hoàn toàn, chỉ đến khi hai chị dâu cùng một tên lính trung thành thuật lại mọi việc thì Trương Phi mới nhận thấy mình hiểu lầm Quan Công.
Sự ân hận đã làm cho Trương Phi quỳ xuống mà khóc, cầu xin Quan Công tha thứ. Như vậy ta rất có thể thấy Trương Phi là người nóng nảy, thô lỗ không biết nhận thức tình hình nhưng lại là con người sống ngay thẳng, tình cảm, Trương Phi rất có thể sẵn sàng cầm giáo xông vào Quan Công khi hiểu lầm người anh em nhưng cũng rất có thể quỳ sụp xuống xin lỗi vì biết mình đã hiểu nhầm anh.
“Chém Sái Dương anh em hòa giải
Hồi cổ thành tôi chúa đoàn viên”
Qua đoạn trích “Hồi trống cổ thành” ta rất có thể thấy được một Trương Phi nóng nảy, bộc trực hết lòng trung thành với Lưu Bị mà còn là người sống tình nghĩa, ghét sự bội nghĩa.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 11
La Quán Trung (1330-1400), quê ở vùng Thái Nguyên, Sơn Tây, Trung Quốc. Ông là người có tính tình cô độc, sống lẻ loi, thích ngao du đây đó nên có am hiểu sâu sắc về tình hình chính trị đương thời. Tam Quốc diễn nghĩa ra mắt vào khoảng đầu thời Minh (1368-1644), nội dung kể về chuyện một nước chia ba trong gần một trăm năm của Trung Quốc thời cổ (thế kỷ II, III), vào cuối đời Đông Hán (năm 184), quân thần ngu muội, nhân dân đồ thán, hàng trăm cuộc khởi nghĩa nổ ra khiến chính quyền trở thành bất lực. Từ đó nổi lên những quyền lực nổi lên với danh nghĩa dẹp khởi nghĩa, ủng hộ triều đình trong đó có ba quyền lực mạnh nhất là Tào Tháo (Ngụy), Lưu Bị (Thục) và Tôn Quyền (Ngô) tạo thành thế chân vạc. Cuối cùng kết thúc vào năm 280 khi nhà Tần lên ngôi. Đoạn trích Hồi trống Cổ thành thuộc hồi 28 của bộ tiểu thuyết này, kể về hiểu lầm giữa hai người Quan Công và Trương Phi, sau đó là sự đoàn viên và hóa giải hiểu nhầm làm sâu sắc thêm tình huynh đệ kết nghĩa trong thời loạn. Mà ở đây nhân vật Trương Phi hiện lên nổi trội với vai trò người anh hùng chính trực, ngay thẳng, tuy nhiên khá nóng nảy trong việc giải quyết xích míc.
Trương Phi là nhân vật nổi trội với tính nhữngh bộc trực ngay thẳng, không biết dối trá úp mở, điều đó thể hiện qua lập trường trung thần rõ ràng, rạch ròi trong câu nói với hai người chị dâu “trung thần thà chết cũng không chịu nhục, có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ”. Từ đó dẫn đến sự suy xét, lập luận về sự xuất hiện của Quan Công theo quan điểm của Trương Phi, Quan Vân Trường xuất hiện ở đây sau khi đã hàng Tào Tháo, tức là đã bội nghĩa nhận phong hàng tứ tước của kẻ thù, hôm nay đến đây là để đánh lừa Trương Phi, mang theo quân mã để cướp cổ thành.
Như vậy Trương Phi đã có đến ba lần buộc tội Quan Công, thứ nhất là “mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa”, tức là tội bất nghĩa, thứ hai “mày bỏ anh hàng Tào Tháo được phong hầu tứ tước nay lại đến đây đánh lừa tao, phen này tao quyết liều sống chết với mày”, tức là tội bất trung, và sau cùng là “mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó tiếp đây là để bắt ta đó”, tức là tội bất nhân. Cũng từ những lập luận trên mà dẫn đến sự phản ứng quyết liệt với Quan Công của nhân vật này, gồm có 6 phản ứng. Khi Tôn Càn báo tin mời Trương Phi ra đón Quan Công thì nhân vật này “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp vác mâu lên ngựa dẫn theo một nghìn quân đi tắt ra cửa Bắc”, khi vừa nhìn thấy Quan Công thì “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Khi Quan Công hỏi nguyên cớ, thì nhân vật này nổi giận quát, đổi xưng hô mày – tao và buộc tội Quan Công ba tội bất nghĩa, bất trung và bất nhân. Khi Quan Công, hai chị dâu và Tôn Càn thanh minh thì Trương Phi gạt bỏ toàn bộ, khăng khăng tin tưởng vào lập luận và suy xét của tớ. Khi toán quân mã mang cờ Tào kéo đến nhìn thấy bụi bay mù trời từ đằng xa thì Trương Phi lập tức nổi giận “mua bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công lần nữa”.
Khi Quan Công yêu cầu được xác thực lòng trung của tớ, thì Trương Phi chấp thuận nhưng đưa ra yêu cầu phải chém đầu tướng Tào trong ba hồi trống thì mới tin. Điều kiện thời gian là ba hồi trống bởi, nếu là năm hồi thì quá dài, không tương thích với tính nhữngh nóng nảy, bộc trực của Trương Phi, nhân vật này không thể đủ kiên nhẫn chờ đón hết năm hồi trống, thêm vào đó mốc thời gian này nếu đưa ra còn làm hạ thấp đi tài nghệ của Quan Công. Còn nếu như chỉ là một hồi trống thì đây lại là một thử thách quá nghiệt ngã, thực chất trong lòng Trương Phi vẫn rất hy vọng rằng anh mình không phải là kẻ bất trung bất nghĩa, ba hồi trống ấy đó là quảng thời gian vừa đủ để Quan Công xác thực được tấm lòng của tớ. Như vậy việc đưa ra ba hồi trống không những là thử thách mà còn gửi gắm cả niềm tin niềm hy vọng của Trương Phi với người anh kết nghĩa của tớ.
Sau ba hồi trống Quan Công đã chém được đầu của Sái Dương, một tướng của Tào Tháo cuộc hội ngộ, hòa giải của Quan Công và Trương Phi ra mắt cực kì xúc động. Nếu như trong cả tiểu thuyết cũng như trong phần đầu đoạn trích, Trương Phi hiện lên với tính nhữngh nóng nảy, bộc trực thiếu kiên nhẫn, thì riêng trong phần hòa giải nhân vật này lại rất cẩn trọng, khác hẳn với tính nhữngh thường ngày của nhân vật. Sau khi Quan Vân Trường chém được đầu Sái Dương, nhưng Trương Phi vẫn vẫn chưa tin hẳn, chỉ đến khi Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu của Tào Tháo hỏi chuyện đầu đuôi chuyện ở Hứa Đô, thì bấy giờ nhân vật Trương Phi mới tin anh mình trung thành tuyệt đối. Lại đến sau khi nghe tiếp hai chị dâu kể lại việc Quan Công đã trải qua thì lúc này Trương Phi mới thực sự hiểu được những khó khăn vất vả, đau khổ mà Quan Vân Trường đã phải chịu đựng. Thế nên nhân vật này đã rỏ nước mắt khóc thương và thụp lạy anh mình, giọt nước mắt ấy vừa sự đau lòng cho những vất vả, khó nhọc mà Quan Công đã phải chịu, bên cạnh đó đó còn là giọt nước mắt hối hận về những hành động hồ đồ thuở đầu của bản thân. Còn cái quỳ lạy thứ nhất là thể hiện sự cảm phục nghị lực, sự ẩn nhẫn và nhân nhữngh của Vân Trường, thứ hai là để tạ lỗi với anh của tớ.
Như vậy qua đoạn trích Hồi trống cổ thành, nhân vật Trương Phi đã xuất hiện với những nét tính nhữngh nổi trội, nóng nảy, thiếu kiên nhẫn, bộc trực, thẳng thắn, tuy nhiên đến lúc cần suy xét thì nhân vật này lại bộc lộ bản tính cẩn trọng khác xa tính nhữngh vốn có của tớ. Điều đó thể hiện sự trân trọng, niềm hy vọng mãnh liệt vào tấm lòng của người anh kết tức là Quan Công mà tổng thể những ý nghĩa sâu sắc này lại nằm gói trọn trong ba hồi trống ở cổ thành.
Phân tích Hồi trống Cổ thành - mẫu 12
Bên cạnh kho tàng văn học dân gian rất đồ sộ với tác phẩm Kinh Thi nổi tiếng, nhân dân Trung Quốc còn rất tự hào với hai đỉnh cao chói lọi là thơ Đường và tiểu thuyết Minh – Thanh. Văn học Minh – Thanh là giai đoạn phát triển sau cùngcủa văn học cổ trang Trung Quốc. Đây là giai đoạn nền văn học Trung Quốc khá đa dạng, phong phú và đạt nhiều thành công về mặt nghệ thuật. Trong số đó có sự lên ngôi đầy vẻ vang của tiểu thuyết.
Tiểu thuyết cổ trang Trung Quốc là một loại truyện dài, được kể thành chương hồi và theo trật tự trước sau của sự việc. Khái niệm tiểu thuyết trong văn học Minh – Thanh khác với tiểu thuyết hiện đạisử dụng ngày nay. Có thể kể tới những đỉnh cao tiêu biểu của tiểu thuyết Minh – Thanh đã rất quen thuộc với chúng ta ngày nay như Tây du kí, Nho lâm ngoại sử, Thuỷ hử truyện, Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng… Trong số đó, Tam quốc diễn tức là tác phẩm phản ánh một giai đoạn dài và đầy biến động của lịch sử Trung Quốc, đó là thời Tam quốc. La Quán Trung viết tác phẩm này dựa trên ba nguồn tư liệu đó là sử liệu (cuốn sử biên niên Tam quốc chí của Trần Thọ đời Tấn và cuốn Tam quốc chí của Bùi Tùng Chi người Nam Bắc triều) ; dã sử, truyền thuyết trong dân gian ; tạp kịch, thoại bản đời Nguyên (cuốn Tam quốc chí bình thoại). Vì thế tác phẩm vừa là một thiên sử kí, vừa là một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật.
Qua việc kể lại những mẩu truyện về trận đánh tranh cát cứ giữa ba tập đoàn lớn phong kiến Nguỵ, Thục, Ngô, bằng nhãn quan chính trị của tớ, La Quán Trung đã bày tỏ khát vọng về một xã hội công minh, ổn định với vua hiền tướng giỏi, nhân dân ấm no. Mặc dù, lấy đề tài từ những mẩu truyệnlịch sử đã lùi sâu vào quá khứ nhưng tác giả đã khắc hoạ một toàn cầu nhân vật sinh động trong những mối quan hệ rất chặt chẽ, với đủ những nét tính nhữngh không giống nhau. Không một nhân vật nào trùng lặp nhân vật nào trong toàn cầu hàng nghìn nhân vật ấy.
Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành đã phần nào bộc lộ một trong những nét tính nhữngh tiêu biểu của hai nhân vật xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm là Quan Vân Trường và Trương Phi. Đoạn trích rất ngắn so với sự đồ sộ của tác phẩm nhưng cũng đã thể hiện được một đặc trưng bút pháp nghệ thuật của La Quán Trung cũng như đặc trưng chung của tiểu thuyết cổ trang Minh – Thanh. Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành có kết cấu hoàn chỉnh và đầy kịch tính. Đây là một đặc trưng trong nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết cổ trang, mỗi chương hồi thường là một mẩu truyện có giới thiệu, mở mối, mở nút và thắt nút như kết cấu một vở kịch. Sau khi giới thiệu nhân vật và sự việc thì mở ra xích míc, rồi xích míc được đưa lên đỉnh điểm rồi được giải quyết bằng một hành động nào đó.
Trong đoạn Hồi trống Cổ Thành, mở đầu tác giả giới thiệu việc Quan Công đang trên đường tìm về Nhữ Nam gặp Lưu Bị, ngang qua Cổ Thành biết được Trương Phi ở đó bèn đưa hai chị dâu vào. Đồngthời tác giả cũng giới thiệu cảnh ngộ của Trương Phi. Mâu thuẫn bắt đầu khi Trương Phi nghe tin Quan Công đến, vác xàmâu, lao ngựa ra đánh Quan Công, và được đưa lên cao hơn khi quân mã Sái Dương xuất hiện. Là mẩu truyện đậm màu chiến trận nên mọi xích míc giữa những nhân vật đều được giải quyết bằng hành động. Mâu thuẫn giữa Quan Công và Trương Phi xuất phát từ sự hiểu lầm của Trương Phi nhưng cũng được giải quyết bằng hành động. Hành động chém đầu tướng giặc. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi đầu Sái Dương rơi xuống đất, còn mọi lời giải thích đều không tồn tại ý nghĩa sâu sắc gì.
Về mặt nội dung, đoạn trích là một mẩu truyện hoàn chỉnh, đặc trưng này giúp cho việc nắm bắt nội dung dễ dàng hơn. Mỗi hồi của tiểu thuyết chương hồi thường giải quyết hoàn chỉnh một xích míc hoặc hoàn thành diễn biến một sự kiện, đồng thời lại mở ra một mẩu truyện mới tạo thành phần nối kết với hồi sau. Vì thế kết thúc mỗi hồi lúc nào cũng có thể có câu : “muốn biết sự việc thế nào xem hồi sau sẽ rõ”. Mỗi hồi đều được kết thúc khi xích míc đang ở cao trào là một kiểu tạo sức hấp dẫn của nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết cổ trang.
Vốn là những truyện kể dân gian được sưu tập và ghi chép lại nên phương thức trần thuật của Tam quốc diễn nghĩa mang đặc trưng truyện kể rất rõ. Truyện được kể theo trật tự thời gian trước sau của sự việc. Nếu sự việc xảy ra đồng thờihoặc muốn chuyển từ nhân vật này sang nhân vật khác thì dùng từ chuyển “lại nói”. Truyện kể ít quyên tâm đến diễn biến tâm lí và suy nghĩ nội tâm của nhân vật. Tính nhữngh nhân vật được bộc lộ qua hành động và cử chỉ. Tác giả ít xen vào lời giới thiệu hoặc comment. Nếu comment một trận đánh hoặc một sự việc, hành động nào đó của nhân vật thì tác giả trích một bài thơ, một bài vịnh nào đó của người đời sau. Và tên mỗi chương lúc nào cũng là câu văn đối ngẫu tóm lại sự việc chính xảy ra trong hồi đó. Nội dung của mẩu truyện Hồi trống Cổ Thành được tóm lại trong câu : “Chém Sái Dương anh em hoà giải ; Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên”.
Đoạn trích này đã thể hiện khá rõ những đặc sắc nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa. Những nét tính nhữngh không thường nổi trội trong tác phẩm của hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được thể hiện trong đoạn trích. Quan Công vốn rất tự phụ, ít khi nhún nhường ai, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, trước cơn giận của Trương Phi, lại rất nhũn nhặn, mềm mỏng. Ở đây hiện lên một Quan Công oai hùng trong tư thế chém đầu tướng giặc nhưng cũng lại là một người anh chín chắn, đúng mực. Còn Trương Phi tính tình vốn xốc nổi, đơn giản nhưng mối nghi ngờ đã làm cho vị anh hùng này thận trọng hơn. Đó là những nét tính nhữngh khác tạo ra sự đa chiều trong nghệ thuật xây dựng tính nhữngh nhân vật của tác giả. Dù thế nào thì mỗi nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa vẫn có một tính nhữngh đặc trưng rất cá tính, không thể trộn lẫn vào đâu được
Đoạn trích này ca tụng tài năng phi thường của Quan Công, lòng dạ thẳng ngay của Trương Phi và trên hết là lòng trung nghĩa sắt son của cả hai người. Trương Phi nổi tiếng là người ngay thẳng, nóng nảy và trung thực. Nên mọi lí lẽ với Trương Phi đều không tồn tại sức thuyếtphục. Người như Trương Phi không lúc nào chấp thuận và cũng khó rất có thể hiểu được những uẩn khúc trong việc Quan Công về ở với Tào Tháo. Vì thế khi nghe tin Quan Công đến Cổ Thành, Trương Phi đã phản ứng rất quyết liệt : “Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa…”. Nhìn thấy Quan Công thì không thèm nói một lời, “Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”.
Không có lời comment, không mô tả tâm lí nhân vật nhưng tính nóng nảy và sự tức giận của Trương Phi được thể hiện rất rõ qua hành động, nét mặt, lời nói. Phản ứng của Trương Phi thể hiện tính trung thực, yêu ghét rõ ràng. Lời thanh minh của Quan Công, lời giải thích của Cam phu nhân, Mi phu nhân đều chỉ như dầu đổ vào lửa. Trương Phi không thích nghe lí lẽ, chỉ tin vào những điều mắt trông thấy. Cơn giận đang ngùn ngụt lại trông thấy quân mã kéo tới. Cơn giận của Trương Phi được đưa lên đỉnh điểm “múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công”.
Nhân vật của tiểu thuyết cổ trang tuy có tính nhữngh rất rõ nét nhưng vẫn mang tính ước lệ của văn học trung đại. Vì vậy, hành động của nhân vật lúc nào cũng minh hoạ cho tính nhữngh và tư tưởng giai cấp chứ không nhất thiết tuân theo lôgic tâm lí. Tình nghĩa anh em thuở hàn vi sẽ vô nghĩa sâu sắc gì nếu ai đó bị nghi ngờ là phản bội. Chỉ có lí tưởng trung tức là nguyên tắc ứng xử duy nhất. Và mọi xích míc chỉ được giải quyết trên cơ sở lợi ích xã hội. Anh em Quan, Trương đoàn viên khi đầu Sái Dương rơi xuống đất. Trương Phi thẳng tay đánh trống giục giã Quan Vũ và “rỏ nước mắt thụp lạy Vân Trường” khi nỗi nghi ngờ được giải toả.
Việc Trương Phi buộc Quan Công phải chém đầu Sái Dương trong ba hồi trống thể hiện một thái độ dứt khoát và cương quyết, đây cũng là chi tiết đậm màu sắc Tam quốc nhất. Trương Phi biết rõ tài năng của Quan Công, Quan Công từng chém rơi đầu Hoa Hùng, một viên tướng giỏi và trở về doanh trại mà chén rượu vẫn tồn tại đó nóng. Việc Quan Công chém được Sái Dương không phải là việc khó nhưng lại rất có ý nghĩa sâu sắc bởi đó là nhữngh duy nhất để Quan Công minh oan. Sự minh oan cũng không mấy khó khăn nhưng nó thể hiện thái độ dứt khoát và trắng đen rõ ràng của Trương Phi. Tác giả đã tạo thành một tình huống rất đặc sắc để vừa ngợi ca tình cảm anh em gắn bó nghĩa tình của Lưu, Quan, Trương vừa bộc lộ rõ tính nhữngh thẳng ngay của Trương Phi và đức độ của Quan Công.
Trương Phi và Quan Công là những tướng tài của nhà Thục, tiêu biểu cho nhà Thục. Lưu Bị và nhà Thục là nơi tác giả gửi gắm ước mơ của quần chúng nhân dân về một ông vua hiền, một triều đình chính nghĩa và nhân đạo. Với lối kể chuyện dân gian, đơn giản hoá tình tiết trong sự đa dạng của sự kiện, Tam quốc diễn nghĩa đã đạt đến chuẩn mực của nghệ thuật kể chuyện. Tam quốc diễn tức là tiểu thuyết cổ trang tiêu biểu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Thành công của tác phẩm không những bởi giá trị lớn của tác phẩm về quân sự, lịch sử và về đạo đức mà còn bởi toàn cầu nhân vật được xây dựng rất thành công. Những nhân vật tiêu biểu của Tam quốc diễn nghĩa trở thành rất quen thuộc đối với văn hoá và người đọc phương Đông.
Không đi sâu khai thác tính nhữngh bằng diễn biến tâm lí nhân vật như tiểu thuyết hiện đại mà xây dựng tính nhữngh nhân vật bằng những hành động, cử chỉ có ý nghĩa sâu sắc khái quát, La Quán Trung vẫn xây dựng được một toàn cầu nhân vật đa dạng có khả năng bao quát và tái hiện sinh động một giai đoạn lịch sử dài gần một trăm năm với rất nhiều biến động. Qua đây tác giả đã gửi gắm những suy nghĩ và thể hiện cái nhìn của tớ về xã hội Minh Thanh. Chỉ với cùng một đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nhưng hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã nổi lên vẻ đẹp sáng ngời về lòng nhân nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em, tôi chúa. Là tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc đã để lại rất nhiều những mẩu truyện giáo dục nghĩa tình, giáo dục lối sống, lối ứng xử theo tiêu chuẩn Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của người quân tử phương Đông.
Lời giải
Dàn ý phân tích bài Lính đảo hát tình ca trên đảo
Mở bài: Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm.
Thân bài:
- Phân tích cuộc sống của những người chiến sĩ biển đảo trong 4 câu thơ đầu.
- Khúc tình ca nới hải đảo đầy nắng gió.
- Đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ.
Kết bài:
Khái quát nội dung và cảm nhận về bài thơ.
Mẫu 1
Nếu nói những con chữ là tinh hoa nghệ thuật thì những thi nhân chĩnh là những nhà nghệ sĩ. Họ dùng con chữ để vẽ ra những bức tranh tuyệt đẹp. Trần Đăng Khoa chính là một nghệ nhân như vậy. Qua bài thơ Lính đảo hát bài ca trên đảo, những cảnh vật, con người xuất hiện lung linh. Vẻ đẹp ấy càng tôn lên được ý nghĩa của việc họ đang làm, của nhiệm vụ thiêng liêng canh giữ nói đất đảo. Hình ảnh của những người lính được ông khai thác dưới một góc nhìn vừa thơ mộng, vừa thể hiện được hết sự khó khăn của cuộc sống nơi hải đảo xa xôi.
“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Ngay đoạn mở đầu, người đọc đã thấy được hết những cái khắc nghiệt của hải đảo. Nơi đây chỉ thấy nắng và gió, đảo theo dòng nước mà luôn thay đổi hình dáng. Trên nền khung cảnh tưởng chừng như chẳng thấy điểm cuối ấy, chim hoang vẫy cánh làm cảnh vật càng thêm tiêu điều. Mỗi ngày, cuộc sống con người nơi đây đều phải chịu sự vất vả ấy. Nhưng chính do đó, họ dần quen thuộc và bình thản trước những sóng gió ấy. Trên nền cảnh vật xơ xác, sự mãnh liệt và quyết tâm của những người lính làm sáng lên cả bức tranh chỉ toàn gam màu vàng và xanh. Họ lạc quan, cổ vũ nhau tiến bước về phía trước mặc cho sự vất vả vây quanh. Với họ, có lẽ chỉ cần có “chiến hữu” thì chẳng còn khó khăn mà chỉ có niềm vui và những điều thú vị. Hình ảnh so sánh mây nước như một buổi biểu diễn, màn ấy là một sân khấu lơ lửng giữa đất trời. Đó là một cách liên tưởng vô cùng độc đáo và thú vị của tác giả.
“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh
Hóa ra là sư cụ hát tình ca”
Những câu thơ tiếp theo đây vẫn là hình ảnh khắc nghiệt của thiên nhiên vùng hải đảo. Không chỉ gò cát làm hoạt động những người lính khó khăn, mà nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe của họ. Những người lính hiện lên với hình ảnh ai nấy đều trọc đầu, kể cả già trẻ đều như nhau. Đó chính là do họ tự cạo hết tóc của mình để tránh dùng nhiều nước trong khi vệ sinh cá nhân. Bởi nơi đây, thứ hiếm hoi và cần tiết kiệm nhất chính là nước ngọt. Quanh đảo đều là nước, nhưng đó đều là nước biển mặn chát không thể sử dụng được. Thứ những người đất liền chúng ta không coi trọng, lại được những con người ở đó quý trọng đến từng giọt nhỏ. Để làm dịu đi bầu không khí nặng nề ấy, tác giả đã sử dụng những ngôn ngữ, hình ảnh hài hước. Đó là câu nói những người lính đầu trọc trông thật “tếu” và đùa vui so sánh họ với hình ảnh “sư cụ”. Sự đoàn kết của những người lính không chỉ còn là đồng chí, họ là những người anh em cũng chung hoạn nạn, là những người như một gia đình. Và cuối đoạn, bài ca ngân lên với giai điệu nhẹ nhàng như sóng biển. Đó chính là sự quyến rũ khi người và vật hòa quện vào nhau, khi thiên nhiên đàn, biển tấu và con người ngân nga khúc tình ca.
“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…
Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước
Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”
Giọng hát như con người, những người lính cất giọng được miêu tả là ngang tàng,đúng chất những người chiến sĩ. Tuy nhiên giai điệu họ đang ngâm lại là những khúc tình ca lãng mạn toàn nhớ với thương. Lời ca ấy thể hiện sự yêu đời, lạc quan, cũng là niềm khao khát về một tình yêu của những người lính trẻ. Trong đêm ấy, tạm bỏ hết những gánh nặng trên vai, họ cũng chỉ là những chàng trai qua đôi mươi đầy khao khát, mong chờ. Những hình ảnh tiếp theo là sự ao ước về một viễn cảnh hạnh phúc. Rời xa hiện thực, mọi người như chìm vào đó với biển đảo, những sự vật nơi đất biển. Hai câu thơ cuối, “Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này” như một lời tuyên thệ. Họ sẽ vẫn đứng đó để bảo vệ từng tấc đất. Bởi sự hòa bình, một đất nước toàn vẹn cũng là khởi đầu từ sự yên bình nơi hải đảo xa xôi.
“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”
Sau đoạn ngân lên đầy những cảm xúc, tác giả cũng thăng hoa trong những con chữ bay bổng. Bỗng “bàng hoàng” nhìn lại, như có gì kích động tác giả. Hóa ra đó là những “đầu trọc” của đồng đội, như đưa mọi người về lại hiện thực và trách nhiêm của mình. Tuy nhiên, khi đọc đến đây, người đọc lại chẳng cảm nhận được sự khó chịu của những người lính. Họ cam tâm làm tất cả vì Tổ Quốc thân yêu.
Với ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng lại như một bài ca du dương, Trần Đăng Khoa còn sử dụng rất nhiều từ gợi hình để làm người đọc hiểu rõ thêm về cuộc sống và con người ở vùng đảo xa xôi. Đó là những con người vừa dũng cảm, vừa mang trong mình tinh thần và tình yêu tha thiết. Cách trang giấy mà ta vẫn có thể hình dung được những người ấy, đẹp đẽ và nên thơ đến vậy!
Mẫu 2
Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi (puskin). Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình, là tiếng nói tình cảm là những rung động của trái tim con người trước cuộc đời. Ta say đắm trước áng mây hồng của buổi sớm mai bình minh hay áng mây buồn khi chiều tà khuất lối? Ta rung động trước cánh hoa đẹp lung linh kiều diễm hay những cánh đồng lúa úa tàn không sinh khí? Thơ không chỉ là những đóa hoa cao sang kiều diễm mà thơ đôi khi là những cơn gió rít lên từng hồi, là những làn sóng dồn dập vỗ về bờ cát trắng hay chỉ là những con người chân phương hiện lên đầy chất phác đến đáng yêu. Là một làn gió không mấy xa lạ, nhưng sức sống mà nhà thơ ấy thổi vào đem đến một làn gió mới mẻ gợi những rung cảm sâu xa cho người đọc. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo của nhà thơ Trần Đăng Khoa là một “bài ca” như vậy.
Thơ là cuộc hôn phối giữa con người và vũ trụ. Thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc sống nên “Nhà thơ tuy chẳng muốn, cũng thấy mình bị ràng buộc vào biến chuyển lịch sử”_ John Perse. Như vậy dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn chảy trong biển lớn của cuộc đời và nhà thơ không thể đứng ngoài dòng chảy ấy. Hơn ai hết họ là người cảm nhận cuộc sống mãnh liệt nhất, tinh tế nhất. Trần Đăng khoa đứng trong dòng chảy của thời đại để cất lên những vần thơ trong trẻo bình dị mang đến sức rung cảm mãnh liệt cho người đọc. Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sống với điều kiên khắc nghiệt… nhưng tâm hồn họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời hát của tự do của tâm hồn, bài hát của tình yêu tổ quốc tình yêu quê hương đất nước. Dù chưa biết “người thương” ở phương nào, họ vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề biết “bóng dáng nào sẽ đến” với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.
“Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa”
Trần Đăng Khoa được biết đến là nhà thơ viết nhiều về thiếu nhi và những sáng tác của ông dành nhiều cho thiếu nhi đã tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng của ông. Nhưng điều đó không có nghĩa là những sác tác của ông ở ngoài vùng sở trường lại mờ nhạt, nghèo nàn. Nếu ta đã quen với hình ảnh chú bộ đội cụ hồ xuất thân từ những người nông dân chân chất trong bài thơ Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu hay những chàng thanh niên yêu nước đi theo tiếng gọi của tổ quốc trong bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng hát chung khúc hát về người lính, “lính đảo hát tình ca trên đảo” mang một giọng văn riêng, âm sắc riêng – thật mới mẻ và đặc sắc giữa cõi văn chương. Vẫn là những anh lính đảo sống giữa muôn trùng sóng nước thiếu thốn đủ bề mà luôn lạc quan, yêu đời. Khổ thơ đầu tiên mở ra cho ta thấy về những buổi liên hoan văn nghệ của người lính đảo. Người lính đâu chỉ có khô cằn cứng nhắc trong điều lệ, nội quy, họ cũng có lúc bay bổng, thăng hoa trong lời ca tiếng hát. Với tâm hồn lồng lộng biển khơi, yêu đời, yêu cuộc sống, người lính đã tự làm sinh động cho nhịp sống thường nhật buồn tẻ chốn hoang sơ củ mình bằng những giai điệu du dương, ngang tàng chất lính. Ta đã quen với một sân khấu với giàn âm thanh ánh sáng lộng lẫy, những vũ công diễn viên xinh đẹp thì ở nhưng người lính sân khấu của họ thật đặt biệt. Sân khấu của họ chẳng cầu kì như lẽ thường phải thế. Sân khấu của họ được kê bằng đá san hô, còn cánh gà chôn mấy tấm tôn tạm bợ. Họ trang trí nơi biểu diễn nghệ thuật bằng những thứ chẳng có tính nghệ thuật – những thứ vốn có sẵn trong cuộc sống thường ngày. Điều đó nói lên rất nhiều những thiếu thốn, gian khổ của người lính chốn biển đảo xa xôi. Đất nước mình những năm 80 còn khó khăn vất vả gấp bội phần. Những thiếu thốn ấy đã được những chàng lính yêu đời, lạc quan biện luận bằng một lí do rất chân thực. Theo lời phân trần của người lính, thì sự tạm bợ của họ không hẳn vì họ không có phông màn trang trí cho sân khấu mà vì: “chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa” thật dễ thông cảm biết bao với cái lí do bất khả kháng ấy. Đọc câu thơ này của ông ta chợt nhớ đến bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:
“ Xe không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi..”
Những con người lạc quan luôn nhìn thấy trong khó khăn những điều thú vị như vật đó.
Qua sự phân trần của những người lính, người đọc mới hiểu hơn về một Trường Sa khắc nghiệt đến bội phần:
“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Lời thơ như khắc họa trong tâm trí người đọc một trường sa đầy nắng và gió. Gió mang cảm giác bỏng rát trên mặt trần, gió tùng sỏi cát như lũ chim hoang, gió làm biến đổi hình dạng của đảo mỗi ngày… hai câu thơ giàu sức gợi mang đến những những cảm nhận có phần khá lạ lẫm trong lòng người đọc về thiên nhiên trường sa, bởi không phải ai cũng từng được trải nghiệm sức mạnh khủng khiếp của nắng gió nơi đây. Cuộc sống mỗi ngày phải đối diện với khó khăn, vất vả thế nhưng thật thú vị, người lính nói về đièu đó một cách thản nhiên, bình thản như đó là một phần hương vị của cuộc sống, không có gì đáng bận tâm. Họ không lấy điều đó làm phiền, ngược lại họ vẫn sống lạc quan yêu đời.
“Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Người lính bỏ lại tất cả sau lưng những khó khăn để vui sống mỗi ngày. Niềm vui ấy là cùng các chiến hữu cất cao lời hát, niềm vui ấy không cầu kì mà đậm chất lính. Sự phối hợp hài hòa đối lập nhau giữa hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt trong những câu thơ trên và tâm hồn phơi phới của những chàng lính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Trần đăng khoa đã mượn gian nan, khắc nghiệt của cuộc sống làm đòn bẩy nâng cao vẻ đẹp tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính. Cách nói mây nước mở màn của nhà thơ thật lạ, thật thú vị. Màn ở đây là màn sân khấu. Sân khấu dựng giữa đất trời mênh mông nên mấy nước mở màn là một liên tưởng độc đáo. Sân khấu ấy thiế phông màn vải vóc sặc sỡ, được thay bằng mây nước biển khơi.
“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh
Hóa ra là sư cụ hát tình ca”
Sự khắc nghiệt của thiên nhiên không chỉ cản trờ người lính trong hoạt động nghệ thuật nữa mà còn khiến cho những người lính ấy phải cạo trọc đầu để chống chọi lại sự thiếu thốn ấy. Ở nơi biển đảo hẻo lánh ấy thứ còn quý hơn vàng có lẽ là nước ngọt. Một tài nguyên ta cho là tầm thường và hiện hữu quanh ta nên ta chẳng biết quý trọng. Chỉ khi ta đặt mình vào vị trí của những người lính ấy bốn bể đèo là cát trắng và nước biển mặn chát là gió rít từng hồi rát cả da thịt… ta mới hiểu được câu thơ “Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc” những anh chàng đầu trọc khiến ta liên tưởng tới những người lính đầu trọc trong tây tiến của Quang Dũng:
“Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữu oai hùm…”
Đều là những khó khăn xuất phát từ hoàn cảnh, nhưng ý chí kiên cường của người lính có lẽ còn cứng rắn hơn bất kì thứ gì khác. Diễn viên và khán giả ở đây đều là những anh chàng “trọc đầu” trông thật tếu. Những người thanh niên ấy đã hi sinh tuổi trẻ, thanh xuân của mình để bám trụ lại nơi địa cùng tổ quốc để giữ yên từng tấc đất nơi đây. Họ cũng như chúng ta, họ cũng biết làm đẹp cho bản thân chứ, ai lại muốn “đầu trọc” bao giờ, nhưng bởi vì nước ngọt ở đảo trường sa ấy còn khan hiếm lắm đâu chỉ dùng để tắm gội thôi đâu mà còn để uống để sinh hoạt nấu nướng.Điều kiện sống của những người làm nhiệm vụ ở Trường Sa còn có quá nhiều thiếu thốn, gian khổ, đến mức khắc nghiệt. Cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ ở đây còn nhiều khó khăn: thiếu nước ngọt, thiếu rau xanh, thiếu văn công và các hoạt động nghệ thuật. Nhưng, ở nơi đầu sóng ngọn gió, hàng ngày, thậm chí hàng giờ, những người lính canh biển luôn trong tư thế sẵn sàng. Không có sự yếu lòng trước những thử thách của cuộc sống. Khó khăn vất vả là vậy tình đồng chí đồng đội luôn thắp sáng và sưởi ấm con tim của những người cầm súng bảo vệ nơi đầu sóng. Họ biết yêu thương nhau, tạo niềm vui cho cuộc sống của mình. Họ cùng nhau lắng nghe khúc tình ca của biển cả, những cơn sóng ôm ấp chồng lên nhau tạo nên một giai điệu rất riêng mà có lẽ chỉ những người sống trên vùng đất này mới cảm nhận hết được vẻ đẹp này. Biển hiền hòa êm dịu, biển êm đềm khúc hát…. mãi mãi khúc tình ca. Con người và thiên nhiên hòa làm một, con người là trung tâm của vũ trũ và thiên nhiên là nền trời cho con người tỏa sáng. Khúc hát rì rầm ấy khi nghe người ta cũng chẳng biết được là trái tim của người lính đang thổn thức hay là lời thì thầm của biển cả.
Hơn bao giờ hết, bản tình ca này đặc biệt hơn thế:
“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…”
Đâu chỉ những nốt nhạc mới làm nên giai điệu, đôi khi chỉ là tiếng du dương rầm rì của sóng vỗ lao xao của gió biển lay đưa hàng dừa ….. chúng hòa trộn vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng đậm hương vị mặn mà của biển. Nói đến giai điệu, chắc hẳn ai cũng nghĩ rằng nó sẽ là sự êm ả vui tai, nhẹ nhàng mà trầm lắng nhưng với Trần Đăng Khoa giai điệu được ví ngang tàng như sóng biển. Lời ca ấy không chỉ là yêu đời, một tinh thần lạc quan mà còn chứa đựng một nỗi nhớ và tình thương sâu nặng. Lời ca nào mà chẳng có tình yêu, huống chi đó là lời ca xuất phát từ con tim của người chiến sĩ. Làm nhiệm vụ xa nhà chắc hẳn các anh rất nhớ đất liền. Nhưng tạm gác lại nỗi nhớ nhiệm vụ mà các anh gánh vác trên vai còn cao cả hơn thế. Đêm buông xuống, màn nhung đen phủ kín bầu trời chẳng còn nhìn rõ được gì nữa. Chỉ có tiếng hát là vang vọng mãi biển xa. Tiếng vỏ ốc va vào nhau sau từng đợt sóng được nhà thơ nhân hóa lên thành vỏ ốc cất lời làm cho lời như sống dậy, sinh động hơn.
“Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước”
Ở độ tuổi đẹp nhất đời người, đôi mươi sung sức có lẽ các anh chiến sĩ nơi đây cô đơn lắm vì chẳng ở gần người thương. Họ ao ước vào những đêm trăng sáng, được năm tay người mình yêu đi dạo, được ngắm nhìn khuôn mặt dịu dàng của em dưới ánh sáng lấp ló qua hàng cây… thật lung linh tuyệt đẹp. Nhưng khi mở mắt ra, mọi ao ước đều ảo mộng mơ phai, chỉ nghe bên tai tiếng sóng vỗ rì rào. Và tay mình lại nắm lấy chính tay mình. Khó khăn cô đơn là thế nhưng họ vẫn rất lạc quan, họ vẫn mong chờ người mình yêu đang ở một nơi nào đó đợi mình. Người ấy ở đâu, như thế nào cũng chẳng biết nữa chỉ biết là khi mở mắt ra, bốn phía bao quanh mình đều là mây nước lồng lộng.
“Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”
Dù ở hoàn cảnh nào, dù gặp khó khăn gì họ vẫn cất cao tiếng hát của tâm hồn, một tâm hồn cao cả và đa cảm. Dù chưa biết mai này mình sẽ yêu ai, chưa biết chủ nhân của bức thư tình là người nào nhưng các anh vẫn trung trinh một tấm lòng chung thủy. Lời hát cất lên như một lời thề son sắt, tình yêu vẫn còn trong tim dù là đứng trong đêm tối mịt mù tình yêu sẽ là ánh sáng dẫn đường , các anh vẫn sẽ ở đây, bảo vệ cho khoảng trời thân yêu này bởi Việt Nam bắt đầu tại nơi đây. Điệp lại cấu trúc thơ: “Nào hát lên; Rằng chúng ta, Rằng tình yêu”. Phép điệp cấu trúc giúp hai khổ thơ liên kết gần gũi, dễ đọc dễ nhớ giống đoạn điệp khúc của một bài hát.
“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”
Khúc tình ca ấy vẫn mãi ngân vang, bỗng chừng lại như một bản nhạc đang cao trào lên quãng 8 thì trầm xuống đến lắng đọng lòng người. Cảm xúc thăng hoa của tác giả như gặp điều gì đó bỗng trầm lắng xuống. Ngoài mép biển kia có gì đáng để nhà thơ phân tâm. Kết thúc bài thơ là một câu cảm thán mang ngữ khí bất ngờ, đặc biệt: “Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”, thể hiện thái độ bất ngờ về sự xuất hiện của những người lính đảo. Họ được ví như những hòn đá, chịu nắng chịu mưa để bảo vệ cho an nguy tổ quốc. Họ hi sinh thầm lặng, gạt bỏ những nỗi lòng riêng để cùng phục vụ cho một mục đích cao cả hơn hết đó chính là sự yên bình của đất nước nơi đầu sóng ngọn gió.
Với ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên pha chút đùa vui hóm hỉnh, những hình ảnh so sánh đối lập khá lạ. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là một bài ca hùng tráng về người chiến sĩ hải quân ở Trường Sa. Qua vài nét phác họa đơn sơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa ta có thể cảm nhận được những khó khăn, vất vả, thiếu thốn của người lính nơi biển đảo xa xôi ấy cũng như vẻ đẹp của tinh thần bất khuất, lạc quan yêu đời của họ. Tình cảm ưu ái và ngưỡng mộ của nhà thơ Trần Đăng Khoa dành cho họ cũng theo lời thơ mà bộc một cách tự nhiên, chân thành.
Mẫu 3
Một loạt bài thơ của Trần Đăng Khoa viết về biển đảo và người lính được bạn đọc hoan nghênh đón nhận như: Tự tình người lính biển, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài,... và đây là thi phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo. Bài thơ góp một giọng điệu rất riêng, vừa tươi vui, hóm hỉnh nhưng cũng cảm động, sâu lắng về cuộc sống của người lính nơi đảo xa. Nhờ đó, tác phẩm neo vào lòng người sâu sắc, bền chặt suốt mấy chục năm qua.
Khổ đầu trong bài thơ được Trần Đăng Khoa miêu tả sự khắc nghiệt về thời tiết nơi quần đảo Trường Sa nhiều nắng gió. Cái sân khấu dựng lên giữa trời biển bao la ấy phải kì công và độc đáo lắm mới chịu nổi cái gió như quăng quật, tấp táp vào mặt con người. Sân khấu kê lên từ đá san hô biển, cánh gà phải dựng bằng tôn, tất cả đều tạm bợ thế thôi, vì không có phông màn nào chịu nổi thông thốc của gió trời biển đảo:
Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn máy cánh gà
Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa.
Nhưng sự thú vị nhất lại nằm ở khổ thơ thứ hai. Ở đây có sự đối lập giữa cái khắc nghiệt của thiên nhiên và sự dũng cảm, lạc quan của người lính. “Gió rát mặt”, “sỏi cát bay như lũ chim hoang”, thuỷ triều xuống lên liên tục khiến cho đảo cũng thay hình đổi dạng không ngừng. Quả là một vùng đất đầy gian nan, thử thách đối với người lính. Tuy vậy, người lính vẫn hiên ngang, lãng mạn và hào sảng:
Gió rát mặt, Đảo luôn thay hình dáng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Máy nước đã mở màn...
Từ “mây nước mở màn”, hình tượng người lính đảo hiện lên thật độc đáo, tếu táo qua hình dáng bên ngoài lẫn vẻ đẹp tâm hồn, nhờ đó đã giúp cho Trần Đăng Khoa có được một giọng thơ hóm hỉnh, bông đùa nhưng tạo được cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
Cuộc sống trên đảo Trường Sa khắc nghiệt, gian khổ “đến một cái cây cũng không sống được”, thành ra người lính cũng phải chấp nhận để thích nghỉ với môi trường. Thiếu thốn đủ thứ, trong đó có nước ngọt, vì vậy phần lớn họ phải cạo trọc đầu cho đỡ rít khi không có nước ngọt gội tóc, thành ra “lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”. Đọc đến đây, hẳn chúng ta không thể quên hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, cũng tếu táo và có vẻ “bặm trợn” khác thường giữa cuộc sống núi rừng miền Tây Bắc khắc nghiệt: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm”:
Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng... rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau.
Họ gọi đùa nhau là “sư cụ”, là “bà con xa với bụt ốc”, thế hoá thành vui nhộn vì cảnh tượng “sư cụ hát tình ca” mới đưa duyên và “sóng sánh” làm sao! Quả vậy, chính cuộc sống gian nan giữa nước trời thăm thẳm ấy, hình tượng người lính Trường Sa hiện lên thật lãng mạn và hào hoa. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng: Khát khao một tình yêu chảy bỏng, bày tỏ sự nồng nàn và chung thuỷ thiết tha.
Cái giọng tình ca ở đây cũng thật kì lạ, cứ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ không chê vào đâu được, bồi hồi bỏng cháy “toàn nhớ với thương thôi”. Có lẽ chính những năm tháng sống cùng đồng đội nơi biển cả bạc trùng, nơi đảo nổi, đảo chìm của Tổ quốc giúp Trần Đăng Khoa có được chất liệu hiện thực chân thật và sâu sắc đến thế. Đọc thơ, người đọc không chỉ hiểu thêm về cuộc sống người lính Trường Sa mà còn để trái tim mình cảm thông và rưng rưng xúc động. Chính cái giọng phớt đời, tưng tửng lại là chỗ xót xa và lấy nhiều nước mắt của người đọc:
Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như vỏ ốc cất thành lời...
Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng
Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình.
Hóm hỉnh nhất là khổ thơ với các câu hỏi tu từ tự vấn về người yêu của người lính đảo. Họ hát tình ca, yêu đắm say và nhớ thương tha thiết chỉ qua tưởng tượng, thành ra họ hình dung về người yêu của mình cũng có năm bảy đường khác biệt. “Các em ở phương nào?”, “Các em cao hay thấp?” Xót xa nhất là bóng dáng nào sẽ đến với các anh như một câu hỏi xoáy sâu vào lặng lẽ, vào thăm thẳm ruột gan mong chờ khao khát mỗi khi đêm về trông ra chỉ bốn bề mây nước âm u:
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước.
Lãng mạn, hào hoa là thế, nhưng chất lính, sự kiên cường và dấn thân của người lính mới chính là vẻ đẹp cao cả về lòng yêu nước. Hát tình ca để khẳng định tình yêu thuỷ chung, khẳng định chủ quyền đất nước. Nhà thơ không nói hết, nhưng đó là tiếng nói phản kháng chiến tranh, là tiếng nói nhân văn sâu sắc. Cao hơn, hình tượng người lính đứng giữa trời nước bao la bảo vệ chủ quyền thiêng liêng cho Tổ quốc chính là trách nhiệm lớn lao, thiêng liêng không gì sánh được:
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngục ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này.
Đến cuối bài, giọng điệu và hình ảnh thơ vẫn sống động, hóm hỉnh và tếu táo mang đậm phong cách thơ Trần Đăng Khoa. Hình ảnh “toàn những đá trọc đầu” khi thuỷ triều vừa rút như một kết thúc bất ngờ và ám ảnh. Đó là cả một sự quan sát, một phút xuất thần để có những câu thơ hay:
Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ô, hoá ra toàn những đá trọc đầu....
Mẫu 4
Lính đảo hát tình ca trên đảo của Trần Đăng Khoa là một bài thơ hay, để lại ấn tượng sâu sắc từ khi ra đời cho đến nay. Từ cầu tứ, hình ảnh, giọng điệu, tất cả đọc lên cứ vừa tếu táo, bông đùa nhưng lại cảm thương sâu sắc về cuộc đời người lính biển. Họ trở thành tượng đài bất khuất giữa trùng khơi, như một minh chứng cho lòng quả cảm, sự kiên cường của một dân tộc chưa bao giờ khuất phục, sẵn sàng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Tình ca và hùng ca, hóm hỉnh và lắng đọng, trần trụi và đầy suy tư,... là những trạng thái cảm xúc hài hoà, gắn kết xuyên suốt bài thơ [...] Qua đó, khơi dậy niềm tự hào và tình yêu biển đảo đối với thế hệ trẻ, nhất là ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của người lính biển trong vai trò bảo vệ chủ quyền đất nước trong giai đoạn hiện nay.”.
Mẫu 5
Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sân khấu xếp bằng đá san hô, cánh gà chôn bằng mấy tấm tôn, ca sĩ toàn là những anh chàng đầu trọc (họ phải cạo trọc đầu để tiết kiệm nước ngọt vệ sinh)... nhưng tâm hồn của họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời ca tiếng hát, những tiếng hát ngang tàng, toàn nhớ với thương. Dù chưa biết "người thương" ở phương nào, họ vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề biết "bóng dáng nào sẽ đến" với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
188 Đánh giá
50%
40%
0%
0%
0%