Danh sách câu hỏi tự luận ( Có 510,025 câu hỏi trên 10,201 trang )

Hãy sắp xếp các thông tin sau trong văn bản vào ô tương ứng ở bảng bên dưới: a) Giới thiệu chung về bộ phim Người cha và con gái b) Người cha chia tay con gái ở cái bến nhỏ c) Loại phim, đạo diễn, năm thực hiện, thời lượng, giải thưởng đạt được,... d) Người con gái kiên trì trở lại bến sông tìm cha hết năm này qua năm khác, từ lúc còn là cô bé cho đến khi đã là bà cụ già và bến sông đã hoá thành một vùng lau lách um tùm e) Giới thiệu về nghệ thuật của bộ phim Người cha và con gái g) Tông màu chủ đạo của phim h) Cảnh vẽ trong phim i) Bà lão bước xuống lòng bến, phát hiện con thuyền năm xưa của người cha bị mắc cạn trong cát k) Các hình ảnh ẩn dụ trong phim l) Động tác, cử chỉ, âm nhạc nền của phim m) Bà lão nằm xuống lòng thuyền, trong phút chốc bả thấy hình ảnh người cha hiện ra, bà lão trở thành cô bé, hai cha con ôm chặt lấy nhau trong xúc động n) Nêu thông điệp, ý nghĩa của bộ phim o) Bộ phim làm người đọc sống lại những kỉ niệm thời thơ ấu, giúp nhận ra sự quý giá vô cùng của tình phụ tử p) Hãy trân trọng người cha, người mẹ,... q) Giới thiệu nội dung bộ phim Người cha và con gái Thông tin chính của mỗi phần Thông tin chi tiết làm rõ cho thông tin chính Phần (1): ...   Phần (2): ...   Phần (3): ...   Phần (4): ...  

Xem chi tiết 465 lượt xem 1 năm trước

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: TIỂU THUYẾT TẮT ĐÈN CỦA NGÔ TẤT TỐ (1) Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945. Tuy được in thành sách vào năm 1939, nhưng thực ra đây là tác phẩm đã được tác giả ấp ủ từ nhiều năm trước. Ngay từ năm 1936, báo Tương lai và báo Việt nữ đã đăng một số chương trong Tắt đèn. Do ảnh hưởng của phong trào đấu tranh sôi nổi thời kì Mặt trận Dân chủ (1936 – 1939), vấn đề nông dân đã trở thành một đề tài lớn trong văn học Việt Nam đương thời, được nhiều nhà văn thuộc các khuynh hướng khác nhau đề cập. Cuộc sống cơ cực của người nông dân bị áp bức, bóc lột tàn tệ được Ngô Tất Tố quan tâm tha thiết từ lâu. Do có sự gắn bó sâu sắc với người nông dân, yêu cầu của thời đại đã trở thành sự thôi thúc bên trong của nhà văn. Tắt đèn là sự tổng hợp cả bề rộng và bề sâu những điều ông đã quan sát, cảm xúc, suy nghĩ về cuộc sống người nông dân đương thời. (2) Mở đầu tác phẩm là không khí căng thẳng, ngột ngạt của làng Đông Xã trong những ngày sưu thuế. Cổng làng đóng lại, công việc cày bừa đình đốn, bọn li trưởng, trương tuần chửi bới, quát tháo om sòm; mấy tên cai lệ, lính cơ tay thước, roi song, dây thừng đi tróc người thiếu thuế. Tiếng trống, mõ, tù và inh ỏi, tiếng thét lác, đánh đập, tiếng kêu khóc thảm thiết vang lên như trong một cuộc săn người. Gia đình chị Dậu thuộc loại “nhất nhì trong hạng cùng đinh” nên chị phải chạy vạy ngược xuôi để có tiền nộp suất sưu cho anh Dậu. Bọn nhà giàu chẳng những không cho chồng chị vay mượn mà còn nhiếc móc, đe doạ. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai xông đến đánh trói, lôi ra đình cùm kẹp. Chị đành phải dứt ruột đem cái Tí, đứa con gái đầu lòng lên bảy tuổi, bán cho lão Nghị Quế bên thôn Đoài. Vợ chồng lão giàu có mà keo kiệt, tàn ác, đã lợi dụng tình cảnh khốn cùng của chị, mua cái Tí và cả một ổ chó mà chỉ trả hai đồng bạc! Cộng với mấy hào bán gánh khoai, chị tưởng vừa đủ nộp suất sưu và chồng sẽ được tha về; ngờ đầu, bọn lí dịch lại bắt chị phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái! Thật là cùng đường. Giữa đình làng, tiếng kêu uất ức của chị vang lên thảm thiết. Đêm hôm ấy, người ta công anh Dậu rũ rượi như một xác chết ở ngoài đình về trả cho chị. Gọi mặt anh không tỉnh, chị vô cùng hoảng sợ, đau đớn. May sao, nhờ bà con xung quanh xúm đến cứu giúp, anh Dậu đã tỉnh lại. Một bà lão hàng xóm ái ngại cảnh nhà chị nhịn đói suốt từ hôm qua, mang đến cho chị bát gạo để nấu cháo. Sáng sớm hôm sau, khi anh Dậu vừa cố ngồi dậy cầm bát cháo, chưa kịp đưa lên miệng thì tên cai lệ và gã đầy tớ lí trưởng lại xộc vào định trói anh mang đi. Van xin thiết tha cũng không được, chị Dậu đã liều mạng chống lại quyết liệt, đánh ngã cả hai tên tay sai vô lại. Chị bị bắt lên huyện. Lão quan phủ Tư Ấn lợi dụng tình cảnh của chị, cho chị tiền và giở trò bỉ ổi. Chị đã kiên quyết cự tuyệt, giằng nắm bạc ném vào mặt hắn và du hắn ngã kềnh. Cuối cùng, để có tiền nộp thuế cho chồng, chị đành gửi con, nhận lời lên tỉnh đi ở vú. Chủ của chị là một quan phủ già, dâm đãng, trong một đêm “tắt đèn”, đã mò vào buồng chị... Chị Dậu gạt mạnh bàn tay của lão, vùng chạy ra ngoài sân, giữa lúc trời tối đen như mực, “tối như tiền đồ của chị”... (3) Tắt đèn đã dựng lên một bức tranh chân thực, điển hình về xã hội nông thôn Việt Nam đương thời, có sức tố cáo mãnh liệt. Qua mấy ngày sưu thuế, tác giả xoáy sâu vào nạn thuế thân (còn gọi là thuế định) đánh vào nam giới, một thứ thuế đã man, quái gở, “một di tích Trung cổ”. Tác phẩm đã phê phán xã hội thực dân, phong kiến và thể hiện thật cảm động cuộc sống cùng quẫn, thê thảm của người nông dân lao động bị áp bức, bóc lột. Tác phẩm tập trung làm nổi bật mâu thuẫn đối kháng gay gắt trong lòng nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Tuy dung lượng không lớn, Tắt đèn đã đưa ra đủ mặt những đại diện của giai cấp thống trị trong xã hội nông thôn khi đó: bọn địa chủ độc ác, keo kiệt; bọn cường hào tham lam, thô lỗ; bọn quan lại dâm ô, bỉ ổi; bọn tay sai đầu trâu mặt ngựa;... Sau bọn chúng, thấp thoáng bóng “ông Tây” với chính sách sưu thuế dã man. Với thái độ yêu ghét dứt khoát, không chút mơ hồ, Ngô Tất Tố đã nhìn thấu bản chất tàn ác, xấu xa, mất hết tính người của chúng, miêu tả chúng bằng những nét sắc sảo, linh hoạt. Đặc sắc hơn cả, Tắt đèn đã xây dựng được một điển hình chân thực, đẹp đẽ, khoẻ mạnh về người phụ nữ nông dân lao động. Qua nhân vật chị Dậu, tác giả không những hiểu sâu nỗi khổ của người nông dân mà còn khẳng định phẩm chất đẹp đẽ, không gì có thể vùi dập của họ. Tác phẩm có những trang thật cảm động miêu tả nỗi lòng người mẹ, người vợ của chị Dậu. Chị còn là một phụ nữ lao động đảm đang, tháo vát, thông minh, ý nhị; sống trong nghèo khổ, chị vẫn có một ý thức về nhân phẩm mạnh mẽ, tiến tài không thể làm vẫn đục, bạo lực không thể khuất phục. Chị Dậu rất mực dịu hiển nhưng không yếu đuối; khi cần, chị đã phản kháng dũng cảm, thể hiện sức sống kiện cường, bất khuất của người phụ nữ nông dân Việt Nam. Tắt đèn là một trong những thành tựu đặc sắc của tiểu thuyết Việt Nam trước năm 1945. Kết cấu tác phẩm chặt chẽ, rất liền mạch, giàu tính kịch. Đặc biệt, với số trong trang ít ỏi, Tắt đèn đã dựng nên một số tính cách điển hình" khá hoàn chỉnh một hoàn cảnh điển hình”. Khi vừa ra đời, tác phẩm đã được dư luận tiến bộ nhiệt liệt hoan nghênh. Vũ Trọng Phụng coi Tắt đèn là “một tiểu thuyết có luận đề xã hội, hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy” (Theo Nguyễn Hoành Khung, Từ điển văn học bộ mới, NXB Thế giới, Hà Nội, 2003) a) Văn bản Tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố được viết nhằm mục đích gì?

Xem chi tiết 4.9 K lượt xem 1 năm trước

Các phát biểu sau đây là đúng hay sai? STT Phát biểu Đúng Sai 1 Văn bản giới thiệu một cuốn sách hoặc một bộ phim thuộc loại văn bản nghị luận.     2 Mục đích của văn bản giới thiệu một cuốn sách, bộ phim là trình bày cho người đọc biết các thông tin cơ bản, nổi bật về nội dung, hình thức, giá trị,... của cuốn sách hoặc bộ phim đó.     3 Nội dung của văn bản giới thiệu một cuốn sách hoặc một bộ phim chỉ bao gồm thông tin khách quan về cuốn sách hoặc bộ phim đó.     4 Văn bản giới thiệu một cuốn sách hoặc một bộ phim thường được trình bày theo trình tự: từ thông tin khái quát đến thông tin cụ thể, từ thông tin khách quan về cuốn sách, bộ phim đến thông tin chủ quan của người đọc, người xem hoặc người giới thiệu về cuốn sách, bộ phim đó.     5 Ngoài phương tiện ngôn ngữ, bài giới thiệu cuốn sách, bộ phim còn sử dụng kết hợp phương tiện phi ngôn ngữ như hình ảnh, sơ đồ,... để tăng hiệu quả của việc cung cấp thông tin.     6 Bài giới thiệu về cuốn sách, bộ phim hoàn toàn giống với bài phân tích tác phẩm văn học.    

Xem chi tiết 475 lượt xem 1 năm trước

Đọc đề bài và thực hiện các yêu cầu bên dưới. Đề bài: Phân tích đoạn trích sau để làm rõ nghệ thuật trào phúng mà tác giả đã sử dụng. “Bốn chú thợ phụ ra, hai chú cởi tuột quần cộc của ông Giuốc-đanh mặc lúc tập kiếm vừa rồi, hai chú thì lột áo ngắn rồi họ mặc bộ lễ phục mới vào cho ông. Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục xong, đi đi lại lại giữa đám thợ, phô áo mới cho họ xem có được không. Cởi áo, mặc áo, chân bước, miệng nói, tất cả đều theo nhịp của dàn nhạc. THỢ PHỤ – Bẩm ông lớn, xin ông lớn ban cho anh em ít tiền uống rượu. ÔNG GIUỐC-ĐANH – Anh gọi ta là gì? THỢ PHỤ – Bẩm, ông lớn ạ. ÔNG GIUỐC-ĐANH – Ông lớn ư? Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bo bo giữ kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là “ông lớn”. Đây, ta thưởng về tiếng “ông lớn” đây này! THỢ PHỤ – Bẩm cụ lớn, anh em chúng tôi đội ơn cụ lớn lắm lắm. ÔNG GIUỐC-ĐANH – “Cụ lớn”, ồ, ồ, cụ lớn! Chú mày thong thả tí đã. Cái tiếng “cụ lớn” đáng thưởng lắm. “Cụ lớn” không phải là một tiếng tầm thường đâu nhé. Này, cụ lớn thưởng cho các chú đây. THỢ PHỤ – Dám bẩm đức ông, anh em chúng tôi sẽ đi uống rượu chúc sức khoẻ đức ông. ÔNG GIUỐC-ĐANH – Lại “đức ông” nữa! Hà hà! Hà hà! Các chú hãy đợi tí, đừng đi vội. Ta là đức ông kia mà! (nói riêng) Của đáng tội, nếu nó tôn ta lên bậc tướng công, thì nó sẽ được cả túi tiền mất. Đây nữa này, thưởng cho chú về tiếng “đức ông” đấy nhé! THỢ PHỤ – Dạ, bẩm đức ông, anh em chúng tôi xin bái tạ ơn người. ÔNG GIUỐC-ĐANH – nói riêng – Nó như thế là phải chăng, nếu không ta đến mất tong cả tiền cho nó thôi. Bốn người thợ phụ vui mừng nhảy múa.”. (Trích Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục, Ngữ văn 8, tập một, NXB Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 2023) a) Nêu những nhiệm vụ cụ thể em cần chuẩn bị trước khi viết bài văn này.

Xem chi tiết 367 lượt xem 1 năm trước

Tìm thành phần chuyển tiếp, thành phần tình thái trong những câu dưới đây. Chỉ ra ý nghĩa, tác dụng của mỗi thành phần đó. a) May ra có lẽ mợ không mắng đâu. (Thạch Lam) b) Vậy biến đổi khí hậu liên quan thế nào đến nước biển dâng? Trước hết, do nhiệt độ tăng cao, các khối băng, tuyết từ Bắc Cực, Nam Cực và các đỉnh núi cao tan ra, chảy ra biển. [...] Thứ đến, nước dâng do hiện tượng dãn nở nhiệt của nước biển. (Lưu Quang Hưng) c) Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. (Ngô Tất Tố) d) Sơn biết lũ trẻ con các gia đình ấy chắc bây giờ đương đợi mình ở cuối chợ để đánh khăng, đánh đáo. (Thạch Lam) e) Trong tầm quan sát của Trần Tế Xương, tất cả mọi vấn đề liên quan đến thi cử đều bị “biến dạng” trong mối quan hệ giữa danh và thực, tài và lực, giữa cái cũ lạc hậu nhưng chưa tiêu tan và cái mới vẫn chưa thắng thế. Nói cách khác, thơ Trần Tế Xương đã hoán cải ngay cả những bi kịch thi cử và thất vọng cá nhân thành một chuỗi cười dài. (Nguyễn Hữu Sơn)

Xem chi tiết 5.4 K lượt xem 1 năm trước