Giải SBT Ngữ Văn 9 KNTT Bài 3. Hồn nước nằm trong tiếng mẹ cha có đáp án

36 lượt thi 47 câu hỏi

Đề thi liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Câu 28:

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN

Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,

Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?

Phút nghe lời nói thanh tao,

Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha

“Đông Thành vốn thiệt quê ta,

Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”

Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên

Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.

Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,

Xin đưa một vật để cầm làm tin”.

Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,

Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na

“Vật chi một chút gọi là,

Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.

Của này là của vất vơ,

Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”

Vân Tiên khó nỗi làm thinh,

Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.

Than rằng: “Đó khéo trêu đây,

Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.

Đương khi gặp gỡ giữa đàng,

Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.

Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,

Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.

Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,

Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.

Ai dè những đấng anh hùng,

Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm

Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,

Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.

Đưa trâm chàng đã làm ngơ,

Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ

[...]

Vân Tiên từ giã phản hồi,

Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!

Nghĩ mình mà ngán cho mình,

Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.

Nặng nề hai chữ uyên ương,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.

Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,

Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.

Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,

Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.

Thôi thôi em hỡi Kim Liên,

Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.

(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)

Tóm tắt nội dung của đoạn trích.


Câu 29:

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN

Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,

Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?

Phút nghe lời nói thanh tao,

Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha

“Đông Thành vốn thiệt quê ta,

Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”

Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên

Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.

Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,

Xin đưa một vật để cầm làm tin”.

Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,

Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na

“Vật chi một chút gọi là,

Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.

Của này là của vất vơ,

Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”

Vân Tiên khó nỗi làm thinh,

Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.

Than rằng: “Đó khéo trêu đây,

Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.

Đương khi gặp gỡ giữa đàng,

Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.

Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,

Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.

Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,

Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.

Ai dè những đấng anh hùng,

Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm

Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,

Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.

Đưa trâm chàng đã làm ngơ,

Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ

[...]

Vân Tiên từ giã phản hồi,

Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!

Nghĩ mình mà ngán cho mình,

Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.

Nặng nề hai chữ uyên ương,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.

Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,

Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.

Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,

Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.

Thôi thôi em hỡi Kim Liên,

Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.

(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)

Hãy chỉ ra đâu là lời người kể chuyện, đâu là lời nhân vật.


Câu 30:

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN

Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,

Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?

Phút nghe lời nói thanh tao,

Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha

“Đông Thành vốn thiệt quê ta,

Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”

Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên

Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.

Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,

Xin đưa một vật để cầm làm tin”.

Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,

Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na

“Vật chi một chút gọi là,

Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.

Của này là của vất vơ,

Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”

Vân Tiên khó nỗi làm thinh,

Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.

Than rằng: “Đó khéo trêu đây,

Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.

Đương khi gặp gỡ giữa đàng,

Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.

Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,

Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.

Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,

Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.

Ai dè những đấng anh hùng,

Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm

Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,

Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.

Đưa trâm chàng đã làm ngơ,

Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ

[...]

Vân Tiên từ giã phản hồi,

Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!

Nghĩ mình mà ngán cho mình,

Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.

Nặng nề hai chữ uyên ương,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.

Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,

Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.

Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,

Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.

Thôi thôi em hỡi Kim Liên,

Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.

(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)

Kẻ bảng (vào vở) theo mẫu sau và điền thông tin phù hợp vào các ô trống:

LỜI NHÂN VẬT KIỀU NGUYỆT NGA

STT

Lời đối thoại

Lời độc thoại

1


Câu 31:

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN

Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,

Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?

Phút nghe lời nói thanh tao,

Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha

“Đông Thành vốn thiệt quê ta,

Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”

Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên

Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.

Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,

Xin đưa một vật để cầm làm tin”.

Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,

Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na

“Vật chi một chút gọi là,

Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.

Của này là của vất vơ,

Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”

Vân Tiên khó nỗi làm thinh,

Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.

Than rằng: “Đó khéo trêu đây,

Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.

Đương khi gặp gỡ giữa đàng,

Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.

Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,

Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.

Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,

Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.

Ai dè những đấng anh hùng,

Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm

Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,

Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.

Đưa trâm chàng đã làm ngơ,

Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ

[...]

Vân Tiên từ giã phản hồi,

Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!

Nghĩ mình mà ngán cho mình,

Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.

Nặng nề hai chữ uyên ương,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.

Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,

Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.

Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,

Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.

Thôi thôi em hỡi Kim Liên,

Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.

(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)

Trong đoạn trích, nhân vật Lục Vân Tiên chủ yếu được khắc hoạ bằng các chi tiết nào? Ấn tượng nổi bật của em về nhân vật là gì?


Câu 32:

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN

Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,

Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?

Phút nghe lời nói thanh tao,

Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha

“Đông Thành vốn thiệt quê ta,

Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”

Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên

Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.

Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,

Xin đưa một vật để cầm làm tin”.

Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,

Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na

“Vật chi một chút gọi là,

Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.

Của này là của vất vơ,

Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”

Vân Tiên khó nỗi làm thinh,

Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.

Than rằng: “Đó khéo trêu đây,

Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.

Đương khi gặp gỡ giữa đàng,

Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.

Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,

Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.

Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,

Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.

Ai dè những đấng anh hùng,

Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm

Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,

Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.

Đưa trâm chàng đã làm ngơ,

Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ

[...]

Vân Tiên từ giã phản hồi,

Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!

Nghĩ mình mà ngán cho mình,

Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.

Nặng nề hai chữ uyên ương,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.

Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,

Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.

Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,

Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.

Thôi thôi em hỡi Kim Liên,

Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.

(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)

Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Kiều Nguyệt Nga được thể hiện trong 12 dòng thơ cuối.


Câu 33:

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN

Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,

Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?

Phút nghe lời nói thanh tao,

Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha

“Đông Thành vốn thiệt quê ta,

Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”

Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên

Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.

Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,

Xin đưa một vật để cầm làm tin”.

Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,

Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na

“Vật chi một chút gọi là,

Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.

Của này là của vất vơ,

Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”

Vân Tiên khó nỗi làm thinh,

Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.

Than rằng: “Đó khéo trêu đây,

Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.

Đương khi gặp gỡ giữa đàng,

Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.

Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,

Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.

Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,

Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.

Ai dè những đấng anh hùng,

Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm

Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,

Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.

Đưa trâm chàng đã làm ngơ,

Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ

[...]

Vân Tiên từ giã phản hồi,

Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!

Nghĩ mình mà ngán cho mình,

Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.

Nặng nề hai chữ uyên ương,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.

Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,

Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.

Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,

Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.

Thôi thôi em hỡi Kim Liên,

Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.

(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)

Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả trong đoạn trích.


Câu 34:

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

KIỀU NGUYỆT NGA CẢM TẠ LỤC VÂN TIÊN

Thưa rằng: “Tiện thiếp đi đường,

Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?

Phút nghe lời nói thanh tao,

Vân Tiên hả nỡ lòng nào phui pha

“Đông Thành vốn thiệt quê ta,

Họ là Lục thị tên là Vân Tiên”

Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên

Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.

Thưa rằng: “Nay gặp tri âm,

Xin đưa một vật để cầm làm tin”.

Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,

Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na

“Vật chi một chút gọi là,

Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.

Của này là của vất vơ,

Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành”

Vân Tiên khó nỗi làm thinh,

Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây”.

Than rằng: “Đó khéo trêu đây,

Ơn kia đã mấy của nầy rất sang.

Đương khi gặp gỡ giữa đàng,

Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.

Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,

Nào ai chịu lấy của ai làm gì”.

Thưa rằng: “Chút phận nữ nhi,

Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.

Ai dè những đấng anh hùng,

Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm

Riêng than: “Trâm hỡi là trâm,

Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ.

Đưa trâm chàng đã làm ngơ,

Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ

[...]

Vân Tiên từ giã phản hồi,

Nguyệt Nga than thở: “Tình ôi là tình!

Nghĩ mình mà ngán cho mình,

Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.

Nặng nề hai chữ uyên ương,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.

Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông,

Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.

Hữu tình chi bấy Ngưu Lang,

Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.

Thôi thôi em hỡi Kim Liên,

Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”.

(Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1980, tr. 100 – 102)

Xác định và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ in đậm:

Nặng nề hai chữ uyên ương,

Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.


4.6

7 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%