Giải SBT Ngữ Văn 12 CTST Bài 7. Trong ánh đèn thành thị có đáp án

18 lượt thi 21 câu hỏi

Danh sách câu hỏi:

Câu 5:

Đọc văn bản Đôi chân đèn bằng bạc (trích Những người khốn khổ) và thực hiện các yêu cầu phía dưới:

ĐÔI CHÂN ĐÈN BẰNG BẠC

(Trích tiểu thuyết Những người khốn khổ)

Vích-to Huy-gô

Vích-to Huy-gô (Victor Hugo) Vích-to Huy-gô (1802 – 1885) là văn hào vĩ đại nhất trong trào lưu văn học lãng mạn Pháp thế kỉ XIX. Ngoài di sản thơ ca và kịch đồ sộ, ông còn để lại những kiệt tác tiểu thuyết mang đậm cảm hứng lãng mạn: Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris), Những người khốn khổ, Chín mươi ba,...

So sánh phản ứng của bà giúp việc Ma-gơ-loa và Đức giám mục My-ri-en đối với việc bị mất (ảnh 1)

Tiểu thuyết Những người khốn khổ kể về cuộc đời của người tù khổ sai Giăng Van-giăng (Jean Valjean). Ra tù sau 19 năm bị giam cầm vì ăn cắp bánh mì cho đàn cháu đói khổ và nhiều lần vượt ngục không thành, Giăng Van-giăng được Giám mục My-ri-en (Myriel) cho tá túc khi không nhà trọ nào nhận ông. Ông được giám mục cảm hoá (Nguồn: shutterstock.com) với lời dặn phải trở thành người lương thiện.

Tám năm sau, Giăng Van-giăng trở thành ông Ma-đơ-len (Madeleine) đáng kính, thị trưởng của một thành phố nhỏ. Cô công nhân Phăng-tin (Fantine) trong nhà máy của ông, vì chưa chồng mà có con nên bị xua đuổi khỏi nhà máy, phải gửi con gái là bé Cô-dét (Cosette) ở nhờ nhà Tê-nác-đi-ê (Thenardier), một chủ quan trọ lưu manh, rồi bán tóc, bán răng, bán thân để kiếm tiền nuôi con. Khi cô hấp hối, ông Ma-đơ-len mới hay chuyện và hứa sẽ chăm sóc Cô-dét thay cô. Cùng lúc ấy, để cứu một người khác khỏi bị kết tội oan do bị thanh tra Gia-ve (Javert) nhầm với mình, Giăng Van-giăng ra thú nhận về danh tính thật của mình, sau đó vượt ngục và chuộc Cô-dét khỏi tay chủ quán trọ Tê-nác-đi-ê, đưa em lên Pa-ri và nhận em làm con gái.

Trong cuộc nổi dậy năm 1832, Giăng Van-giăng tham gia chiến đấu bên cạnh các chiến sĩ cộng hoà trẻ tuổi, trong đó có chàng sinh viên Ma-ri-uýt (Marius), người yêu của Cô-dét, và chú bé lang thang Ga-vơ-rốt (Gavroche), đứa con trai bị bỏ rơi của Tê-nác-đi-ê. Giăng Van-giăng cứu sống Gia-ve và Ma-ri-uýt khi tất cả mọi người xung quanh đều hi sinh. Khó xử trước hành động cao thượng của Giăng Van-giăng, Gia-ve tự sát. Ma-ri-uýt kết hôn với Cô-dét và dần xa lánh Giăng Van-giăng do biết về quá khứ của ông.

Nhiều năm sau, khi Giăng Van-giăng hấp hối, Ma-ri-uýt mới hiểu rõ tấm lòng cao thượng của ông và đưa Cô-dét đến gặp ông. Trước khi qua đời, dưới ánh sáng của đôi chân đèn bằng bạc, Giăng Van-giăng dặn đôi vợ chồng trẻ: “Trên đời này chỉ có một điều ấy thôi, đó là yêu thương nhau”.

Đoạn trích Đôi chân đèn bằng bạc rút từ Chương 12 của tiểu thuyết Những người khốn khổ. Lúc này Giăng Van-giăng vừa ra tù sau 19 năm khổ sai. Cầm tờ giấy thông hành màu vàng, dấu hiệu cho thấy người mang nó đã từng phạm tội, Giăng Van-giăng bị tất cả các nhà trọ từ chối, chỉ có Giám mục My-ri-en cho ông tá túc. Đêm đó, ông lấy trộm bộ đồ ăn bằng bạc của giám mục và bỏ đi.

****

Sáng hôm sau, mặt trời vừa mọc, ông giám mục đã ra đi bách bộ ngoài vườn. Bà Ma-gơ-loa (Magloire) hớt hải chạy đến:

– Đức cha, thưa Đức cha, Đức cha có biết cái giỏ đồ bạc ở đâu không?

– Có.

– Lạy Chúa! May quá! Con đang không biết nó chạy đi đâu.

Ông giám mục vừa nhặt được cái giỏ ở trên luống hoa. Ông đưa cho bà.

– Giỏ đây.

– Ô hay! – bà Ma-gơ-loa kêu – Cái giỏ không! Thế còn bộ đồ bạc?

– À, bà tìm bộ đồ bạc à? Thế thì tôi không biết.

– Trời đất ơi! Bị mất trộm hết rồi! Chính cái thằng tối hôm qua nó lấy rồi!

Và thoáng một cái, bà chạy vụt vào phòng nguyện, đến chỗ giường khách, rồi đảo trở ra. Ông giám mục đang cúi xuống bồn hoa nhìn mấy cây hoa bị cái giỏ quăng phải đè gẫy. Nghe tiếng bà Ma-gơ-loa kêu, ông ngẩng người lên. [1]

– Thưa Đức cha, nó đi rồi! Đồ bạc bị mất trộm rồi! Vừa kêu lên như thế, bà lại nhìn thấy ở góc vườn có vết người mới trèo qua tường làm lở cả bờ vôi.

– Đây này! Nó trèo qua lối này đây. Nó nhảy ra lối phố Cơ-sơ-phi-lê (Cochefilet)! Ả, quân khốn kiếp! Nó lấy trộm bộ đồ bạc của nhà ta rồi còn gì.

Ông giám mục yên lặng một lát, ngẩng nhìn bà Ma-gơ-loa một cách nghiêm trang và ôn tồn bảo:

– Nhưng này, bộ đồ bạc ấy có phải là của nhà ta không đã?

Bà Ma-gơ-loa ngẩn người ra. Hai người đứng lặng yên một lát, ông giám mục lại nói tiếp:

Bà Ma-gơ-loa này, lâu nay ta cứ giữ mãi bộ đồ bạc ấy là sai đấy. Nó là của kẻ khó. Mà người ấy là hạng người nào? Chính là một kẻ khó mà.

– Chao ôi! Lạy Chúa! Tôi với cô Báp-ti-xtin (Baptistine) thì nói làm gì. Chúng tôi thế nào cũng xong. Nhưng còn Đức cha: Từ nay thì Đức cha ăn bằng gì? Ông giám mục nhìn bà, dáng ngạc nhiên:

– Ô hay! Thế không có thìa nĩa thiếc à?

Bà Ma-gơ-loa so vai:

– Thiếc ăn có mùi tanh.

– Thế thì dùng đồ sắt.

Bà Ma-gơ-loa nhăn mặt lại:

– Sắt có vị hạn.

– Nếu thế thì dùng đồ gỗ vậy.

Một lúc sau, ông ăn sáng ở ngay cái bàn chỗ Giăng Van-giăng ngồi hôm trước. Vừa ăn, ông vừa vui vẻ nói chuyện. Cô em trầm tĩnh ngồi nghe và bà Ma-gơ-loa thì lẩm bẩm càu nhàu một mình. Ông bảo: Chấm miếng bánh vào sữa thì cần gì phải thìa nĩa, dù là bằng gỗ đi nữa.

Bà Ma-gơ-loa vừa đi đi lại lại vừa lẩm bẩm:

– Đời thuở nhà ai lại đi tiếp rước một thằng như thế vào nhà bao giờ! Lại còn cho nó nằm ngay bên cạnh phòng mình. Phúc đức làm sao nó lại chỉ mới có lấy của mà thôi! Trời ơi là trời! Cứ nghĩ đến mà rùng mình!

Hai anh em ăn xong sắp đứng dậy thì có người gõ cửa. Ông giám mục bảo:

– Cứ vào.

Cửa mở. Một tốp người kì quặc hùng hổ kéo nhau vào. Ba người túm cổ một người. Ba người ấy là lính sen đầm; người kia là Giăng Van-giăng. [2]

Một người đội, ý chừng chỉ huy cả bọn, đứng gần ở cửa. Y bước vào, tiến đến gần ông giám mục, giơ tay chào:

– Bẩm Đức cha...

Nghe thấy thế, Giăng Van-giăng đương lầm lì và có vẻ thất vọng, ngẩng lên nhìn, kinh hoàng. Anh lẩm bẩm:

– Đức cha à! Vậy ra không phải là ông cụ xứ...

Một tên lính quát:

– Im! Đây là Đức Giám mục.

Lúc ấy, ông giám mục mặc dầu cao tuổi cũng cố bước nhanh tới bên anh. Ông nhìn vào Giăng Van-giăng:

– A, anh đấy à! Thấy anh tôi mừng làm sao! Nhưng này, tôi còn cho anh cả đôi chân đèn nữa kia mà, cũng bằng bạc đấy, có thể bán được hai trăm phơ-răng. Sao anh lại không mang đi một thể với bộ đồ ăn?

Giăng Van-giăng giương con mắt nhìn con người đáng kính ấy. Vẻ mặt anh bây giờ tưởng không còn ngôn ngữ nào có thể tả rõ được. Viên đội nói:

– Bẩm Đức cha, hoá ra tên này nói thật? Chúng tôi gặp nó đang đi như có ý chạy trốn. Chúng tôi bắt giữ lại để khám thì thấy có bộ đồ bạc này...

Ông giám mục cười, ngắt lời y:

– Và anh ấy nói rằng đêm hôm qua anh ấy ngủ ở nhà một ông cố đạo già và ông ấy đã cho anh chứ gì? Tôi đoán ra thế. Rồi các ông giải anh ta đến đây phải không? Lầm rồi.

– Nếu vậy, chúng tôi có thể tha cho hắn đi chứ?

– Hẳn rồi.

Bọn lính buông Giăng Van-giăng ra. Anh lùi lại ngơ ngác như người mơ ngủ, lắp bắp nói không ra tiếng:

– Tha cho tôi thật à?

Một người lính nói:

– Phải, tha cho mày đấy, mày không nghe thấy à?

Ông giám mục lại nói:

– Này, anh cầm nốt hai cây chân đèn rồi hãy đi nhé! Đèn đây.

Ông đến chỗ lò sưởi, lấy hai cây đèn và đem lại cho Giăng Van-giăng. Hai người đàn bà lặng yên đứng nhìn không nói không rằng, không có một cử chỉ nào muốn ngăn trở ông giám mục.

Giăng Van-giăng run bần bật. Như cái máy, anh giơ tay cầm lấy đôi đèn, mặt mày ngơ ngác. Ông giám mục nói:

– Thôi, chúc anh lên đường bình yên. Nhân thể, lần sau anh có trở lại đây, nhớ không cần phải qua phía vườn. Cứ cửa lối qua phố mà đi. Ngày đêm lúc nào ra vào cũng được, cửa chỉ cài có cái then thôi.

Rồi ông quay về phía bọn cảnh sát:

– Thôi, các ông có thể về được rồi.

Bọn lính đi ra.

Giăng Van-giăng như người sắp ngất.

Ông giám mục lại gần, khẽ bảo:

– Đừng quên, đừng bao giờ quên rằng anh đã hứa với ta sẽ dùng chỗ tiền này để trở thành con người lương thiện nhé.

Giăng Van-giăng không nhớ có hứa với ông giám mục điều gì hay không. Anh cứ đứng ngây người ra. Ông giám mục đã nhấn mạnh vào câu mình nói. Bây giờ bằng một giọng thật trang nghiêm, ông lại nói thêm:

– Giăng Van-giăng, người anh em của tôi ơi, từ nay anh không còn là kẻ ác nữa, anh thuộc về phía người lương thiện rồi. Linh hồn của anh, ta đã mua đây, ta đem nó ra khỏi cõi hắc ám, ra khỏi tư tưởng sa ngã, ta đem dâng nó cho Chúa. [3]

 (Vích-to Huy-gô, Những người khốn khổ, tập 1, bản dịch của Huỳnh Lý, Vũ Đình Liễn, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu, NXB Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 177 – 182)

[1] So sánh

Cùng tiếp nhận thông tin về việc mất bộ đồ ăn bằng bạc, hành động của bà Ma-gơ-loa và Giám mục My-ri-en trong đoạn văn này có gì khác nhau?

[2] Dự đoán

Bạn dự đoán bà Ma-gơ-loa và Giám mục My-ri-en sẽ phản ứng như thế nào khi thấy cảnh sát bắt Giăng Van-giăng về trước mặt họ?

[3] Suy luận

Vì sao Giám mục My-ri-en biết từ nay Giǎng Van-giǎng đã thuộc về phía người lương thiện?

So sánh phản ứng của bà giúp việc Ma-gơ-loa và Đức giám mục My-ri-en đối với việc bị mất bộ đồ ăn bằng bạc. Phản ứng đó cho thấy điều gì về tính cách của họ?


4.6

4 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%