Giải SBT Ngữ văn 8 Cánh diều Vịnh khoa thi Hương có đáp án
40 người thi tuần này 4.6 495 lượt thi 11 câu hỏi
🔥 Đề thi HOT:
Bộ 15 đề thi giữa kì 2 Ngữ Văn lớp 8 Kết nối tri thức có đáp án( Đề 4)
Bộ 15 đề thi giữa kì 2 Ngữ Văn lớp 8 Kết nối tri thức có đáp án ( Đề 2)
Bộ 15 đề thi giữa kì 1 Ngữ Văn lớp 8 Kết nối tri thức có đáp án ( Đề 3)
Bộ 10 đề thi cuối kì 2 Ngữ Văn lớp 8 Chân trời sáng tạo có đáp án ( Đề 10)
Bộ 10 đề thi cuối kì 2 Ngữ Văn lớp 8 Kết nối tri thức có đáp án ( Đề 5)
Bộ 10 đề thi cuối kì 2 Ngữ Văn lớp 8 Chân trời sáng tạo có đáp án ( Đề 3 )
Bộ 10 đề thi cuối kì 2 Ngữ Văn lớp 8 Cánh diều có đáp án ( Đề 2 )
Bộ 15 đề thi giữa kì 2 Ngữ Văn lớp 8 Kết nối tri thức có đáp án ( Đề 5)
Nội dung liên quan:
Danh sách câu hỏi:
Lời giải
Các biểu hiện cho thấy Vịnh khoa thi Hương là một bài thơ Đường luật trào phúng:
- Đây là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật
+ Bài thơ có tám câu, mỗi câu có bảy chữ.
+ Bài thơ có kết cấu của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bao gồm các cặp câu: để, thực, luận, kết.
+ Chữ thứ hai của các cặp câu 1 – 8, 2–3,4-5, 6-7 niệm với nhau.
+ Bài thơ có luật trắc. Vẫn được gieo ở các câu 1, 2, 4, 6, 8. Nhịp thơ 4/3,
+ Đối được thực hiện ở phần thực và luận.
- Đây là bài thơ trào phúng: Sử dụng các từ ngữ gây cười như: lẫn, lôi thôi âm oẹ (khẩu ngữ), thét, ngoảnh cổ; các hình ảnh được tạo dựng đối lập nhau làm bật ra tiếng cười trào phúng.
Lời giải
-Việc sử dụng triệt để các phép đối trong hai câu thực và hai câu luận có ý nghĩa quan trọng với mục đích làm nổi bật nội dung trào phúng của tác phẩm.
+ Trong hai câu thực và hai câu luận, danh từ câu trên đối với danh từ câu dưới động từ đối với động từ, tính từ đối với tính từ,...
+ Không chỉ có sự đối nhau chặt chẽ giữa các loại từ, các hình ảnh giữa câu thực 1 và câu thực 2 (sĩ tử - quan trường), câu luận 1 và câu luận 2 (quan sứ - mụ đầm) mà còn có sự đối nhau trong hình ảnh được tạo nên ở hai câu thực với hình ảnh ở hai câu luận (sĩ tử, quan trường với quan sứ, mụ đầm), từ đó, vẽ ra một cách sâu sắc hơn quang cảnh lộn xộn, phản cảm, nhục nhã trong kì thi Hương ở trường thi Hà – Nam.
- Việc sử dụng triệt để các phép đối cũng tạo ra những hình ảnh tương phản trái ngược nhau. Các hình ảnh tương phản này không chỉ tạo nên cái hài, cái đáng cười mà còn tạo cho người đọc cảm giác phẫn nộ, nhục nhã, buồn đau khi ở cái chỗn vốn được coi là tôn nghiêm như trường thi, nơi lựa chọn nhân tài cho đất nước lại có sự hiện diện của kẻ thù xâm lược, những kẻ ngạo mạn ngoại bang, đi theo chúng là những “mụ đầm” kệch cỡm. Chốn tôn nghiêm ấy, do quy định từ xưa, vốn không phải là nơi xuất hiện của phụ nữ, nay lại có mặt những người đàn bà ngoại bang xa lạ. Điều này càng làm tăng thêm nỗi nhục nhã chốn khoa cử dưới cái nhìn của các sĩ tử đương thời. Các câu thực, luận đã thể hiện sự tương phản gay gắt giữa truyền thống đẹp đẽ, tôn nghiêm với sự lộn xộn, kệch cỡm, xô bồ của hiện tại.
- Ngôn từ ở đây được sử dụng khá độc đáo: ngôn ngữ đời thường, kể cả khấu ngữ, được sử dụng một cách linh hoạt. Trật tự từ trong hai câu thực được đảo lộn, ấn tượng như từ láy tượng hình “lôi thôi”, từ tượng thành cám ơn” được đưa lên đầu câu để nhân mạnh sự bệ rạc, phi truyền thống nơi trường thi.
+ Sĩ từ ngày xưa đi thì dù phải mang lều chồng nhưng tư thế vẫn đường hoàng. đình đạc, đầu ngàng cao, tự tin. Nay trông bệ rạc vì phải đi một chặng đường dài, mệt nhọc, vai đeo thêm lọ nước để uống và nấu nướng dọc đường. Tin tức nhà cầm quyền bỏ thì chữ Hán, bắt phải thi chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp càng làm cho các sĩ tử hoảng loạn, lo lắng.
+ Tiếng “ậm oe” ra oai từ chiếc loa của các quan trường – lớp quan trường này đã là công cụ trong tay người Pháp, sự lo sợ dân chúng nổi loạn của nhà cầm quyền càng làm cho cảnh trường thi như chứa chất thêm nhiều điều bất ổn.
+ Các từ “lôi thôi”, “ậm oe”, “quan sứ”, “mụ đầm”... cũng là những khẩu ngữ và từ ngữ mới được đưa vào bài thơ từ cuộc sống đời thường.
Lời giải
Qua câu kết cũng như cả bài thơ có thể thấy được thái độ và nỗi lòng của Trần Tế Xương trước tình cảnh đất nước:
- Giọng điệu trong hai câu kết: Sau hàng loạt những hình ảnh đầy tính chất chậm biếm được thể hiện trong hai câu thực và hai câu luận thì cái cười trào phúng bỗng lặng đi trong hai câu kết. Hai câu kết thực ra là tiếng kêu đầy đau xót, nếu có tiếng cười thì là tiếng cười nuốt nước mắt vào trong của Tú Xương trước thảm cảnh nhục nhã của khoa cử – vốn là chỗ dựa, niềm kiêu hãnh của đất nước một thời. Tiếng kêu ở đây là tiếng kêu đầy thất vọng, bởi kêu đấy mà không hi vọng có “nhân tài” nào có thể cứu vớt được hoàn cảnh hiện thời. Tiếng kêu ấy trong hoàn cảnh các cuộc khởi nghĩa ở cả ba miền đã bị kẻ thù đàn áp dã man, công cuộc khai thác và xây dựng thuộc địa của chúng đang từng bước bóp nghẹt nền văn hoá dân tộc, còn triều đình thì nhu nhược tiếp tay cho giặc,...
- Qua cả bài thơ, có thể thấy đằng sau tiếng cười trào phúng của Trần Tế Xương là một tấm lòng tha thiết với vận mệnh đất nước, sự căm ghét kẻ thù đã giày xéo lên truyền thống tốt đẹp của dân tộc, căm ghét những kẻ đã tạo nên thực cảnh trở trêu, dở khóc, dở cười, cũng như nỗi đau của một người dân mất nước. Vịnh khoa thì Hương rõ ràng là một bài thơ gọi hồn nước, gọi hồn dân tộc, là tiếng kêu than cảnh tỉnh mọi người về thực tại u buồn của một dân tộc đang trong vòng nô lệ.
Lời giải
Sự kết hợp giữa cảm xúc trào phúng và trữ tình là một đặc điểm trong thơ trào phúng Trần Tế Xương. Trào phúng mà không kết hợp với trữ tình thì sẽ khiến cho bài thơ trở nên khô khan, không đủ sức lay động lòng người. Hình ảnh trào phúng mà chứa đựng tâm sự, tình cảm của người viết, và thậm chí là nỗi đau mang tính thân phận của họ thì hình ảnh đó sẽ có sức lan toả sâu đậm, đọng lại mãi trong lòng người đọc. Thơ trào phúng của Tú Xương là vậy, tính trữ tình rất đậm nét đã tạo nên tiếng cười cay đắng trào nước mắt và đầy chất bị hải trong thơ ông, mà Vịnh khoa thi Hương là một trong những bài thơ tiêu biểu.
Sự “nghiêm túc” ở hai câu đề, tiếng cười châm biếm sâu cay ở các cầu thực và luận, tiếng kêu phẫn uất ở hai câu kết không phải chỉ để tạo nên những tiếng cười thuần tuý để cười mà qua tiếng cười, Trần Tế Xương muốn phơi bày nổi đau, nỗi nhục trước thực trạng của một đất nước vốn coi chuyện học hành là lẽ sống còn, là niềm kiêu hãnh. Vịnh khoa thi Hương là một bức tranh hiện thực ghi nhận một thời kì đau thương trong lịch sử khoa cử của dân tộc.
Ở đây, tác giả cũng chính là người đã tham gia trực tiếp vào kì thi đó. Ong là một trong những sĩ tử “đeo lọ” nên cảm giác về sự hài hước đến nhục nhã sẽ được tăng lên gấp bội phần trong bài thơ. Trần Tế Xương đã trượt kì thi này chi vì phạm huý, chỉ vì ông quá tài hoa, không thể gò mình trong những quy phạm oái oăm, nực cười của việc thi cử dưới chế độ phong kiến. Sự can thiệp của thực dân Pháp càng khiến cho các kì thi trở nên phức tạp, bệ rạc, hỗn loạn, tức cười hơn. Trào phúng ở đây, do vậy, còn có ít nhiều yếu tố tự trào. Trong nỗi đau của dân tộc, của thời đại còn có nỗi đau riêng của người dự thi, người cầm bút, người tài năng sinh ra không gặp thời. Do vậy, tiếng cười ở đây không phải là tiếng cười sảng khoái, chỉ thuần tuý hướng ngoại, hài hước, chỉ nhằm đến kẻ thù và bọn tay sai của chúng mà còn là tiếng cười cay đắng nuốt nước mắt vào trong, tiếng cười đầy chất bi thương, có tính hướng nội, tiếng cười của sự bất lực trước hoàn cảnh nghiệt ngã của số phận người trí thức trong buổi suy tàn của nền khoa cử nước nhà.
Đi từ cái hài đến cái bị, từ hướng ngoại đến hướng nội, từ hoàn cảnh của cả dân tộc đến thân phận của cá nhân, từ châm biếm gay gắt thực tại đến cảm giác nhục nhã, bất lực là những biểu hiện có tính vận động trong tiếng cười của Trần Tế Xương ở bài thơ Vịnh khoa thi Hương. Bài thơ không đơn thuần chỉ vịnh cảnh trường thi mà qua đó đã thể hiện nỗi lòng của người làm thơ, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm hứng trào phúng và trữ tình.
Lời giải
Nhân vật khiến em ấn tượng nhất là mụ đầm vì đây là nhân vật mới xuất hiện nhưng đã thể hiện được rõ sự lố bịch, kệch cỡm của xã hội, cũng như thể hiện sự nhục nhã, yếu hèn của một đất nước đang chịu cảnh nô lệ. Chốn tôn nghiêm ấy từ xưa vốn không phải là nơi xuất hiện của phụ nữ, nay lại có mặt những người đàn bà ngoại bang xa lạ. Điều này càng làm tăng thêm nỗi nhục nhã chốn khoa cử dưới cái nhìn của các sĩ tử đương thời. Các câu thực, luận đã thể hiện sự tương phản gay gắt giữa truyền thống đẹp đẽ, tôn nghiêm với sự lộn xộn, kệch cỡm, xô bồ của hiện tại, từ đây nét châm biếm gay gắt càng được thể hiện sâu sắc.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
Lời giải
Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.
99 Đánh giá
50%
40%
0%
0%
0%