Bài tập Người cầm quyền khôi phục uy quyền có đáp án

53 người thi tuần này 4.6 1.6 K lượt thi 20 câu hỏi

🔥 Đề thi HOT:

3538 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 9)

22.9 K lượt thi 11 câu hỏi
1642 người thi tuần này

Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 10)

22.9 K lượt thi 7 câu hỏi
1520 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 3)

11.4 K lượt thi 11 câu hỏi
1249 người thi tuần này

Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 6)

22.5 K lượt thi 6 câu hỏi
816 người thi tuần này

Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 7)

22.1 K lượt thi 11 câu hỏi
734 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 1)

20.1 K lượt thi 6 câu hỏi
684 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 10 Chân trời sáng tạo có đáp án (Đề 5)

10 K lượt thi 8 câu hỏi

Nội dung liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Câu 1

1. Bạn hình dung như thế nào về một con người có uy quyền?

Lời giải

Trả lời:

- Người có uy quyền hoặc là người có địa vị xã hội cao, giàu có, khiến người khác nể sợ hoặc là người có tài năng kiệt xuất, khiến người khác dè chừng và ngưỡng mộ. 

Câu 2

Bạn đã từng đọc cuốn sách hay xem bộ phim nào mà nhân vật trong đó là một người có uy quyền? Bạn hãy chia sẻ ấn tượng của mình về nhân vật ấy.

Lời giải

Trả lời:

- Một nhân vật có uy quyền: Nhân vật hiệu trưởng Albus Dumbledore trong tiểu thuyết “Harry Potter”. Trong truyện, nhân vật được xây dựng là pháp sư vĩ đại và xuất chúng nhất mọi thời, đến Chúa tể Hắc Ám cũng phải kính nể và e sợ, là một vị hiệu trưởng đáng kính của trường học pháp thuật. Nhân vật tạo nên uy quyền bằng tài năng xuất chúng.

Câu 3

Hoàn cảnh và tình trạng của Phăng-tin được miêu tả như thế nào?

Lời giải

- Trong truyện, Phăng-tin là một nữ công nhân bất hạnh (nghèo khổ, phải bán tóc, bán răng để nuôi con).

- Hiện Phăng-tin đang nằm trên giường bệnh trong bệnh xá, đang hết sức ốm yếu; khao khát được gặp con trước khi mất.

Câu 4

Vì sao người kể chuyện lại lưu ý “từ giờ chúng ta cứ cái tên này mà gọi”?

Lời giải

- Giăng Van-giăng khi trở thành thị trưởng đã lấy tên là Ma-đơ-len. Nhưng để cứu một người vô tội bị nhận nhầm thành mình, Giăng Van-giăng đã đến tòa thú nhận thân phận thực.

- “Từ giờ chúng ta cứ cái tên này mà gọi”, tức là Giăng Van-giăng đã quay trở về thành thơ xén cây bình thường khi xưa, không còn là thị trưởng uy quyền nữa.

Câu 5

Chú ý cách miêu tả giọng nói của Gia-ve.

Lời giải

+ Giọng điệu “man rợ, điên cuồng”

+ Giọng nói “không phải tiếng người nói mà là tiếng ác thú gầm”

Qua giọng nói đã hé mở tính cách điên cuồng, tàn nhẫn, hung ác của nhân vật.

Câu 6

Tại sao Phăng-tin cảm thấy “cả thế giới đang tan biến”?

Lời giải

 

- Đối với Phăng-tin, Giăng Van-giăng là thị trưởng luôn làm việc thiện và giúp người nghèo, là hiện thân cho cái đẹp, cái thiện, là sự dũng cảm của chị: “Nhưng ông thị trưởng vẫn đứng đó. Chị còn sợ gì nữa?”

- Nhưng khi thấy tên chó săn tóm cổ Giăng Van-giăng, và “ông thị trưởng cúi đầu”, Phăng-tin tưởng như thấy cái thiện đang cúi đầu chịu thua cái ác. Chị thấy thế giới tốt đẹp này đã biến mất theo cái cúi đầu đó.

Câu 7

Chú ý ngôn ngữ ra lệnh của Gia-ve và ngôn ngữ của Giăng Van-giăng qua lời đối thoại.

Lời giải

- Gia-ve: lời nói cộc lốc, quát nạt, nôn nóng, ép buộc (“Mau lên!”, “Nói to, nói to lên!”, “Ta bảo mày nói to lên cơ mà.”), khinh thường đối phương (cách xưng hô “ta-mày”).

- Giăng Van-giăng: lời nói nhẹ nhàng, lịch sự (cách xưng hô “tôi-ông”), bình tĩnh, kiên định.

Câu 8

Phăng-tin có phản ứng và cảm xúc như thế nào khi nghe đến đứa con gái của mình?  

Lời giải

- Phăng-tin có phản ứng mạnh khi nghe đến đứa con: chị “run lên bần bật”, các lời thoại liên tiếp cất lên, đều là những câu kết thúc bằng dấu chấm than, thể hiện cảm xúc dâng trào của chị - Phăng-tin rất muốn, rất khao khát được gặp con gái mình trước khi mất.

Câu 9

Chú ý thái độ của Gia-ve khi nói về Giăng Van-giăng.

Lời giải

Trong cuộc đối thoại với Phăng-tin, Gia-ve tỏ ý khinh thường Giăng Van-giăng khi nhắc đến quá khứ của Giăng Van-giăng: “Cái xứ chó đểu gì mà những thằng tù đi đày thì làm ông nọ ông kia”.

Câu 10

Tại sao Gia-ve lại thấy run sợ?

Lời giải

- Gia-ve run sợ trước sức mạnh của Giăng Van-giăng, khi Giăng Van-giăng tay không bẻ gãy cái gióng giường, và cầm cái gióng đó “trợn mắt nhìn Gia-ve”. Gia-ve run sợ trước lời cảnh báo của Giăng Van-giăng: “Tôi khuyên anh đừng có quất rầy tôi lúc này”.

- Bởi vì trước đó, Giăng Van-giăng đã kết tội Gia-ve là kẻ “giết chết người đàn bà này rồi”, nên khi thấy Giăng Van-giăng tiến lại gần, Gia-ve run sợ.

Câu 11

Chú ý hình thức câu hỏi trong lời của người kể chuyện.

Lời giải

- Người kể chuyện nói thay những câu hỏi mà người đọc cùng thắc mắc khi đọc đến tình tiết Giăng Van-giăng ghé lại thì thầm bên tai Phăng-tin. Qua một loạt câu hỏi, nhà văn đã gợi liên tưởng đến mối liên hệ giữa hai con người khốn khổ, đến việc Giăng Van-giăng thực hiện lời hứa.

- Đồng thời, đoạn trữ tình ngoại đề này đã góp phần soi sáng tư tưởng tác phẩm: vượt lên trên hiện thực để vươn tới cái đẹp, cái thiện.

Câu 12

Thái độ của Giăng Van-giăng đối với Gia-ve thể hiện ở câu nói sau cùng trong đoạn trích.

Lời giải

- Giăng Van-giăng nói với Gia-ve: “Giờ anh muốn làm gì thì làm”. Câu nói thể hiện sự bình thản, ung dung của Giăng Van-giăng. Giăng Van-giăng không sợ Gia-ve, không lo lắng đến việc bị Gia-ve bắt.

Câu 13

Có thể chia diễn biến đoạn trích này làm mấy phần? Hãy xác định mối liên hệ giữa các phần ấy.

Lời giải

Trả lời:

Có thể chia diễn biến đoạn trích thành hai phần:

+ Phần 1 (từ đầu... Phăng-tin đã tắt thở): Gia-ve đến bắt Giăng Van-giăng khiến Phăng-tin đang bị bệnh càng khiếp sợ đến chết.

+ Phần 2 (còn lại): Giăng Van-giăng từ biệt Phăng-tin, thầm hứa với linh hồn người phụ nữ bất hạnh, khôi phục “uy quyền” trước Gia-ve.

Câu 14

Bạn cảm nhận như thế nào về thái độ và cách ứng xử của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin? Theo bạn, Giăng Van-giăng có thể đã "thì thầm bên tai Phăng-tin" điều gì sau khi chị qua đời?

Lời giải

Trả lời:

- Thái độ và cách ứng xử của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin:

+ Trước sự hốt hoảng của Phăng–tin khi Gia-ve đến: Trấn an Phăng-tin, quyết tâm tìm đứa con cho chị với thái độ đầy trách nhiệm.

– Khi Phăng–tin chết: Giăng Van-giăng xót thương vô hạn, thì thầm vào tai chị, sửa lại mái tóc cho chị, vuốt mắt cho chị, đặt lên bàn tay chị một nụ hôn.

🡪 Hành động thể hiện thái độ yêu thương của những người cùng khổ với nhau; lòng nhân ái, tinh thần trách nhiệm và bản lĩnh cứng cỏi ở Giăng Van-giăng.

- Theo tôi, Giăng Van-giăng có thể sẽ nói với Phăng-tin về lời hứa nhất định sẽ tìm được đứa con của chị, an ủi linh hồn của Phăng-tin được yên nghỉ, Phăng-tin sẽ được “đi vào bầu ánh sáng vĩ đại của Chúa”, không còn phải chịu khổ sở nơi trần gian nữa.

Câu 15

Qua lời của người kể chuyện, nhân vật Gia-ve hiện lên như thế nào? Hãy nhận xét của bạn về thái độ của người kể chuyện đối với nhân vật này.

Lời giải

Trả lời:

- Trong đoạn trích này, V. Huy-gô đã có dụng ý miêu tả Gia-ve như một con thú qua các góc độ: bộ dạng, ngôn ngữ, hành động của hắn.

+ Bộ dạng thú dữ vồ mồi : tiếng thét của hắn: "Mau lên" được miêu tả “không phải là tiếng người mà là tiếng thú gầm”, quát tháo ầm ĩ trong bệnh xá.

+ Hành động thôi miên con mồi ("đứng lì một chỗ”), nhìn chằm chằm vào con mắt (“cặp mắt nhìn như cái móc sắt”).

+ Động tác lao tới con mồi ("tiến vào giữa phòng”).

+ Cười đắc thắng (nhưng là “cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”).

+ Bản tính vô cảm, vô nhân tính: phủ nhận tình cảm mẹ con của Phăng-tin, vô cảm trước nỗi đau tuyệt vọng của Phăng-tin, vô cảm trước cái chết của Phăng-tin.

- Người kể chuyện thể hiện thái độ căm ghét, khinh bỉ đối với nhân vật Gia-ve.

Câu 16

Phân tích sự thay đổi trong ngôn ngữ và thái độ của Giăng Van-giăng đối với Gia-ve theo diễn biến của đoạn trích.

Lời giải

Trả lời:

- Đầu đoạn trích (trước khi Phăng-tin chết): Giăng Van-giăng nói năng lễ phép với Gia-ve, xưng là “tôi - ông”, bị Gia-ve “túm lấy cổ áo", bị xưng hô “mày - tao” nhưng vẫn bình tĩnh, nhún nhường, cầu xin Gia-ve.

- Phần sau của đoạn trích, sau khi Phăng-tin mất: hành động quyết liệt, dứt khoát, kết tội Gia-ve (“Anh đã giết chết người đàn bà này rồi đó”), tìm vũ khí tự vệ (“giật gẫy trong chớp mắt” một “cái thanh giường”), sẵn sàng đối diện với Gia-ve bằng tư thế ngang hàng (“nhìn Gia-ve trừng trừng”), chủ động yêu cầu Gia-ve (“tôi khuyên anh đừng quấy rầy tôi lúc này”). Cách xưng hô đã thay đổi sang vị thế ngang hàng (“tôi - anh”).

Câu 17

Quyền năng của người kể chuyện ngôi thứ ba có được thể hiện trong đoạn trích này không? Vì sao?

Lời giải

Trả lời:

- Quyền năng của người kể chuyện ngôi thứ b có được thể hiện trong đoạn trích này, tuy nhiên không phải được thể hiện ở tất cả các tình tiết truyện.

- Biểu hiện của quyền năng của người kể chuyện ngôi thứ ba: người kể chuyện biết hết những sự việc sẽ xảy ra, biết được cả một số tâm tư, suy nghĩ của nhân vật khi thực hiện hành động đó.

+ Người kể chuyện ngôi thứ ba đưa ra ra thái độ tâm tư của nhân vật Gia-ve khi hắn vừa mới gặp gvg: “Hắn coi gvg như một kẻ đấu thầu bí hiểm…”. Động từ “coi” ở đây cho thấy người kể chuyện đã xâm nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật Gia-ve.

+ Người kể chuyện xâm nhập vào thế giới nội tâm của Phăng-tin để miêu tả các cung bậc cảm xúc của chị: “Chị còn trông thấy một sự vô lý vô lý đến nỗi ngay trong những cơn sốt mê sảng hãi hùng nhất chị cũng không hề thấy có điều như vậy”.

- Tuy nhiên vẫn có những đoạn người kể chuyện ngôi thứ ba không sử dụng quyền năng toàn tri của mình. Ở đoạn cuối, người kể chuyện đã không nêu rõ cho người đọc biết nhân vật gvg thầm thì điều gì vào tai Phăng-tin. Khi không sử dụng quyền năng toàn tri, người kể chuyện ngôi thứ ba đã để người đọc tự tưởng tượng theo mạch truyện.

 

Câu 18

Trong đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”, nhân vật nào thật sự có uy quyền? Do đầu bạn khẳng định như vậy?

Lời giải

Trả lời:

Trong đoạn trích nhân vật gvg là người thực sự có uy quyền. Tuy Gia-ve là người đã khôi phục uy quyền của một người nhà nước đi bắt kẻ phạm tội, nhưng gvg mới là người nắm quyền chủ động trong tư thế hiên ngang. Sau khi Phăng-tin đột ngột qua đời, gvg không nhún nhường như trước, mà trở nên hiên ngang, quyền uy, trong tư thế đại diện cho cái thiện, khiến Gia-ve phải run sợ.

 

Câu 19

Trong đoạn trích này, theo bạn, điều gì mới làm nên uy quyền của một con người?

Lời giải

Trả lời:

- Điều thực sự làm nên uy quyền của một con người đấy là việc người ta đại diện cho cái thiện, đại diện cho chính nghĩa, thể hiện lòng thương người và khiến cho những người khác phải nể phục mình. Uy quyền được tạo nên từ sự bình tĩnh, ung dung, hiên ngang, đường hoàng, không phải được tạo nên từ sự bạo lực, ép buộc.

 

Câu 20

Bạn có cảm thấy hứng thú khi đọc những tác phẩm tự sự được kể bởi người kể chuyện toàn tri hay không? Hãy viết đoạn văn trình bày quan điểm của mình về vấn đề này.

Lời giải

Mẫu 1

Đối với những tiểu thuyết dài, nhiều tình tiết, nhiều nhân vật, việc tác phẩm được kể bởi người kể chuyện toàn tri giúp người đọc có thể nắm bắt mạch truyện tốt hơn, dễ dàng hơn, hiểu rõ được tâm tư, tình cảm, thái độ của từng nhân vật. Tuy nhiê,n đối với những tác phẩm tự sự ngắn, việc người kể chuyện ngôi thứ ba thực hiện chức năng toàn tri có thể sẽ tước đi cơ hội tưởng tượng và ảnh hưởng đến trải nghiệm của người đọc đọc. Nếu tác phẩm tự sự được kể bởi người kể chuyện toàn tri, tác phẩm đó sẽ chỉ có một cách lý giải, có một thái độ đánh giá được hướng dẫn sẵn, và khó có được được sự đồng sáng tạo nơi người đọc. Vì vậy, sự phối kết hợp giữa việc người kể chuyện thực hiện và không thực hiện chức năng toàn tri trong từng đoạn truyện có thể đem đến hiệu quả tốt nhất cho một tác phẩm tự sự.

Mẫu 2

Một tác phẩm tự sự được kể bởi người kể chuyện toàn tri có khả năng tạo nên sức hấp dẫn riêng biệt của tác phẩm, khơi gợi sự hứng thú của bạn đọc và không chỉ tái hiện lại câu chuyện một cách hoàn hảo mà còn nêu được quan điểm, thái độ của người kể chuyện. Người kể chuyện toàn tri là một người có kiến thức đầy đủ về các sự kiện của câu chuyện và các động cơ và suy nghĩ chưa được làm sáng tỏ của các nhân vật khác nhau. Một người kể chuyện toàn tri thậm chí có thể biết và nói với người đọc những điều về các nhân vật mà họ không biết cho chính họ. Người kể chuyện toàn tri có thể bị xâm phạm và can thiệp vào việc truyền tải câu chuyện của chính họ để giải quyết trực tiếp cho người đọc; đồng thời  họ còn có thể bình luận về các hành động, truy tố hoặc thậm chí đưa ra những bài học đạo đức. Một người kể chuyện toàn tri cung cấp một ý tưởng về suy nghĩ và cảm xúc của tất cả các nhân vật; điều này đặc biệt hữu ích trong một câu chuyện dài hoặc phức tạp có nhiều nhân vật. Bằng cách thể hiện suy nghĩ và cảm xúc của nhiều nhân vật, người kể chuyện cung cấp một cái nhìn đa sắc thái hơn về các sự kiện; nó cũng giúp người đọc hiểu hơn về tâm lý của các nhân vật. Trong văn học, một quan điểm toàn tri là một trong đó người kể chuyện biết suy nghĩ và hành động của mỗi nhân vật trong câu chuyện kể; được gọi là người thứ ba toàn tri. Một người kể chuyện toàn tri ở ngôi thứ ba có thể nhảy tự do giữa tâm trí của các nhân vật khác nhau, trong các chương khác nhau hoặc thậm chí trong cùng một cảnh. Người kể chuyện trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền chính là người kể chuyện toàn tri ngôi thứ ba đã đưa người đọc đến với câu chuyện về ba nhân vật Giăng Van-giăng, Phăng-tin và Gia-ve; đến gần hơn với tâm lý, cảm cúc của các nhân vật và hòa mình vào diễn biến sự việc một cách triệt để. Như vậy, bằng cách thể hiện suy nghĩ và cảm xúc của nhiều nhân vật, người kể chuyện toàn tri đã cung cấp một cái nhìn đa sắc thái hơn về các sự kiện; giúp người đọc hiểu được tâm lỹ, cảm xúc của các nhân vật và góp phần tạo nên sự hứng thú của bạn đọc khi đọc tác phẩm đó.

Mẫu 3

Mỗi nhà văn sẽ dựa vào nhiều yếu tố khác nhau để quyết định tác phẩm tự sự kể ở ngôi nào.Phần lớn sẽ có hai sự lựa chọn cơ bản, kể ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba. Người kể chuyện toàn tri là người kể ở ngôi thứ ba. Đây là ngôi kể không hóa thân vào bất kì nhân vật nào, tựa như người chứng kiến, họ sẽ viết nên tâm tư, hành động của từng nhân vật một cách khách quan. Kể chuyện bởi người toàn trí đem lại nhiều hấp dẫn cho bạn đọc, tuy nhiên, nếu sử dụng ngôi kể không đúng cách thì chắc chắn rằng, đó sẽ là một tác phẩm thảm họa. Vậy nên, lựa chọn kể chuyện ở ngôi kể thứ ba - người toàn tri cần có sự đảm bảo hài hòa giữa nhiều yếu tố. Miễn đó là một tác phẩm hay về nội dung, hấp dẫn về hình thức thì tôi đều hứng thú.

Mẫu 4

Thông thường, đối với những tác phẩm tự sự, người kể chuyện sẽ chính là nhân vật trong câu chuyện được xưng dưới đại từ xưng hô “tôi”, tuy nhiên, đâu đó vẫn có những câu chuyện được kể bởi người kể chuyện toàn tri. Nghĩa rằng, đây là người giúp chúng ta nhìn nhận hoàn cảnh, tâm tư, hành động của từng nhân vật một cách khách quan chứ không chủ quan như câu chuyện được kể ở ngôi thứ nhất. Với tôi, dù kể chuyện ở bất kì ngôi thứ nào, miễn là câu chuyện được miêu tả logic để có bài học cho con người, cùng với đó là yếu tố hình thức chỉn chu, khéo léo thì tôi đều hứng thú. Một tác phẩm dù được kể bởi người kể chuyện toàn tri nhưng không đem đến ý nghĩa, mục đích nào thì chẳng là một tác phẩm đáng để đọc. Hoặc tác phẩm được trình bày thiếu khoa học, lời văn đứt gãy thì cũng không là tác phẩm nên bắt đầu đọc.

Mẫu 5

Các tác phẩm tự sự thường được kể bởi người kể chuyện toàn tri hoặc từ điểm nhìn của các nhân vật (hạn tri). Có người cho rằng, người kể chuyện toàn tri là một ước vọng phi thực tế. Vì vậy mà họ thích câu chuyện được kể từ điểm nhìn của các nhân vật trong truyện hơn. Nhưng cũng có người lại thích đọc tác phẩm được kể bởi người kể chuyện toàn tri. Vì khi đó người đọc có được cái nhìn bao quát về sự việc. Dù tác phẩm tự sự có được kể bởi người kể chuyện toàn tri hay không, tôi cũng đều hứng thú nếu tác phẩm đó có một cốt truyện hấp dẫn hay ngôn từ và thông điệp hay, ý nghĩa. Người kể chuyện của tác phẩm với tôi chỉ là một yếu tố.

Mẫu 6

Đối với một tác phẩm tự sự thì ngoài nhân vật, tình huống truyện còn có điểm nhìn. Điểm nhìn là rất quan trọng đối với tác phẩm. Có người cho rằng cảm thấy hứng thu khi đọc những tác phẩm tự sự được kể bởi người kể chuyện toàn tri. Người kể chuyện toàn tri là một người có kiến ​​thức đầy đủ về các sự kiện của lịch sử và những lý do và suy nghĩ không được thể hiện của các nhân vật khác nhau. Họ là một nhân chứng nhìn thấy mọi thứ và là người có quan điểm đặc quyền về hành động.  Vậy nên, khi là một người kể chuyện toàn tri sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đa chiều, và sẽ tạo nên sự hứng thú với người đọc. 

 

4.6

310 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%