Danh sách câu hỏi tự luận ( Có 24,963 câu hỏi trên 500 trang )

Đọc văn bản Đôi chân đèn bằng bạc (trích Những người khốn khổ) và thực hiện các yêu cầu phía dưới: ĐÔI CHÂN ĐÈN BẰNG BẠC (Trích tiểu thuyết Những người khốn khổ) Vích-to Huy-gô Vích-to Huy-gô (Victor Hugo) Vích-to Huy-gô (1802 – 1885) là văn hào vĩ đại nhất trong trào lưu văn học lãng mạn Pháp thế kỉ XIX. Ngoài di sản thơ ca và kịch đồ sộ, ông còn để lại những kiệt tác tiểu thuyết mang đậm cảm hứng lãng mạn: Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris), Những người khốn khổ, Chín mươi ba,... Tiểu thuyết Những người khốn khổ kể về cuộc đời của người tù khổ sai Giăng Van-giăng (Jean Valjean). Ra tù sau 19 năm bị giam cầm vì ăn cắp bánh mì cho đàn cháu đói khổ và nhiều lần vượt ngục không thành, Giăng Van-giăng được Giám mục My-ri-en (Myriel) cho tá túc khi không nhà trọ nào nhận ông. Ông được giám mục cảm hoá (Nguồn: shutterstock.com) với lời dặn phải trở thành người lương thiện. Tám năm sau, Giăng Van-giăng trở thành ông Ma-đơ-len (Madeleine) đáng kính, thị trưởng của một thành phố nhỏ. Cô công nhân Phăng-tin (Fantine) trong nhà máy của ông, vì chưa chồng mà có con nên bị xua đuổi khỏi nhà máy, phải gửi con gái là bé Cô-dét (Cosette) ở nhờ nhà Tê-nác-đi-ê (Thenardier), một chủ quan trọ lưu manh, rồi bán tóc, bán răng, bán thân để kiếm tiền nuôi con. Khi cô hấp hối, ông Ma-đơ-len mới hay chuyện và hứa sẽ chăm sóc Cô-dét thay cô. Cùng lúc ấy, để cứu một người khác khỏi bị kết tội oan do bị thanh tra Gia-ve (Javert) nhầm với mình, Giăng Van-giăng ra thú nhận về danh tính thật của mình, sau đó vượt ngục và chuộc Cô-dét khỏi tay chủ quán trọ Tê-nác-đi-ê, đưa em lên Pa-ri và nhận em làm con gái. Trong cuộc nổi dậy năm 1832, Giăng Van-giăng tham gia chiến đấu bên cạnh các chiến sĩ cộng hoà trẻ tuổi, trong đó có chàng sinh viên Ma-ri-uýt (Marius), người yêu của Cô-dét, và chú bé lang thang Ga-vơ-rốt (Gavroche), đứa con trai bị bỏ rơi của Tê-nác-đi-ê. Giăng Van-giăng cứu sống Gia-ve và Ma-ri-uýt khi tất cả mọi người xung quanh đều hi sinh. Khó xử trước hành động cao thượng của Giăng Van-giăng, Gia-ve tự sát. Ma-ri-uýt kết hôn với Cô-dét và dần xa lánh Giăng Van-giăng do biết về quá khứ của ông. Nhiều năm sau, khi Giăng Van-giăng hấp hối, Ma-ri-uýt mới hiểu rõ tấm lòng cao thượng của ông và đưa Cô-dét đến gặp ông. Trước khi qua đời, dưới ánh sáng của đôi chân đèn bằng bạc, Giăng Van-giăng dặn đôi vợ chồng trẻ: “Trên đời này chỉ có một điều ấy thôi, đó là yêu thương nhau”. Đoạn trích Đôi chân đèn bằng bạc rút từ Chương 12 của tiểu thuyết Những người khốn khổ. Lúc này Giăng Van-giăng vừa ra tù sau 19 năm khổ sai. Cầm tờ giấy thông hành màu vàng, dấu hiệu cho thấy người mang nó đã từng phạm tội, Giăng Van-giăng bị tất cả các nhà trọ từ chối, chỉ có Giám mục My-ri-en cho ông tá túc. Đêm đó, ông lấy trộm bộ đồ ăn bằng bạc của giám mục và bỏ đi. **** Sáng hôm sau, mặt trời vừa mọc, ông giám mục đã ra đi bách bộ ngoài vườn. Bà Ma-gơ-loa (Magloire) hớt hải chạy đến: – Đức cha, thưa Đức cha, Đức cha có biết cái giỏ đồ bạc ở đâu không? – Có. – Lạy Chúa! May quá! Con đang không biết nó chạy đi đâu. Ông giám mục vừa nhặt được cái giỏ ở trên luống hoa. Ông đưa cho bà. – Giỏ đây. – Ô hay! – bà Ma-gơ-loa kêu – Cái giỏ không! Thế còn bộ đồ bạc? – À, bà tìm bộ đồ bạc à? Thế thì tôi không biết. – Trời đất ơi! Bị mất trộm hết rồi! Chính cái thằng tối hôm qua nó lấy rồi! Và thoáng một cái, bà chạy vụt vào phòng nguyện, đến chỗ giường khách, rồi đảo trở ra. Ông giám mục đang cúi xuống bồn hoa nhìn mấy cây hoa bị cái giỏ quăng phải đè gẫy. Nghe tiếng bà Ma-gơ-loa kêu, ông ngẩng người lên. [1] – Thưa Đức cha, nó đi rồi! Đồ bạc bị mất trộm rồi! Vừa kêu lên như thế, bà lại nhìn thấy ở góc vườn có vết người mới trèo qua tường làm lở cả bờ vôi. – Đây này! Nó trèo qua lối này đây. Nó nhảy ra lối phố Cơ-sơ-phi-lê (Cochefilet)! Ả, quân khốn kiếp! Nó lấy trộm bộ đồ bạc của nhà ta rồi còn gì. Ông giám mục yên lặng một lát, ngẩng nhìn bà Ma-gơ-loa một cách nghiêm trang và ôn tồn bảo: – Nhưng này, bộ đồ bạc ấy có phải là của nhà ta không đã? Bà Ma-gơ-loa ngẩn người ra. Hai người đứng lặng yên một lát, ông giám mục lại nói tiếp: Bà Ma-gơ-loa này, lâu nay ta cứ giữ mãi bộ đồ bạc ấy là sai đấy. Nó là của kẻ khó. Mà người ấy là hạng người nào? Chính là một kẻ khó mà. – Chao ôi! Lạy Chúa! Tôi với cô Báp-ti-xtin (Baptistine) thì nói làm gì. Chúng tôi thế nào cũng xong. Nhưng còn Đức cha: Từ nay thì Đức cha ăn bằng gì? Ông giám mục nhìn bà, dáng ngạc nhiên: – Ô hay! Thế không có thìa nĩa thiếc à? Bà Ma-gơ-loa so vai: – Thiếc ăn có mùi tanh. – Thế thì dùng đồ sắt. Bà Ma-gơ-loa nhăn mặt lại: – Sắt có vị hạn. – Nếu thế thì dùng đồ gỗ vậy. Một lúc sau, ông ăn sáng ở ngay cái bàn chỗ Giăng Van-giăng ngồi hôm trước. Vừa ăn, ông vừa vui vẻ nói chuyện. Cô em trầm tĩnh ngồi nghe và bà Ma-gơ-loa thì lẩm bẩm càu nhàu một mình. Ông bảo: Chấm miếng bánh vào sữa thì cần gì phải thìa nĩa, dù là bằng gỗ đi nữa. Bà Ma-gơ-loa vừa đi đi lại lại vừa lẩm bẩm: – Đời thuở nhà ai lại đi tiếp rước một thằng như thế vào nhà bao giờ! Lại còn cho nó nằm ngay bên cạnh phòng mình. Phúc đức làm sao nó lại chỉ mới có lấy của mà thôi! Trời ơi là trời! Cứ nghĩ đến mà rùng mình! Hai anh em ăn xong sắp đứng dậy thì có người gõ cửa. Ông giám mục bảo: – Cứ vào. Cửa mở. Một tốp người kì quặc hùng hổ kéo nhau vào. Ba người túm cổ một người. Ba người ấy là lính sen đầm; người kia là Giăng Van-giăng. [2] Một người đội, ý chừng chỉ huy cả bọn, đứng gần ở cửa. Y bước vào, tiến đến gần ông giám mục, giơ tay chào: – Bẩm Đức cha... Nghe thấy thế, Giăng Van-giăng đương lầm lì và có vẻ thất vọng, ngẩng lên nhìn, kinh hoàng. Anh lẩm bẩm: – Đức cha à! Vậy ra không phải là ông cụ xứ... Một tên lính quát: – Im! Đây là Đức Giám mục. Lúc ấy, ông giám mục mặc dầu cao tuổi cũng cố bước nhanh tới bên anh. Ông nhìn vào Giăng Van-giăng: – A, anh đấy à! Thấy anh tôi mừng làm sao! Nhưng này, tôi còn cho anh cả đôi chân đèn nữa kia mà, cũng bằng bạc đấy, có thể bán được hai trăm phơ-răng. Sao anh lại không mang đi một thể với bộ đồ ăn? Giăng Van-giăng giương con mắt nhìn con người đáng kính ấy. Vẻ mặt anh bây giờ tưởng không còn ngôn ngữ nào có thể tả rõ được. Viên đội nói: – Bẩm Đức cha, hoá ra tên này nói thật? Chúng tôi gặp nó đang đi như có ý chạy trốn. Chúng tôi bắt giữ lại để khám thì thấy có bộ đồ bạc này... Ông giám mục cười, ngắt lời y: – Và anh ấy nói rằng đêm hôm qua anh ấy ngủ ở nhà một ông cố đạo già và ông ấy đã cho anh chứ gì? Tôi đoán ra thế. Rồi các ông giải anh ta đến đây phải không? Lầm rồi. – Nếu vậy, chúng tôi có thể tha cho hắn đi chứ? – Hẳn rồi. Bọn lính buông Giăng Van-giăng ra. Anh lùi lại ngơ ngác như người mơ ngủ, lắp bắp nói không ra tiếng: – Tha cho tôi thật à? Một người lính nói: – Phải, tha cho mày đấy, mày không nghe thấy à? Ông giám mục lại nói: – Này, anh cầm nốt hai cây chân đèn rồi hãy đi nhé! Đèn đây. Ông đến chỗ lò sưởi, lấy hai cây đèn và đem lại cho Giăng Van-giăng. Hai người đàn bà lặng yên đứng nhìn không nói không rằng, không có một cử chỉ nào muốn ngăn trở ông giám mục. Giăng Van-giăng run bần bật. Như cái máy, anh giơ tay cầm lấy đôi đèn, mặt mày ngơ ngác. Ông giám mục nói: – Thôi, chúc anh lên đường bình yên. Nhân thể, lần sau anh có trở lại đây, nhớ không cần phải qua phía vườn. Cứ cửa lối qua phố mà đi. Ngày đêm lúc nào ra vào cũng được, cửa chỉ cài có cái then thôi. Rồi ông quay về phía bọn cảnh sát: – Thôi, các ông có thể về được rồi. Bọn lính đi ra. Giăng Van-giăng như người sắp ngất. Ông giám mục lại gần, khẽ bảo: – Đừng quên, đừng bao giờ quên rằng anh đã hứa với ta sẽ dùng chỗ tiền này để trở thành con người lương thiện nhé. Giăng Van-giăng không nhớ có hứa với ông giám mục điều gì hay không. Anh cứ đứng ngây người ra. Ông giám mục đã nhấn mạnh vào câu mình nói. Bây giờ bằng một giọng thật trang nghiêm, ông lại nói thêm: – Giăng Van-giăng, người anh em của tôi ơi, từ nay anh không còn là kẻ ác nữa, anh thuộc về phía người lương thiện rồi. Linh hồn của anh, ta đã mua đây, ta đem nó ra khỏi cõi hắc ám, ra khỏi tư tưởng sa ngã, ta đem dâng nó cho Chúa. [3]  (Vích-to Huy-gô, Những người khốn khổ, tập 1, bản dịch của Huỳnh Lý, Vũ Đình Liễn, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu, NXB Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 177 – 182) [1] So sánh Cùng tiếp nhận thông tin về việc mất bộ đồ ăn bằng bạc, hành động của bà Ma-gơ-loa và Giám mục My-ri-en trong đoạn văn này có gì khác nhau? [2] Dự đoán Bạn dự đoán bà Ma-gơ-loa và Giám mục My-ri-en sẽ phản ứng như thế nào khi thấy cảnh sát bắt Giăng Van-giăng về trước mặt họ? [3] Suy luận Vì sao Giám mục My-ri-en biết từ nay Giǎng Van-giǎng đã thuộc về phía người lương thiện? So sánh phản ứng của bà giúp việc Ma-gơ-loa và Đức giám mục My-ri-en đối với việc bị mất bộ đồ ăn bằng bạc. Phản ứng đó cho thấy điều gì về tính cách của họ?

Xem chi tiết 311 lượt xem 7 tháng trước

Đọc văn bản Cây đàn ghi ta và thực hiện các yêu cầu phía dưới: CÂY ĐÀN GHI TA Phê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca (Federico García Lorca) Ghi ta bần bật khóc. Buổi sáng vỡ bình yên. [1] Ghi ta bần bật khóc. Không thể nào dập tắt, không thể nào bắt im. Ghi ta bần bật khóc như nước chảy theo mương, như gió trườn trên tuyết. [2] Không thể nào dập tắt! Ghi ta khóc không ngừng những chuyện đời xa lắc, như mũi tên vô đích, như hoàng hôn thiếu vắng ban mai, như hạt cát miền Nam bỏng rát, xót xa than lạnh giá sắc sơn trà, Như chú chim đầu tiên gục chết trên cành. Ôi ghi ta nạn nhân khốn khổ đáng thương Của bàn tay – bộ dao năm lưỡi. [3] Hồng Thanh Quang dịch (In trong Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3, 1996, tr. 129) [1] Tưởng tượng Bạn hình dung như thế nào về tiếng ghi ta “bần bật khóc” và buổi sáng “vỡ bình yên”? [2] Suy luận Tiếng “ghi ta khóc”, tiếng “nước chảy theo mương” và “gió trườn trên tuyết” có điểm gì giống nhau? [3] Suy luận Hình ảnh so sánh “bàn tay – bộ dao năm lưỡi” gợi cho bạn cảm xúc gì? Xác định những biện pháp tu từ được sử dụng để miêu tả tiếng đàn ghi ta. Phân tích tác dụng của các biện pháp đó.

Xem chi tiết 778 lượt xem 7 tháng trước

Đọc phần văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nếu phía dưới. NGƯỜI U MÊ GẶP KẺ LỪA BỊP (Trích hài kịch Tác-tuýp (Tartuffe)) Mô-li-e Tác-tuýp (1664) là một trong những hài kịch lớn nhất của Mô-li-e, kể về Tác-tuýp – kẻ đạo đức giả đội lốt bậc chân tu, lọt vào gia đình tư sản sùng đạo Oóc-gông (Orgon), nhanh chóng thao túng tinh thần chủ nhà, gây xích mích bà cháu, bố – con, chồng – vợ, anh – em, chủ – tớ. Mặc dù được vợ kế là En-mia (Elmire), anh vợ là Clê-ăng (Cleante) và cô hầu gái Đô-rin (Dorine) ra sức can ngăn nhưng Oóc-gông vẫn mê muội, đuổi con trai Đa-mít (Damis) ra khỏi nhà, ép con gái Ma-ri-an (Mariane) lấy Tác-tuýp làm chồng, kí giấy sang tên toàn bộ tài sản và trao bí mật chính trị cho Tác-tuýp, suýt đẩy mình vào vòng lao lí. Văn bản dưới đây trích từ một số lớp của hồi I và hồi III, diễn ra tại nhà Oóc-gông, cho thấy bộ mặt dâm đãng, xảo trá của Tác-tuýp và sự u mê của Oóc-gông. Hồi I Lớp 4 Oóc-gông, Clê-ăng, Đô-rin Oóc-gông – À bác! Chào bác! Clê-ăng – Tôi vừa định về thì lại gặp chú, may quá! Oóc-gông – Đô-rin này... À, bác đợi tôi tí một tí nhé. Xin phép bác, tôi đang sốt ruột... để tôi hỏi xem công việc nhà ra làm sao... Hai hôm nay có xảy ra việc gì không? Ở nhà làm những gì? Có khoẻ cả không? Đô-rin – Hôm kia bà lên cơn sốt, đến tận chiều tối, đầu thì nhức như búa bổ. Oóc gông – Còn ông Tác-tuýp? Đô-rin – Ông Tác tuýp ấy ạ? Khoẻ ơi là khoẻ, đã to lại béo, da dẻ hồng hào, miệng đỏ thắm lên ấy. Oóc-gông – Tội nghiệp! Đô-rin – Tối, bà đắng mồm đắng miệng, chả ăn được miếng nào, đầu vẫn nhức dữ dội. Oóc-gông – Còn ông Tác-tuýp? Đô-rin – Chỉ có mình ông ta ăn, trước mặt bà. Ông ta thành kính với hai con gà gô, với lại nửa cái đùi cừu băm nhỏ. Oóc-gông – Tội nghiệp! Đô-rin – Suốt đêm bà không chợp mắt được lúc nào, người bà nóng như thiêu nên không ngủ được. Chúng cháu phải thức đến tận sáng để chăm sóc. Oóc-gông – Còn ông Tác-tuýp? Đô-rin – Ông ta buồn ngủ díp cả mắt lại, vừa rời bàn ăn là chui ngay vào buồng, lăn kềnh xuống cái giường ấm áp, đánh một giấc đến tận hôm sau. Oóc-gông – Tội nghiệp! Đô-rin – Sau cùng chúng cháu nói mãi bà mới chịu để cho chích máu; thế là bà thấy nhẹ hẳn đi. Oóc-gông – Còn ông Tác-tuýp? Đô-rin – Ông hồi phục tinh thần giỏi ra trò. Để luyện cho linh hồn mình chống đau khổ, trong bữa ăn sáng, ông ta uống liền một hơi bốn cốc rượu vang để bù vào chỗ máu bà bị mất. Oóc-gông – Tội nghiệp! Đô-rin – Thế là cả ông ấy, cả bà cháu bây giờ đều khoẻ. Cháu vào báo cho bà biết trước là ông mừng bà đã bình phục nhé. Hồi III Lớp 5 Tác-tuýp, Đô-rin Tác-tuýp (thấy Đô-rin, nói với người hầu của mình) – Này con, con cất cái áo gai với cái roi hành xác cho ta, và con hãy cầu Chúa lúc nào cũng soi sáng cho con. Có ai đến hỏi, bảo ta ra nhà lao phát tiền chẩn cho kẻ tù nhân. Đô-rin – Rõ khéo điệu, khéo lừa bịp chưa! Tác-tuýp – Chị cần gì? Đô-rin – Nói với ông... Tác-tuýp (rút cái khăn tay ở túi ra) – Chao ơi, lạy Chúa, tôi xin chị hãy cầm lấy cái khăn tay này rồi hãy nói. Đô-rin – Làm sao kia? Tác-tuýp – Chị che cái ngực chị đi, tôi không sao nhìn được, những thứ ấy làm tổn thương linh hồn và làm nảy ra những ý nghĩ tội lỗi. Đô-rin – Thế ra ông dễ bị cám dỗ thế kia à? [...] Tôi thì chẳng dễ thèm thuồng đến thế. Giờ ông có trần truồng như nhộng ra đây, thì cái thể xác ông cũng chẳng khiêu khích được tôi tí nào. Tác-tuýp – Chị ăn nói cho khiêm nhường một chút. Không thì tôi bỏ đi ngay tức khắc. Đô-rin – Không, không, chính tôi đi ngay bây giờ đây. Tôi chỉ cần nói với ông một câu thôi. Bà tôi xin ông cho nói một câu chuyện, bà tôi sắp xuống đây bây giờ. Tác-tuýp – Ôi! Tôi rất vui lòng. Đô-rin (nói một mình) – Gớm, dịu hẳn ngay đi! Đấy, mình nói có sai đâu. Tác-tuýp – Bà có xuống ngay không chị? Đô-rin – Hình như tôi đã thấy tiếng bà rồi đấy. Đúng rồi, chính bà tôi vào đấy; thôi, tôi để hai người nói chuyện. Lớp 3 Tác-tuýp, En-mia Tác-tuýp – Cầu Chúa mãi mãi ban phước lành cho quý thể và cho linh hồn bà. Cầu Người phù hộ bà suốt đời được sung sướng, như kẻ mọn này vẫn hằng mong ước. En-mia – Đa tạ ông vì lời cầu kính Chúa ấy. Nhưng ta hay ngồi xuống ghế cho tiện. Tác-tuýp (ngồi) – Sau cơn khó ở vừa qua, bà đã thấy người hồi phục chưa ạ? En-mia (ngồi) – Đã khá lắm, khỏi hẳn sốt rồi ạ. [...] Tôi muốn thưa riêng với ông một câu chuyện. Cũng may là ở đây vắng vẻ, không có ai tọc mạch. Tác-tuýp – Tôi cũng lấy làm sung sướng vô cùng. Thưa bà, được diễm phúc cùng bà ngồi nói chuyện, mặt đối mặt thì còn gì bằng. Tôi vẫn cầu xin Chúa ban cho một khắc như thế này, mà cho đến nay Người vẫn chưa giáng phúc cho. En-mia – Về phần tôi, tôi chỉ muốn thưa với ông một câu chuyện, mong ông cởi mở cả tấm lòng, đừng giấu tôi điều gì. Tác-tuýp – Tôi cũng chỉ mong ước một đặc ân cao quý nhất là được giãi bày hết nỗi lòng với bà. Tôi xin thề rằng bấy lâu nay nếu tôi có kêu rên về việc khách khứa ra vào nơi đây vì dung nhan kiều diễm của bà thì sự đó cũng chẳng phải là tôi oán thù gì bà. Trái lại, đó chỉ là vì tôi quá nhiệt tình, chỉ vì một tấm tình... (Đặt tay lên đầu gối En-mia). En-mia – Tay ông làm gì thế? Tác-tuýp – Tôi sờ cái áo, thứ vải này mịn quá. En-mia – Ồ! Xin ông, ông bỏ tay ra, tôi có máu hay buồn. (En-mia dịch ghế ra, Tác-tuýp nhích ghế theo). Tác-tuýp – Trời! Thứ hàng ren này đẹp lạ. Bây giờ người ta làm mới tuyệt làm sao! Chưa hề thấy người ta làm các thứ hàng khéo đến thế bao giờ. En-mia – Đúng thế. Nhưng ta hãy nói vào chuyện của ta một tí. Nghe đồn nhà tôi muốn bội lời ước cũ và gả cô bé cho ông, có đúng thế không ạ? Tác-tuýp – Ông nhà cũng có nói qua với tôi, nhưng, thưa bà, điều ấy đâu có phải là hạnh phúc mà tôi mơ ước. Cái hạnh phúc kì diệu mà tôi hằng sở nguyện nó ở chỗ khác kia. En-mia – Ấy là vì ông chả thiết gì ở cõi đời trần tục này. Tác-tuýp – Lòng tôi đâu có phải là gỗ đá. En-mia – Riêng tôi lại cứ tưởng ông chỉ có những khát vọng về thiên đường và chẳng màng đến cái gì ở trần gian này. Tác-tuýp – Lòng người say sưa với những cái đẹp vĩnh cửu, nhưng cũng không vì thế mà không thích những cái đẹp trần tục. Chúng ta dễ đắm say trước những công trình hoàn mĩ mà Chúa sáng tạo. Ở người phụ nữ, có hình ảnh diễm lệ của Chúa. [..] Bà là một kì công của tạo hoá. Trông thấy bà, tôi không thể không kính phục Đấng sinh ra muôn loài. Lòng tôi bừng cháy một mối tình nồng nàn trước cái hình ảnh tuyệt mĩ của Chúa là bà. [...]. En-mia – Thật là một lời tỏ tình lịch sự, nhưng cũng khá lạ lùng. Tôi tưởng ông phải nén lòng hơn thế và suy nghĩ một tí xem thế nào thì mới phải. Một người sùng đạo như ông mà ai cũng bảo là... Tác-tuýp – Ấy thưa bà, dù sùng đạo, tôi vẫn chỉ là một con người. Trước nhan sắc thần tiên của bà, người ta chỉ có đắm đuối mà thôi, chứ không lí luận gì được. [...] Tất cả ước nguyện của tôi đều hướng về vẻ đẹp mê hồn của bà. Đã có đến nghìn lần tôi tỏ tình ở đầu mày cuối mắt, ở những tiếng thở dài não nuột. Hôm nay tôi mượn lời nói để giãi bày nỗi lòng tường tận hơn. Nếu trái tim nhân hậu của bà đoái tới nỗi đau khổ của kẻ nô lệ hèn mọn này, nếu bà rủ lòng thương mà hạ cố đến kẻ bất tài này, thì, thưa quý phu nhân kiều diễm, kẻ này xin thờ phụng phu nhân một cách không có lòng mộ đạo nào so sánh được. Với tôi, bà không lo gì về danh dự hết và cũng không sợ tôi không trung thành. Những hạng tình nhân nơi cung đình được phụ nữ say mê thường cứ khoa trương rầm rĩ, khua chuông đánh mõ cho mọi người biết cái diễm phúc họ đã giành được, thế là họ làm ô danh những kẻ họ thờ phụng. Còn bọn chúng tôi thì yêu rất kín đáo, không bao giờ để lộ mảy may. Chúng tôi càng giữ tiếng cho mình bao nhiêu thì người chúng tôi yêu cũng được giữ kín bấy nhiêu. Những ai nhận tấm lòng tha thiết của chúng tôi thì được hưởng ái tình không tai tiếng và lạc thú không chút sợ hãi. En-mia – Tôi đã nghe ông nói, ông đã giãi bày tâm sự bằng những lời hùng biện khá bạo đấy. Ông không sợ tôi sẽ đem câu chuyện phong tình này kể lại với chồng tôi hay sao? Ông không sợ nếu chồng tôi biết mối tình đường đột này thì lòng yêu mến đối với ông sẽ giảm đi hay sao? [...] Tôi sẽ không mách chồng tôi, nhưng về phần ông thì, ngược lại, tôi yêu cầu ông một điều, là ông hãy giục chồng tôi cho Va-le-rơ (Vallere) cưới Ma-ri-an ngay, ông phải dứt khoát, không được làm lôi thôi gì cả. Từ rày, ông phải từ bỏ không được lợi dụng cái uy quyền bất chính để hi vọng đoạt lấy tài sản của người khác và... [Lược dẫn: Đến đây, Đa-mít từ chỗ nấp bước ra, sau đó khi Oóc-gông vào, anh đem chuyện mình nghe được kể cho cha biết. Tác-tuýp xảo trá xoay đổi tình thế bằng “khổ nhục kể”, khiến Oóc-gông tưởng Đa-mít bịa đặt. Ông đuổi Đa-mít ra khỏi nhà, tuyên bố truất phần gia tài của con trai, đẩy nhanh việc gả con gái cho Tác-tuýp.] Lớp 7 Oóc-gông, Tác-tuýp Oóc-gông – Đời thuở nhà ai lại lăng mạ một bậc thánh nhân như thế bao giờ! Tác-tuýp – Lạy Chúa! Chúa tha tội cho kẻ đã làm con khổ nhục. (Nói với Oóc-gông) Bác ơi, bác có hiểu thấu tôi thấy người ta định bôi nhọ tôi trước mặt bác, tôi khổ tâm như thế nào không? Oóc-gông – Khổ quá! Tác-tuýp – Chỉ nghĩ đến sự bội bạc đó, lòng tôi cũng đủ tê tái ê chề, tôi ghê tởm... Tôi đau xé ruột xé gan, không thể nói nên lời, có lẽ tôi chết mất, bác ơi. Oóc-gông (vừa khóc vừa chạy ra phía cửa mà con trai mới ra khỏi) – Thằng bất lương! Không hiểu sao lúc nãy tao lại tha cho mày mà không đập chết mày ngay lúc ấy. Bác ơi, bác hãy bình tâm lại, xin bác đừng giận. Tác-tuýp – Thôi, thôi, hãy gác những chuyện bàn cãi bực mình này lại. Tôi thấy rõ là vì tôi mà gia đình bác lục đục, tôi nghĩ rằng tôi cần đi khỏi cho rồi, bác ạ. Oóc-gông – Chết nỗi, sao bác lại dạy thế? Tác-tuýp – Cả nhà hằn thù tôi, rõ ràng là ai cũng tìm cách làm cho bác nghi ngờ lòng chân thành của tôi. Oóc-gông – Bác chấp làm gì. Bác xem, tôi có thèm nghe đứa nào đâu. Tác-tuýp – Hẳn họ chưa buông tha đâu. Lần này, bác vứt bỏ những chuyện bịa đặt ấy, nhưng biết đâu lần sau bác lại bùi tai nghe. Oóc-gông – Không, không bao giờ, bác ạ. Tác-tuýp – Nhưng, bác ơi, vợ thỏ thẻ bên tai thì chắc là dễ làm xiêu lòng chồng. Oóc-gông – Không không. Tác-tuýp – Thôi, bác cứ để tôi đi, cho người ta chả còn lí do gì gây sự với tôi. Oóc-gông – Không, bác phải ở lại, không có bác thì tôi sống làm sao! Tác-tuýp – Đã thế thì tôi phải đành nhẫn nhục chịu đau khổ vậy. Tác-tuýp – Thì thôi, ta không nói chuyện ấy nữa. Nhưng phải liệu xử sự như thế nào mới được. Chuyện danh dự là khó lắm. Và tôi cũng phải đề phòng lời ong tiếng ve, phải làm sao cho người ta khỏi nghi ngờ nhảm nhí, để tình bằng hữu của chúng ta khỏi bị tổn thương. Tôi sẽ tránh mặt bác gái, bác sẽ thấy tôi... Oóc-gông – Không được, bác sẽ cứ trò chuyện với nhà tôi, thấy xác tất! Tôi chỉ muốn lúc nào mọi người cũng thấy bác đứng ngồi bên cạnh nhà tôi; ấy, tôi cứ thích trêu gan thiên hạ như vậy. Chưa hết đâu, tôi còn muốn chỉ để một mình bác thừa hưởng gia tài của tôi, và ngay bây giờ tôi đi sang tên cho bác một cách hợp lệ tất cả cái cơ nghiệp này, xem chúng nó làm gì được nào. Bác là người bạn chân thực, người bạn tốt mà tôi chọn làm rể, tôi quý gấp trăm ngàn lần vợ con, họ hàng. Bác không từ chối chứ? Tác-tuýp – Lạy Chúa! Ý Chúa đã định thì phải tuân theo. Oóc-gông – Tội nghiệp chưa! Phải mau mau làm giấy tờ mới được, cho những đứa ganh ghét cứ uất lên mà chết! (In trong Mô-li-e – Tuyển tập kịch, tập I, Đỗ Đức Hiểu dịch, NXB Văn học, 1964, tr. 46 – 90) Tóm tắt nội dung câu chuyện trong văn bản Người u mê gặp kẻ lừa bịp, từ đó xác định tình huống hài kịch

Xem chi tiết 442 lượt xem 7 tháng trước