Bài tập Viết bài văn phân tích đặc điểm nhân vật có đáp án
33 người thi tuần này 4.6 1 K lượt thi 5 câu hỏi
🔥 Đề thi HOT:
Đề kiểm tra Học kì 1 Văn 7 Cánh diều có đáp án (đề 4)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 5)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 2)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 5)
Đề kiểm tra Học kì 1 Văn 7 Cánh diều có đáp án (đề 2)
Đề thi cuối học kì 1 Văn 7 CTST có đáp án (đề 6)
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 8)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 4)
Nội dung liên quan:
Danh sách câu hỏi:
Lời giải
Dàn ý phân tích nhân vật Võ Tòng
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về nhân vật Võ Tòng (Đó là nhân vật trong tác phẩm nào, của ai? Nhân vật ấy là người như thế nào?...)
2. Thân bài
- Phân tích và làm sáng tỏ đặc điểm nhân vật Võ Tòng qua các phương diện:
+ Lai lịch: “Chú tên là gì, quê ở đâu cũng không rõ. Võ Tòng là tên mọi người gọi chú từ một sự tích trong truyện Tàu”
+ Ngoại hình: Hai hố mắt sâu hoắm, và từ trong đáy hố sâu thâm đó, một cặp tròng mắt trắng dã, long qua, long lại sắc như dao…
+ Lời truyền tụng: Ra tù, Võ Tòng không trẻ thù kẻ đã phá hoại gia đình mình, chỉ kêu trời một tiếng, cười nhạt rồi bỏ làng vào rừng sinh sống;...
+ Hành động và việc làm…
- Nhận xét về nhân vật Võ Tòng: trình bày những suy nghĩ, cảm xúc,... của em về các đặc điểm đã phân tích về chú Võ Tòng
3. Kết bài
- Nêu đánh giá khái quát về nhân vật Võ Tòng
- Liên hệ với những con người Nam Bộ bình thường, giản dị mà anh dũng, bất khuất trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; từ đó, rút ra bài học cho mình và thế hệ trẻ hôm nay.
Viết bài văn phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 1
Trong đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng”, nhân vật Võ Tòng được nhà văn Đoàn Giỏi xây dựng với đầy đủ đặc điểm về ngoại hình, tính cách.
Một lần, tía nuôi của An đã đưa cậu và thằng Cò đến thăm Võ Tòng. Qua con mặt của An, nhân vật này hiện lên là người đàn ông hiền lành, chất phác. Người dân trong vùng không biết tên thật của Võ Tòng. Họ chỉ biết rằng nhiều năm trước, Võ Tòng đã một mình bơi xuồng đến dựng lều giữa khu rừng đầy thú dữ. Một mình chú đã giết chết hơn hai mươi con hổ. Kể từ đó, người ta gọi chú là Võ Tòng.
Sống trong rừng sâu, cách ăn mặc của chú cũng rất đơn giản. Chú thường cởi trần, mặc chiếc quần kaki còn mới nhưng coi bộ đã lâu không giặt chiếc quần lính Pháp có những sáu túi. Bên hông chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê, nằm gọn trong vỏ sắt.
Khác với vẻ ngoài là một tính cách hiền lành, tốt bụng. Cuộc đời của chú đã trải qua nhiều cay đắng. Trước đây, chú cũng từng có một gia đình hạnh phúc. Vợ chú là một người đàn bà xinh xắn, lúc mang thai đứa con đầu lòng cứ kêu thèm ăn măng. Yêu quý vợ hết mực, chú liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về ngang qua bờ tre nhà địa chủ liền bị hắn vu cho tội ăn trộm. Võ Tòng một mực cãi lên nhưng bị tên địa chủ quyền thế lại ra sức đánh, khiến chú chém trả. Nhưng chú không trốn chạy mà đường hoàng chịu tội. Hành động này thể hiện được bản chất thật thà, dũng cảm của Võ Tòng.
Ở tù về, Võ Tòng nghe tin vợ đã lấy tên địa chủ, còn đứa con trai độc nhất thì đã chết. Chú liền bỏ làng đi, vào trong rừng sống một mình. Dù vậy, chú vẫn hay giúp đỡ mọi người. Võ Tòng còn là một con người giàu lòng yêu nước. Chú đã chuẩn bị những mũi tên tẩm thuốc độc để đánh giặc Pháp. Chú đã kể lại chiến công giết chết tên giặc Pháp với vẻ hào hứng, sung sướng. Chú chia những mũi tên cho tía nuôi của An - một con người mà chú hết sức yêu mến và tin tưởng để ông sử dụng khi gặp kẻ thù.
Có thể khẳng định, nhân vật Võ Tòng hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của con người Nam Bộ: phóng khoáng, gan dạ, mạnh mẽ, có tinh thần yêu nước nồng nàn.
Phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 2
Nhân vật Võ Tòng trong tác phẩm "Người đàn ông cô độc giữa rừng" của nhà văn Đoàn Giỏi, có tính cách phóng khoáng, trượng nghĩa, lại pha lẫn chút ngang tàng, bụi bặm. Nhân vật này đã để lại trong tôi những ấn tượng, tình cảm sâu sắc.
Có thể nói chú Võ Tòng là một người thành thật, khảng khái, tốt bụng, có chút liều lĩnh, ngang tàng ẩn trong một hình hài hung dữ. Người đọc hẳn sẽ còn nhớ hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ của chú Võ Tòng. Đây chính là cái tích để người ta gọi chú là Võ Tòng giống như nhân vật trong Thủy hử. Bởi Võ Tòng trong Thủy hử là một người vô cùng khỏe mạnh, đã tay đôi đấu với hổ và giành chiến thắng. Việc đánh hổ cho thấy Võ Tòng dù là nhân vật trong tác phẩm nào cũng có một sức mạnh thật phi thường và một bản lĩnh hiếm có. Riêng với Võ Tòng trong Đất rừng phương Nam, sức mạnh thể lực và bản lĩnh ấy đã được thể hiện bằng hàng sẹo dài có phần hung dữ.
Vẻ bề ngoài tưởng như hung dữ của Võ Tòng lại ẩn chứa bên trong là một con người có lòng tốt bụng, thành thật, gần gũi. Điều này được thể hiện qua cách ăn mặc, ngôn ngữ, hành động và suy nghĩ của nhân vật. Trong mắt cậu bé An, chú Võ Tòng là một người gần gũi, tốt tính, hào phóng. Chú ăn mặc dân dã, cởi trần, mặc chiếc quần ka ki nhưng đã lâu không giặt. Chú nói với An theo lối trêu đùa, vui vẻ; hứa với An sẽ sẵn một con heo hoặc nai cho cậu. Đặc biệt, tôi ấn tượng với chi tiết chú Võ Tòng lấy miếng khô nai to nhất đưa cho An để cậu nhai cho đỡ buồn miệng. Tại sao phải là miếng khô nai to nhất mà không phải một miếng khô nai nào khác? Đó là vì chú Võ Tòng quan tâm, quý mến An và cũng là sự hào phóng, tốt bụng của chú.
Sự thành thật của chú Võ Tòng được thể hiện qua hai chi tiết. Đó là khi chú giết chết địa chủ và tự đi đầu thú và dân làng đều quý chú vì sự thành thật, chân chất của chú. Chỉ với hai chi tiết này thôi, chú Võ Tòng đã hiện lên là một người đáng tin tưởng, đáng để nhận được sự tôn trọng, quý mến mà không phải là sự sợ hãi ban đầu khi nhìn thấy hàng sẹo dài chạy từ thái dương xuống cổ.
Chú Võ Tòng dễ gần, dễ mến còn bởi chú là một người có suy nghĩ thấu đáo, chu toàn. Chú đã chia cho bác Hai những mũi tên mà chú đã chuẩn bị, tẩm thuốc độc để giết lũ giặc Pháp. Nhưng chú lại không nói điều đó với má nuôi của An - vợ của bác Hai vì sợ má An ngăn trở công việc, sợ rằng má An sẽ cảm thấy sợ hãi. Chính cái im ỉm, không nói với má của An đã cho thấy chú Võ Tòng là một người có suy nghĩ thấu đáo. Cũng ở chi tiết này, người đọc còn thấy được một phầm chất đáng quý của chú Võ Tòng như bao nhiêu người Việt Nam khác. Đó là tình yêu quê hương, đất nước, căm thù lũ giặc xâm lược. Chẳng vậy mà chú Võ Tòng đã tẩm thuốc độc vào những mũi tên để chuẩn bị đi hạ những tên lính giặc.
Như vậy, có thể thấy, chú Võ Tòng trong tác phẩm Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi là một nhân vật có vẻ ngoài hung dữ, nhưng ẩn chứa bên trong lại là những vẻ đẹp rất ấm áp. Đó là sự chân thành, thật thà, thẳng thắn; là sự quan tâm, chăm sóc, lo nghĩ chu đáo; là sự hào phóng, tốt bụng; là lòng yêu nước nhiệt thành. Nhân vật Võ Tòng chính là đại diện cho hình ảnh con người Nam Bộ giàu sự phóng khoáng, tốt bụng và tình cảm.
Mẫu phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 3
“Người đàn ông cô độc giữa rừng” trích trong cuốn tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi. Nổi bật trong đoạn trích là nhân vật Võ Tòng.
Nhân vật này được khắc họa qua lời kể của cậu bé An trong tình huống theo tía nuôi đến thăm Võ Tòng. Trước tiên, về tên tuổi, không ai biết tên thật của Võ Tòng là gì, người dân ở đây chỉ biết rằng từ mười mấy năm về trước, chú đã một mình bơi xuồng đến dựng lều giữa khu rừng đầy thú dữ. Người ta vẫn truyền nhau kể lại việc một mình Võ Tòng đã giết chết hơn hai mươi con hổ. Có lẽ nguồn gốc cái tên Võ Tòng cũng bắt đầu từ đó. Về ngoại hình, chú thường cởi trần, mặc chiếc quần kaki còn mới nhưng coi bộ đã lâu không giặt chiếc quần lính Pháp có những sáu túi. Bên hông chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê, nằm gọn trong vỏ sắt. Qua đây, có thể thấy được tính cách phóng khoáng của chú, thể hiện sự mạnh mẽ gan dạ.
Ẩn sâu trong vẻ bên ngoài dị thường là một tính cách hiền lành, tốt bụng. Cuộc đời của Võ Tòng đã phải trải qua nhiều bất hạnh. Trước đây, chú cũng từng có một gia đình như ai. Vợ chú là một người đàn bà xinh xắn, lúc mang thai đứa con đầu lòng cứ kêu thèm ăn măng. Yêu quý vợ hết mực, chú liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về ngang qua bờ tre nhà địa chủ liền bị hắn vu cho tội ăn trộm. Võ Tòng một mực cãi lên nhưng bị tên địa chủ quyền thế lại ra sức đánh, khiến chú chém trả. Nhưng chú không trốn chạy mà đường hoàng chịu tội, đó là sự dũng cảm, dám làm dám chịu của một đáng nam nhi. Sau khi đi ở tù về thì nghe tin vợ đã lấy tên địa chủ, còn đứa con trai độc nhất thì đã chết, Võ Tòng liền bỏ làng đi, vào trong rừng sống. Ở trong rừng lâu, chú càng trở nên kì hình dị tướng. Nhưng mọi người đều quý mến chú bởi tính tình chất phác, thật thà, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người xung quanh mà không nghĩ đến chuyện nhận được đền đáp.
Võ Tòng cũng là một người gan dạ, giàu lòng yêu nước thể hiện qua cuộc trò chuyện với tía nuôi của An về chuyện đánh giặc Pháp. Từ việc chú chuẩn bị những mũi tên tẩm thuốc độc, rồi chia cho tía nuôi của An, cũng như việc kể lại chiến công giết chết tên giặc Pháp với vẻ hào hứng, sung sướng. Không chỉ vậy, chú còn
Như vậy, nhân vật Võ Tòng trong tác phẩm Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi được xây dựng với vẻ ngoài hung dữ, nhưng ẩn chứa bên trong lại là những vẻ đẹp rất người. Đó là sự chân thành, thật thà, thẳng thắn; là sự quan tâm, chăm sóc, lo nghĩ chu đáo; là sự hào phóng, tốt bụng; là lòng yêu nước nhiệt thành. Nhân vật này đã đại diện cho hình ảnh con người Nam Bộ giàu sự phóng khoáng, tốt bụng và tình cảm.
Mẫu phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 4
Trong chương trình Ngữ Văn 7, em đã được tìm hiểu rất nhiều những tác phẩm văn học đặc sắc, những nhân vật văn học ấn tượng. Trong đó, em đặc biệt ấn tượng với nhân vật Võ Tòng, trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng
Không ai biết chú Võ Tòng tên thật là gì? Quê quán ở đâu? Người ta chỉ biết chú có tên là Võ Tòng từ khi chú giết chết một con hổ chúa hung bạo. Hai hố mắt sâu hoắm và từ trong đáy hố sâu thẳm đó, một cặp tròng mắt trắng dã, long qua, long lại, sắc như dao;…Chú thường cởi trần, mặc chiếc quần kaki còn mới nhưng coi bộ đã lâu không giặt chiếc quần lính Pháp có những sáu túi. Bên hông chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê, nằm gọn trong vỏ sắt. Ngoại hình của chú thật phóng khoáng thể hiện sự mãnh mẽ gan dạ.
Cuộc đời của chú Võ Tòng thật bất hạnh, khi chú phải chịu nỗi oan ức thê thảm đã đẩy chú vào ngục tù. Trước khi đi tù, chú có gia đình đàng hoàng, vợ là người đàn bà xinh xắn. Lúc vợ chửa đứa con đầu lòng, vì thèm ăn măng. Chú bèn xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụi măng. Khi về, đi qua bờ tre nhà tên địa chủ, chú bị tên địa chủ vu vạ cho là ăn trộm. Chú cãi lại, tên địa chủ đánh vào đầu chú, chú đánh lại và tự lên nhà việc nộp mình. Sau khi ra tù, vợ chú đã làm lẽ tên địa chủ. Đứa con trai độc nhất chú chưa biết mặt đã chết từ khi chú ngồi trong tù. Chú không đi tìm tên địa chủ để quyết đấu mà bỏ làng ra đi vào rừng ở quanh năm săn bắt thú.
Chú Võ Tòng là người mạnh mẽ, gan dạ lại có tinh thần yêu nước sâu sắc. Được thể hiện trong cuộc chiến đấu với con hổ chúa. Khi đánh lại tên địa chủ và dũng cảm ra nhà việc nhận tội. Khi sẵn sàng làm nỏ tẩm thuốc cho ông Hai để bắn quân giặc.
Như vậy, chú Võ Tòng là nhân vật tiêu biểu đại diện cho những người dân Nam Bộ, phóng khoáng, mạnh mẽ, gan dạ, có tinh thần yêu nước nồng nàn, da diết
Mẫu phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 5
Trong đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng”, nhà văn Đoàn Giỏi đã khắc họa hình ảnh Võ Tòng - một nhân vật có tính cách phóng khoáng, trượng nghĩa, lại có chút ngang tàng, bụi bặm.
Tên gọi Võ Tòng, gợi nhắc đến nhân vật cùng tên trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Thủy hử” của tác giả Thi Nại Am. Trong đoạn trích “Đi lấy mật” cũng có đoạn giải thích về nguồn gốc của cái tên Võ Tòng. Người dân trong vùng không ai biết tên thật của Võ Tòng là gì. Họ chỉ biết rằng từ mười mấy năm về trước, chú đã một mình bơi xuồng đến dựng lều giữa khu rừng đầy thú dữ. Người ta vẫn truyền nhau kể lại việc một mình Võ Tòng đã giết chết hơn hai mươi con hổ. Có lẽ, đây chính là cái tích để người dân vùng này gọi chú là với cái tên Võ Tòng. Bởi lẽ, Võ Tòng trong “Thủy hử” là một người khỏe mạnh, đã tay đôi đấu với hổ và giành chiến thắng. Việc đánh hổ cho thấy Võ Tòng dù là nhân vật trong tác phẩm nào cũng có một sức mạnh thật phi thường và một bản lĩnh hiếm có.
Vẻ bề ngoài của Võ Tòng gợi ra một con người hung dữ, nhưng nét tính cách lại tốt bụng, chất phác. Trong mắt của An, chú Võ Tòng là một người gần gũi, tốt tính, hào phóng. Cách ăn mặc rất dân dã: cởi trần, mặc chiếc quần kaki nhưng đã lâu không giặt. Cách nói chuyện hài hước, gần gũi.
Cuộc đời của Võ Tòng phải chịu nhiều đau thương. Từng có một gia đình hạnh phúc, có vợ đẹp với đứa con chưa chào đời. Nhưng vì một chuyện hiểu lầm, Võ Tòng rơi vào cảnh tù tội. Đến khi trở về, vợ đã lấy người khác, còn đứa con chưa kịp chào đời đã chết. Túng quẫn, chú bỏ làng đi, sống một mình trong rừng. Tuy vẻ bề ngoài kì dị, nhưng người ta mến chú vì tính cách.
Võ Tòng còn là một người có suy nghĩ thấu đáo, chu toàn. Chú đã chia cho tía nuôi của An những mũi tên mà chú đã chuẩn bị, tẩm thuốc độc để giết lũ giặc Pháp. Chú Võ Tòng như bao nhiêu người Việt Nam khác, cũng có tình yêu quê hương, đất nước, lòng căm thù lũ giặc xâm lược.
Như vậy, chú Võ Tòng trong tác phẩm Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi là một nhân vật có vẻ ngoài hung dữ, nhưng ẩn chứa bên trong lại là những vẻ đẹp rất người. Nhân vật này chính là đại diện cho hình ảnh con người Nam Bộ giàu sự phóng khoáng, tốt bụng và tình cảm.
Mẫu phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 6
Võ Tòng là một trong những nhân vật chính trong tác phẩm Đất rừng phương Nam của tác giả Đoàn Giỏi. Đây là một con người đặc biệt với tâm hồn đẹp đẽ rắn rỏi ẩn giấu sau ngoại hình kỳ dị khác người. Cuộc đời của chú trải qua nhiều bất hạnh và oái oăm, những con người này vẫn luôn giữ được nét phóng khoáng và cái tâm thiện lương đậm chất Nam Bộ.
Theo lời kể của tác giả, chú Võ Tòng không có lai lịch rõ ràng. Chẳng ai biết tên thật của chú là gì, quê quán gốc gác ở đâu. Võ Tòng chỉ là cái tên mà mọi người gọi chú theo một sự tích trong truyện Tàu thường nghe. Ngoại hình của chú khá kỳ dị, khác người. Hai hố mắt sâu hoắm với tròng mắt trắng dã long qua long lại, sắc lẹm như dao. Mái tóc hung hung giống bờm ngựa dài tới gáy. Gò má bên phải của chú có tới năm cái sẹo dài như đầu móng cọp cào. Bắt gặp một dáng dấp như thế, một con người như thế, dù là ai cũng sẽ thấy sợ hãi nếu chưa quen biết chú thật thân thiết.
Chú Võ Tòng từng trải qua nhiều chuyện oái oăm. Bị bọn địa chủ bóc lột và cướp công, cướp cả vợ. Quá uất ức, chú gây án và tự đến nhà việc để nộp mình. Đến khi ra tù, con chết, mất luôn cả vợ vào tay địa chủ. Người ta những tưởng chú sẽ lại thực hiện một cuộc trả thù đẫm máu, nhưng người đàn ông chỉ cười lớn rồi lầm lũi vào rừng làm nghề săn bẫy thú, sống ẩn dật ít lui tới với mọi người.
Ở trong rừng nhiều năm, Võ Tòng trơ trọi một mình nhưng cũng không nghĩ ngợi hay để mắt tới người đàn bà nào nữa. Ngày qua ngày, chú càng trở nên kỳ hình dị tướng. Người dân xung quanh dần dần quen với sự hiền lành chất phác của chú. Ai cũng quý mến và thương cho người đàn ông cô độc ấy.
Dù đã trải qua rất nhiều những bất hạnh, áp bức trong đời nhưng chú Võ Tòng vẫn luôn giữ được tinh thần hào sảng và nét chất phác hiền lành của một người nông dân. Đối lập với vẻ bề ngoài xù xì gân guốc là một người đàn ông giản dị, sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không mong cầu đền ơn trả nghĩa.
Trong em, Võ Tòng luôn hiện lên là một hình ảnh đẹp, đại diện cho người nông dân Nam Bộ bình thường mà bất khuất anh dũng. Những con người cần cù chất phác trong đời thường, khi có giặc thì không ngại cầm súng cầm giáo, chấp nhận hi sinh cả mạng sống để bảo vệ mảnh đất quê hương yêu dấu bao đời. Đó chính là những tấm gương lớn, nhắc nhở em về thái độ trân trọng, biết ơn cuộc sống hòa bình ấm no mà mình đang được hưởng, đồng thời phải ra sức cố gắng để cống hiến, đáp đền những hi sinh oanh liệt ấy.
Mẫu phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 7
Tiểu thuyết “Đất rừng phương Nam” được coi là một tiểu thuyết xuất sắc viết về thiên nhiên và con người vùng sông nước miền Tây. Đặc biệt là đoạn trích “Người đàn ông giữa rừng” đã làm nổi bật lên hình ảnh những con người giản dị, chất phác nhưng dũng cảm. Trong đó, em ấn tượng nhất là nhân vật Võ Tòng.
Nhân vật Võ Tòng là một người có ngoại hình cao lớn và kì lạ. “Chú cởi trần, mắc chiếc quần ka ki còn mới, nhưng coi bộ đã lâu không giặt (chiếc quần của lính Pháp có những sáu túi). Bên hông chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi tả. Lại còn thắt cái xanh-tuya-rông nữa chứ!” Qua lời kể của cậu bé An trong truyện, ta thấy nhân vật Võ Tòng là một người rất thằng tính, xuề xòa và không coi trọng hình thức. Đó là biểu hiện cho sự chân chất, thật thà của người dân miền Tây.
Không chỉ vậy, chú còn là một người rất bất hạnh. Không ai biết Võ Tòng tên là gì, đến từ đâu, họ chỉ biết mấy năm về trước gã một mình bơi chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng đầy thú dữ. Chú sống đơn độc một mình. Là một người dụng cảm, không sợ sệt và dám đương đầu với thú dữ. Trước kia, chú cũng có gia đình đàng hoàng nhưng vì đánh tên địa chủ, hú bị bắt đi tù. Sau khi ra tù, chị vợ hắn đã là vợ lẽ của gã địa chủ kia và con trai của chú. Sau đó chú bỏ vào rừng, làm nghề săn thú nguy hiểm. Tình cảnh đó gợi cho người đọc một niềm cảm thông về một con người cô đơn, bất hạnh nhưng không sợ trời, không sợ đất, luôn thẳng thắn và là một người tử tế, dám làm dám chịu.
Chú Võ Tòng còn là một người tốt bụng, có tình nghĩa. Chú là một người chất phác, thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề để ý đến chuyện người ta có đền đáp mình hay không. Chú rất yêu quý tía nuôi của An và thường gọi bằng cái tên thân mật “anh Hai”. Chi tiết trao con dao găm và cánh nỏ của chú Võ Tòng cho anh Hai thể hiện sự có tình nghĩa, giúp đỡ người khác của nhân vật Võ Tòng. Trong thời buổi loạn lạc, ai cũng lo sợ bọn giặc Pháp vậy mà chú lại trao vũ khí cho người khác để bảo vệ họ thay vì mình. Điều đó thể hiện tinh thần quả cảm, gan dạ và tấm lòng lương thiện của chú Võ Tòng.
Như vậy, ta thấy, đây là một nhân vật tuy bất hạnh nhưng vẫn mang trong mình bản tính lương thiện, tinh thần quả cảm đầy gan dạ của một người đàn ông to lớn giữa thời buổi loạn lạc. Qua đó, em càng cảm thấy ngưỡng mộ và khâm phục tính cách của nhân vật này hơn.
Mẫu phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 8
Trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi, có một nhân vật tính cách phóng khoáng, trượng nghĩa, lại pha lẫn chút ngang tàng, bụi bặm. Đó là Võ Tòng, một nhân vật cùng tên với nhân vật trong Thủy hử của Thi Nại Am. Võ Tòng trong Đất rừng phương Nam đã để lại trong tôi những ấn tượng, tình cảm sâu sắc.
Có thể nói chú Võ Tòng là một người thành thật, khảng khái, tốt bụng, có chút liều lĩnh, ngang tàng ẩn trong một hình hài hung dữ. Người đọc hẳn sẽ còn nhớ hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ của chú Võ Tòng. Đây chính là cái tích để người ta gọi chú là Võ Tòng giống như nhân vật trong Thủy hử. Bởi Võ Tòng trong Thủy hử là một người vô cùng khỏe mạnh, đã tay đôi đấu với hổ và giành chiến thắng. Việc đánh hổ cho thấy Võ Tòng dù là nhân vật trong tác phẩm nào cũng có một sức mạnh thật phi thường và một bản lĩnh hiếm có. Riêng với Võ Tòng trong Đất rừng phương Nam, sức mạnh thể lực và bản lĩnh ấy đã được thể hiện bằng hàng sẹo dài có phần hung dữ.
Vẻ bề ngoài tưởng như hung dữ của Võ Tòng lại ẩn chứa bên trong là một con người có lòng tốt bụng, thành thật, gần gũi. Điều này được thể hiện qua cách ăn mặc, ngôn ngữ, hành động và suy nghĩ của nhân vật. Trong mắt cậu bé An, chú Võ Tòng là một người gần gũi, tốt tính, hào phóng. Chú ăn mặc dân dã, cởi trần, mặc chiếc quần ka ki nhưng đã lâu không giặt. Chú nói với An theo lối trêu đùa, vui vẻ; hứa với An sẽ sẵn một con heo hoặc nai cho cậu. Đặc biệt, tôi ấn tượng với chi tiết chú Võ Tòng lấy miếng khô nai to nhất đưa cho An để cậu nhai cho đỡ buồn miệng. Tại sao phải là miếng khô nai to nhất mà không phải một miếng khô nai nào khác? Đó là vì chú Võ Tòng quan tâm, quý mến An và cũng là sự hào phóng, tốt bụng của chú.
Sự thành thật của chú Võ Tòng được thể hiện qua hai chi tiết. Đó là khi chú giết chết địa chủ và tự đi đầu thú và dân làng đều quý chú vì sự thành thật, chân chất của chú. Chỉ với hai chi tiết này thôi, chú Võ Tòng đã hiện lên là một người đáng tin tưởng, đáng để nhận được sự tôn trọng, quý mến mà không phải là sự sợ hãi ban đầu khi nhìn thấy hàng sẹo dài chạy từ thái dương xuống cổ.
Chú Võ Tòng dễ gần, dễ mến còn bởi chú là một người có suy nghĩ thấu đáo, chu toàn. Chú đã chia cho bác Hai những mũi tên mà chú đã chuẩn bị, tẩm thuốc độc để giết lũ giặc Pháp. Nhưng chú lại không nói điều đó với má nuôi của An - vợ của bác Hai vì sợ má An ngăn trở công việc, sợ rằng má An sẽ cảm thấy sợ hãi. Chính cái im ỉm, không nói với má của An đã cho thấy chú Võ Tòng là một người có suy nghĩ thấu đáo. Cũng ở chi tiết này, người đọc còn thấy được một phầm chất đáng quý của chú Võ Tòng như bao nhiêu người Việt Nam khác. Đó là tình yêu quê hương, đất nước, căm thù lũ giặc xâm lược. Chẳng vậy mà chú Võ Tòng đã tẩm thuốc độc vào những mũi tên để chuẩn bị đi hạ những tên lính giặc.
Như vậy, có thể thấy, chú Võ Tòng trong tác phẩm Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi là một nhân vật có vẻ ngoài hung dữ, nhưng ẩn chứa bên trong lại là những vẻ đẹp rất người. Đó là sự chân thành, thật thà, thẳng thắn; là sự quan tâm, chăm sóc, lo nghĩ chu đáo; là sự hào phóng, tốt bụng; là lòng yêu nước nhiệt thành. Nhân vật Võ Tòng như vậy đã đại diện cho hình ảnh con người Nam Bộ giàu sự phóng khoáng, tốt bụng và tình cảm. Đọc Đất rừng phương Nam, người đọc không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên Nam Bộ, được chiêm ngưỡng sự hiểu biết và tài năng trong lối viết của Đoàn Giỏi, và còn thấy được vẻ đẹp của con người Nam Bộ. Vẻ đẹp ấy vẫn là một sức hấp dẫn với thế hệ trẻ hôm nay.
Mẫu phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 9
Nếu chưa từng có cơ hội đến với Nam Bộ, chúng ta có thể thử phiêu lưu vào một tác phẩm viết về miền Tây Nam Bộ sẽ có thể cảm nhận như thật và như chính bản thân trải nghiệm, không tác phẩm nào khác chính là “Đất Rừng Phương Nam” đã thể hiện rõ ràng tinh thần cách mạng bất khuất của người dân Nam Bộ đã đứng lên cầm súng đấu tranh chống lại thực dân Pháp và nuôi dưỡng cho các chiến sỹ cách mạng. Tiểu thuyết cho chúng ta được phiêu lưu qua vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ của Nam Bộ và phong tục tập quán, tinh thần cách mạng của người dân nơi đây qua từng câu chữ mà nhà văn Đoàn Giỏi đã gửi gắm trong tác phẩm con cưng của mình. Qua đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng”, ta thấy được một khía cạnh khác về hình ảnh con người Nam Bộ.
Trong đoạn trích, đặc điểm tính cách nhân vật Võ Tòng được nhà văn thể hiện trên những phương diện sau: lời kể của dân làng, qua cách ăn mặc, hành động thái độ khi tiếp khách của chú.
Theo hình dung của em, chú Võ Tòng là một người cao lớn, chất phác. Chú rất dũng cảm, dễ mến, luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người xung quanh mà không nề hà khó khăn nặng nhọc. Những chi tiết về nhà cửa, cách ăn mặc và tiếp khách… gợi lên ấn tượng về chú Theo hình dung của em, chú Võ Tòng là một người cao lớn, chất phác. Chú rất dũng cảm, dễ mến, luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người xung quanh mà không nề hà khó khăn nặng nhọc. Cách tiếp khách của chú cho thấy chú là một người chất phác, hào sảng, trọng tình trọng nghĩa.
Hành vi chống trả tên địa chủ ngang ngược và việc đánh hổ cho thấy chú Võ Tòng là một người đàn ông gan dạ, chính trực. Chú không sợ hiểm nguy cũng không nao núng trước cường quyền. Sau khi gây án, nhân vật cũng không luồn cúi trốn chạy mà trực tiếp đến nhà việc chịu tội.
Không chỉ như vậy câu nói cảm ơn trang trọng của ông Hai và lời đáp của chú Võ Tòng thể hiện sự trân trọng, nghĩa tình. Văn bản đã thành công trong việc miêu tả nhân vật Võ Tòng bằng cách sử dụng nhiều ngôi kể và những tình tiết đặc sắc. Đó là ngôi kể thứ nhất xưng “tôi” của nhân vật An, và ngôi kể thứ ba của người kể chuyện. Cách kể này cho người đọc một cái nhìn đa chiều về Võ Tòng. Trong mắt cậu bé An, chú Võ Tòng là người cởi mở, phóng khoáng, vui tính. Trong mắt người kể chuyện và người dân, Võ Tòng là một người gan dạ, có phần ngang tàng, liều lĩnh nhưng vô cùng tốt bụng và đáng quý. Đoàn Giỏi cũng đã thành công trong việc thể hiện đặc trưng Nam Bộ bằng cách miêu tả tính cách nhân vật, quang cảnh thiên nhiên cùng giọng văn, từ ngữ đậm chất Nam Bộ.
Hình tượng con người Nam Bộ hồn hậu, chất phác, thật thà hồn nhiên được tác giả thể hiện rõ nét qua hình ảnh nhân vật, tiêu biểu là nhân vật chú Võ Tòng. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc kết hợp với việc sử dụng ngôi kể linh hoạt khiến câu chuyện trở nên gần gũi, thân thuộc và khách quan hơn với người đọc.
Mẫu phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 10
Đoàn Giỏi là nhà văn quân đội trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Tên tuổi của ông gắn liền với tiểu thuyết nổi tiếng “Đất rừng phương Nam”. Tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng về cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống và con người nơi vùng đất Nam Bộ. Đặc biệt, đến với đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng”, chúng ta sẽ thấy được những đức tính tốt đẹp của con người phương Nam thông qua nhân vật Võ Tòng.
Từ đôi mắt trẻ thơ của cậu bé An, Võ Tòng hiện lên với vẻ phong trần, bụi bặm. Chú Võ Tòng có một thân hình cường tráng, luôn cởi trần, chỉ mặc một chiếc quần kaki còn mới nhưng lâu không giặt, bên hông đeo lủng lẳng chiếc lưỡi lê. Nổi bật nhất là vết sẹo dài trên mặt “một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ”. Tất cả các chi tiết trên đã gợi cho người đọc ấn tượng về một người đàn ông “kì hình dị tướng”. Thế nhưng, vẻ ngoài có chút bặm trợn ấy không làm người khác ghê sợ mà còn tạo thiện cảm với cậu bé An “có đôi chút cảm tình với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy”.
Song, trái ngược với diện mạo kì lạ lại là những nét đẹp về tính cách, tâm hồn trong con người Võ Tòng. Khi trò chuyện với An, chú Võ Tòng đã có lời nói hết sức gần gũi, thân thiện và vui vẻ. Chú gọi An là “chú em”, xưng hô thân mật “qua” hoặc “chú”. Bên cạnh đó, khi trao đổi với tía nuôi của An, chú luôn giữ lễ phép, tôn trọng nhưng không đánh mất sự thân thiết “Phải không anh Hai?”.
Chú Võ Tòng còn là một người vô cùng dũng cảm. Giây phút con hổ nhảy chồm lên người, chú không hề hoảng sợ, lo lắng mà bình tĩnh xử lí mọi chuyện. Chú giữ nguyên tư thế nằm ngửa, với lấy cái mác bên người rồi đâm thẳng vào hàm dưới của con hổ. Đó còn là lúc chú “nhẹ nhàng” dùng chiếc nỏ giết chết thằng giặc Pháp mà “cái thằng cách năm, sáu thước không hay biết gì”.
Bằng việc sử dụng hòa hợp ngôi kể thứ nhất xưng “tôi” và ngôi kể thứ ba, Đoàn Giỏi đã khắc họa một cách chân thực nhân vật Võ Tòng. Từ đó, chú Võ Tòng hiện lên thật rõ nét với những vẻ đẹp đức tính, phẩm chất đáng quý. Ngoài ra, ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ cũng góp phần để lại ấn tượng sâu đậm cho bạn đọc về hình ảnh người đàn ông phóng khoáng, mạnh mẽ, sống cô độc nơi rừng sâu.
Nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng” quả là một con người lương thiện, tốt bụng và dũng cảm. Nhân vật cũng chính là hình ảnh đại diện cho người dân hiền hậu, chân chất nơi vùng đất phương Nam trù phú. Có thể nói, nhà văn Đoàn Giỏi thật tài tình khi tái hiện sắc nét cuộc sống, thiên nhiên và con người Nam Bộ.
Mẫu phân tích nhân vật Võ Tòng trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng - Mẫu 11
Văn bản “Người đàn ông cô độc giữa rừng” là đoạn trích trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi, là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi rất thành công và nổi tiếng của ông. Truyện đã được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài, tái bản nhiều lần, được dựng thành phim và in trong Tủ Sách Vàng của Nhà xuất bản Kim Đồng. Đoạn trích kể về việc tía nuôi dắt An đi thăm chú Võ Tòng. Trong cuộc gặp đó Võ Tòng kể cho hai cha con An về việc giết hổ, giết tên địa chủ và hành động Võ Tòng làm mũi tên tẩm độc trao cho ông Hai. Qua hình ảnh nhân vật Võ Tòng, ta cảm nhận rõ hơn những phẩm chất của con người Nam Bộ nơi đó.
Ngay từ nhan đề, “Người đàn ông cô độc giữa rừng gợi cho em suy nghĩ về người đàn ông sống giữa rừng hoang vu hẻo lánh, sống cuộc sống cô độc, lạnh lẽo và hình hài có phần dị dạng. Cũng bởi vì bên trong văn bản, bằng lời kể em có thể hình dung được Võ Tòng hiện lên là người có thân hình vạm vỡ, tóc dài, khuôn vặt chữ điền, có vết sẹo dài từ thái dương xuống cổ; chú có ngước da ngăm đen khỏe mạnh; giọng nói của chú trầm và rõ ràng. Đồng thời em cũng thấy được Võ Tòng là một con người nghĩa hiệp, bản lĩnh và yêu nước.
Đặc điểm tính cách nhân vật Võ Tòng được nhà văn thể hiện trên những phương diện như nơi ở, cách ăn mặc, lời nói (cách tiếp đãi khách), hành động (giết hổ, giết địa chủ, làm mũi tên). Những chi tiết về nhà cửa (lều, cái bếp cà ràng, nồi đất, ngồi bằng gộc cây…), cách ăn mặc (cởi trần, mặc quần kaki mới thắt xanh-tuya-rông, bên hông lủng lẳng lưỡi lê) và tiếp khách (chai rượu vơi và đĩa khô, xưng hô chú em) gợi cho người đọc nhiều ấn tượng về chú Võ Tòng có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười. Cách uống rượu của Võ Tòng trong mắt An: “rót rượu ra bát, uống một ngụm, trao bát sang cho tía nuôi tôi” khiến nhân vật này hiện lên tuy xù xì, chất phác nhưng lại uống rượu từ tốn, có chút thận trọng nhưng cũng hết sức gần gũi. Lời nói của Võ Tòng với tía nuôi “tôi” là sự so sánh giữa con dao găm, cánh nỏ với cái súng của bọn giặc. Võ Tòng cho rằng súng dở lắm, kêu ầm ĩ và cầm súng là nhát gan vì ở xa cũng bắn được mà. Còn cầm dao và nỏ thì tách một tiếng không ai hay biết. Qua đây người đọc thấy được khí phách kiên cường, bản lĩnh gan dạ dũng cảm của nhân vật Võ Tòng.
Chuyện Võ Tòng giết hổ gợi cho người đọc một nhân vật có sức mạnh phi thường, tính cách khẳng khái, trượng nghĩa hào hiệp. Tuy nhiên hành động đó cũng hé mở cho người đọc một cuộc đời nhiều sóng gió của nhân vật. Hành vi chống trả tên địa chủ với việc đánh hổ của Võ Tòng có nhiều điểm giống nhau, giống về nguyên nhân chính là từ cái ác đều tự tìm đến với nhân vật: “gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào”; “tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn”. Nếu xét về về hành động tiêu diệt cái ác là nhân vật thẳng tay trừng trị cái ác: “gã vớ luôn cái mác…đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa”; “nhát dao chém trả vào mặt…nằm gục xuống vũng máu” cũng có nét tương đồng. Hay kết quả là cái ác bị tiêu diệt “con hổ lộn vòng rơi xuống đất”, tên địa chủ “nằm gục xuống vũng máu”. Và nhân vật Võ Tòng cũng nhận lại kết quả đau đớn theo suốt quãng đường đời còn lại là “hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ”, bị tù mười năm và đứa con trai độc nhất đã chết khi gã còn trong tù. Đây cũng là những điểm vô cùng tương đồng, thú vị.
Qua văn bản, em hiểu thêm về con người của vùng đất phương Nam, họ chất phác với những nét sắc sảo lạ lùng: ông Hai và Võ Tòng đều không có đất, quanh năm ở đợ, làm thuê cho địa chủ, bị chúng cướp công, cướp người yêu, cướp vợ, họ đã đánh trả và bị tù, chỗ khác nhau là ông Hai bắt rắn đã trốn tù, đón vợ rồi bỏ vào rừng U Minh. Một con thuyền nhỏ, hai vợ chồng, thằng con trai và con chó Luốc đi lang thang kiếm sống bằng đủ thứ nghề: câu rắn, lấy mật, săn cá sấu…còn Võ Tòng một thân một mình trốn vào sâu trong rừng U Minh….
Đặc biệt, chi tiết Võ Tòng giết hổ để lại ấn tượng mạnh bởi đây là một hình ảnh đẹp; hình ảnh đó cho thấy sức mạnh phi thường của con người, con người đủ khả năng chống trọi lại mọi khó khan khắc nghiệt của tự nhiên để bảo vệ bản thân. Đồng thời hình ảnh đó cũng cho em thấy được tinh thần tự vệ cao của con người Việt Nam.
Văn bản “Người đàn ông cô độc giữa rừng” thể hiện rõ nét những nét đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ vừa chân thật, khẳng khái nhưng hết sức tình cảm và hồn hậu. Điều đó được thể hiện rõ nét qua nhân vật Võ Tòng.
Lời giải
Dàn ý
- Mở bài: Giới thiệu tác phẩm truyện đã học ở sách Ngữ văn 7 Cánh diều tập một và nhân vật mà em có ấn tượng và yêu thích
- Thân bài:
+ Miêu tả ngoại hình, xuất thân của nhân vật
+ Tính cách, hành động, suy nghĩ của nhân vật
+ Những phẩm chất mà nhân vật thể hiện trong văn bản
+ Chi tiết em ấn tượng nhất về nhân vật
- Kết bài: Cảm nhận chung của em về nhân vật trong tác phẩm.
Trong chương trình Ngữ Văn 7, em đã được tìm hiểu rất nhiều những tác phẩm văn học đặc sắc, những nhân vật văn học ấn tượng. Trong đó, em đặc biệt ấn tượng với nhân vật Võ Tòng, trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng
Không ai biết chú Võ Tòng tên thật là gì? Quê quán ở đâu? Người ta chỉ biết chú có tên là Võ Tòng từ khi chú giết chết một con hổ chúa hung bạo. Hai hố mắt sâu hoắm và từ trong đáy hố sâu thẳm đó, một cặp tròng mắt trắng dã, long qua, long lại, sắc như dao;…Chú thường cởi trần, mặc chiếc quần kaki còn mới nhưng coi bộ đã lâu không giặt chiếc quần lính Pháp có những sáu túi. Bên hông chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê, nằm gọn trong vỏ sắt. Ngoại hình của chú thật phóng khoáng thể hiện sự mãnh mẽ gan dạ.
Cuộc đời của chú Võ Tòng thật bất hạnh, khi chú phải chịu nỗi oan ức thê thảm đã đẩy chú vào ngục tù. Trước khi đi tù, chú có gia đình đàng hoàng, vợ là người đàn bà xinh xắn. Lúc vợ chửa đứa con đầu lòng, vì thèm ăn măng. Chú bèn xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụi măng. Khi về, đi qua bờ tre nhà tên địa chủ, chú bị tên địa chủ vu vạ cho là ăn trộm. Chú cãi lại, tên địa chủ đánh vào đầu chú, chú đánh lại và tự lên nhà việc nộp mình. Sau khi ra tù, vợ chú đã làm lẽ tên địa chủ. Đứa con trai độc nhất chú chưa biết mặt đã chết từ khi chú ngồi trong tù. Chú không đi tìm tên địa chủ để quyết đấu mà bỏ làng ra đi vào rừng ở quanh năm săn bắt thú.
Chú Võ Tòng là người mạnh mẽ, gan dạ lại có tinh thần yêu nước sâu sắc. Được thể hiện trong cuộc chiến đấu với con hổ chúa. Khi đánh lại tên địa chủ và dũng cảm ra nhà việc nhận tội. Khi sẵn sàng làm nỏ tẩm thuốc cho ông Hai để bắn quân giặc.
Như vậy, chú Võ Tòng là nhân vật tiêu biểu đại diện cho những người dân Nam Bộ, phóng khoáng, mạnh mẽ, gan dạ, có tinh thần yêu nước nồng nàn, da diết.
An-phông-xơ Đô-đê là một cây bút truyện ngắn nổi tiếng của văn học Pháp. Truyện của ông thường giản dị nhưng rất đằm thắm, thể hiện một tấm lòng gắn bó tha thiết sâu nặng với quê hương đất nước. “Buổi học cuối cùng” là một tác phẩm như thế.
Truyện đưa chúng ta đến một ngôi trường làng vùng An-dát để chứng kiến một câu chuyện đầy xúc động đó là buổi học Pháp văn cuối cùng. Nó được diễn ra trong con mắt quan sát và cảm xúc, suy ngẫm của cậu học trò nhỏ Phrăng và được kề lại bằng chính lời kể của cậu bé.
Phrăng là một cậu học trò nghịch ngợm lại lười học. Cậu thường trốn học đi chơi ngoài đồng nội. Đối với cậu, bầu trời trong trẻo, chim sáo hót ven rừng trên đồng cỏ thường có sức cám dỗ hơn là những phân từ tiếng Pháp. Ngày hôm ấy, Phrăng đã đi học muộn. Khi đến lớp, cậu bé càng thấy ngạc nhiên hơn vì thấy thầy giáo không những chẳng giận dữ mà còn dịu dàng bảo cậu: “Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà lại vắng mặt con”. Còn ở phía cuối lớp, trên những dãy ghế bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ; thầy Ha-men thì mặc một bộ lễ phục thật trang trọng.
Lời bộc bạch của thầy Ha-men vang lên: “Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc -lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con”. Từ lời nói của thầy khiến cho Phrăng cảm thấy choáng váng. Cậu cảm thấy hối hận, đau đớn và tự giận mình về thời gian đã bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt băng trên hồ. Cậu đau lòng khi nghĩ tới chuyện phải giã từ những quyển ngữ pháp, những quyển thánh sử. Cậu quên cả nỗi giận thầy Ha-men vì những lần bị phạt.
Trong buổi học cuối cùng, Phrăng không đọc thuộc những quy tắc về phân từ, nhưng thầy giáo không trách mắng. Thầy giảng giải cho Phrăng và các cậu học trò hiểu hoãn việc học là một tai hoạ lớn. Song điều làm Phrăng cảm thấy xúc động là khi thầy Ha men giang giải về tiếng Pháp. Thầy nói rằng đó là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất thế giới và vững vàng nhất: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững ti ống nói nia mình thì chẳng khác gì nắm được chia khoả chốn lao tù…”
Buổi học cuối cùng diễn ra trong không khí trang nghiêm và xúc động: thầy say sưa giảng bài, trò chăm chú lắng nghe và cặm cụi học tập. Đến khi tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ vang lên, thầy Ha-men trở nên xúc động không nói nên lời: “Các bạn, hỡi các bạn, tôi... tôi…”. Và thầy đã quay về phía bảng, cầm lấy viên phấn và viết một dòng chữ: “Nước Pháp muôn năm”. Có thể nói, đây là câu chuyện xúc động về tình yêu Tô quốc. Tình yêu ấy được biểu hiện cụ thể bằng tình yêu tiếng nói của dân tộc của thầy Ha-men, của những cậu học trò, của dân làng vùng An-dát. Đế diễn tả tình yêu ấy, An-Phông -xơ Đô-đê đã chú ý tập trung vào miêu tả cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng và hành động của các nhân vật, đặc biệt là thầy Ha-men và cậu học trò Phrăng.
Ngòi bút An-Phông-xơ Đô-đê đặc biệt tinh tế khi thế hiện tâm trạng và tình cảm của nhân vật. Cũng qua truyện ngắn này, mượn lời thầy Ha-men, nhà văn muôn nêu lên một chân lý: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù”.
Với tất cả ý nghĩa như trên, “Buổi học cuối cùng” của An-phông-xơ Đô-đê đã trở thành một truyện ngắn hay, được nhiều người yêu mến.
Võ Tòng là một trong những nhân vật chính trong tác phẩm Đất rừng phương Nam của tác giả Đoàn Giỏi. Đây là một con người đặc biệt với tâm hồn đẹp đẽ rắn rỏi ẩn giấu sau ngoại hình kỳ dị khác người. Cuộc đời của chú trải qua nhiều bất hạnh và oái oăm, những con người này vẫn luôn giữ được nét phóng khoáng và cái tâm thiện lương đậm chất Nam Bộ.
Theo lời kể của tác giả, chú Võ Tòng không có lai lịch rõ ràng. Chẳng ai biết tên thật của chú là gì, quê quán gốc gác ở đâu. Võ Tòng chỉ là cái tên mà mọi người gọi chú theo một sự tích trong truyện Tàu thường nghe. Ngoại hình của chú khá kỳ dị, khác người. Hai hố mắt sâu hoắm với tròng mắt trắng dã long qua long lại, sắc lẹm như dao. Mái tóc hung hung giống bờm ngựa dài tới gáy. Gò má bên phải của chú có tới năm cái sẹo dài như đầu móng cọp cào. Bắt gặp một dáng dấp như thế, một con người như thế, dù là ai cũng sẽ thấy sợ hãi nếu chưa quen biết chú thật thân thiết.
Chú Võ Tòng từng trải qua nhiều chuyện oái oăm. Bị bọn địa chủ bóc lột và cướp công, cướp cả vợ. Quá uất ức, chú gây án và tự đến nhà việc để nộp mình. Đến khi ra tù, con chết, mất luôn cả vợ vào tay địa chủ. Người ta những tưởng chú sẽ lại thực hiện một cuộc trả thù đẫm máu, nhưng người đàn ông chỉ cười lớn rồi lầm lũi vào rừng làm nghề săn bẫy thú, sống ẩn dật ít lui tới với mọi người.
Ở trong rừng nhiều năm, Võ Tòng trơ trọi một mình nhưng cũng không nghĩ ngợi hay để mắt tới người đàn bà nào nữa. Ngày qua ngày, chú càng trở nên kỳ hình dị tướng. Người dân xung quanh dần dần quen với sự hiền lành chất phác của chú. Ai cũng quý mến và thương cho người đàn ông cô độc ấy.
Dù đã trải qua rất nhiều những bất hạnh, áp bức trong đời nhưng chú Võ Tòng vẫn luôn giữ được tinh thần hào sảng và nét chất phác hiền lành của một người nông dân. Đối lập với vẻ bề ngoài xù xì gân guốc là một người đàn ông giản dị, sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không mong cầu đền ơn trả nghĩa.
Trong em, Võ Tòng luôn hiện lên là một hình ảnh đẹp, đại diện cho người nông dân Nam Bộ bình thường mà bất khuất anh dũng. Những con người cần cù chất phác trong đời thường, khi có giặc thì không ngại cầm súng cầm giáo, chấp nhận hi sinh cả mạng sống để bảo vệ mảnh đất quê hương yêu dấu bao đời. Đó chính là những tấm gương lớn, nhắc nhở em về thái độ trân trọng, biết ơn cuộc sống hòa bình ấm no mà mình đang được hưởng, đồng thời phải ra sức cố gắng để cống hiến, đáp đền những hi sinh oanh liệt ấy.
Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ là một trong số ít những tác phẩm viết về tình cha con. Trong truyện này, tác giả xây dựng một vài nhân vật: người con, người cha, thằng Tí, bà Sáu… Nhưng với tôi, người để lại nhiều ấn tượng hơn cả là nhân vật người cha.
Nhân vật người cha xuất hiện song hành cùng người con và xuyên suốt câu chuyện. Trong mắt người con, cha hiện lên là một người đảm đang, gần gũi với con “bố trồng nhiều hoa, bố làm cho “tôi” cái bình tưới nhỏ bằng thùng sơn, hai bố con cùng nhau tưới hoa”. Không chỉ có vậy, bố còn là người có cách giáo dục đặc biệt. Bố không dạy lí thuyết sách vở chung chung mà dạy con mọi thứ bằng thực hành, hướng dẫn con để con tự cảm nhận. Hàng ngày bố yêu cầu con nhắm mắt, sờ và đoán các loài hoa trong vườn. Ban đầu chưa quen, con chỉ đoán được một hai loại, dần dà con đã đoán được hết các loài hoa trong vườn của bố, hơn thế nữa con còn thuộc hết khu vườn, vừa nhắm mắt vừa đi mà không chạm phải một vật gì. Bài sờ hoa đoán đã thuộc, người cha tăng độ khó lên, lần này cha cho con ngửi mùi các loài hoa và đoán tên. Trò chơi của bố được lặp lại cho đến khi người con thuộc hết các loài hoa trong vườn thì thôi. Như vậy người đọc không chỉ thấy được phương pháp giáo dục hiện đại của người cha mà còn thấy được sự tỉ mỉ, ân cần trong cách dạy con, thấy được tình yêu thiên nhiên, trân trọng những điều giản dị nhất của người cha.
Bên cạnh đó, thông qua việc giảng giải cho người con về món quà, về sự huyền diệu của tên gọi người đọc còn thấy đây là một người cha sống tình cảm và có hiểu biết rộng. Khi biết con thích gọi tên thằng Tí, người cha đã lí giải cho con “mỗi cái tên là một âm thanh tuyệt diệu. Người càng thân với mình bao nhiêu thì âm thanh đó càng tuyệt diệu bấy nhiêu”. Rồi khi thằng Tí đem cho ổi, mặc dù cha không thích ăn những vẫn ăn ổi nó tặng, người con thắc mắc “sao bố kính trọng nó quá vậy”. Người bố trả lời người con chân thành “bố không cưỡng lại được trước món quà. Một món quà bao giờ cũng đẹp. Khi ta nhận hay cho một món quà, ta cũng đẹp lây vì món quà đó”. Câu nói của nhân vật bố có thể hiểu: món quà chính là tình cảm, tấm lòng của người tặng đã gửi gắm vào đó nên món quà dù lớn hay nhỏ đều đẹp. Cách chúng ta nhận, trân trọng món quà của người tặng cũng thể hiện nét đẹp của chính mình.. Qua đây chúng ta cảm nhận được tình cảm cha con gắn bó tha thiết, người cha đã thể hiện tình yêu thương với đứa con thông qua những bài học sâu sắc từ cuộc sống, biết yêu thương, lắng nghe và thấu hiểu từ thiên nhiên, biết trân trọng mọi thứ xung quanh mình.
Nhân vật người cha được khắc họa qua hành động, cử chỉ, lời nói, cảm xúc, suy nghĩ và qua mối quan hệ với những nhân vật khác (thằng Tí, bà Sáu, hàng xóm…). Khi khắc họa nhân vật người cha, tác giả sáng tạo nhiều chi tiết có giá trị biểu hiện đặc sắc như: người cha nhảy xuống cứu thằng Tí, cầm hai chân dốc ngược; …. Tác giả lựa chọn ngôi kể thứ nhất với điểm nhìn là người con kể về người cha khiến cho câu chuyện được kể hấp dẫn, hồn nhiên và người con dễ dàng bộc lộ được tình cảm, cảm xúc của mình với cha, ví như “bố cười khà khà khen tiến bộ lắm, bố tôi bơi giỏi lắm”…
Xây dựng nhân vật người cha song hành cùng người con không chỉ giúp người đọc thấy được mối quan hệ cha con, tình cảm cha con trong gia đình mà tác giả còn cho người đọc thấy bài học bổ ích về phương pháp giáo dục hiện đại: học bằng thực hành. Đồng thời cũng nhắn nhủ tới các bậc làm cha làm mẹ hãy yêu thương con cái, tạo cho con môi trường lành mạnh, gần gũi chan hòa với thiên nhiên. Thời buổi công nghệ số, con trẻ xem, chơi điện thoại, ipad quá nhiều, vì thế gần gũi giao hòa, cảm nhận thiên nhiên là điều hết sức cần thiết.
Nhân vật người cha để lại trong lòng tôi rất nhiều ấn tượng đẹp, đó không chỉ là tình cảm chân thành với người con mà còn là cách chơi, cách dạy con, cách giảng giải cho con về tất cả những điều mà con khúc mắc. Thầm nghĩ, sau này tôi cũng sẽ hướng dẫn và gần gũi con cái của mình giống như người cha trong câu chuyện Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ.
Thạch Lam thường viết “những truyện không có chuyện”, chủ yếu là khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Một trong những tác phẩm của ông là truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật Sơn.
Truyện được in trong tập truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” (NXB Đời nay, 1937). Sơn là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, được nhà văn xây dựng để gửi gắm những tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Mở đầu truyện, Thạch Lam đã có những câu văn miêu tả tinh tế về sự thay đổi của thời tiết. Từ đó, nhân vật Sơn xuất hiện với những suy nghĩ, hành động hồn nhiên của một đứa trẻ. Cậu tung chăn tỉnh dậy, cậu thấy mọi người trong nhà, mẹ và chị đã trở dậy, ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Mọi người đều “đã mặc áo rét cả rồi”. Ở ngoài sân “Gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Bầu trời không u ám, toàn một màu trắng đục”. Những cây lan trong chậu “lá rung động và hình như sắt lại vì rét”. Nhân vật Sơn thức giấc và cảm nhận được cái lạnh, cậu vơ vội cái chăn trùm lên đầu rồi gọi chị Lan. Sau đó, Sơn được mẹ mặc cho một chiếc áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm. Qua cách giới thiệu này, có thể thấy Sơn được sinh ra trong một gia đình khá giá, nhận được tình yêu thương của mọi người xung quanh.
Sống trong sự chăm sóc của mẹ và chị, nhưng Sơn không kiêu ngạo và xa cách. Cậu sống rất giàu tình cảm, biết yêu thương mọi người xung quanh. Điều đó được thể hiện qua tình cảm với người em gái đã mất. Khi mọi người nhắc đến Duyên - đứa em gái đáng thương của Sơn đã mất năm lên bốn tuổi. Người vú già đã “với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường chỉ”. Sơn cũng cảm thấy “nhớ em, cảm động và thương em quá”. Cậu xúc động khi thấy mẹ “hơi rơm rớm nước mắt”. Những suy nghĩ, cảm xúc ấy cho thấy Sơn là một cậu bé nhạy cảm, giàu lòng thương người. Hay như cách cư xử của Sơn với bọn trẻ con trong xóm - Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc - những đứa trẻ em nghèo khổ vẫn phải mặc những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Hai chị em Sơn tỏ ra thân thiết với chúng chứ không khinh khỉnh như các em họ của Sơn.
Đặc biệt nhất là hành động của Sơn đối với bé Hiên. Khi thấy Hiên đang đứng “co ro” bên cột quán, trong gió lạnh chỉ mặc có manh áo “rách tả tơi”, “hở cả lưng và tay”. Sơn cảm thấy thương xót cho con bé. Sơn chợt nhớ ra mẹ cái Hiên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt thoáng qua trong tâm trí Sơn - đó là đem chiếc áo bông cũ của em Duyên cho Hiên. Nghĩ vậy, cậu đã nói với chị gái của mình, nhận được sự đồng tình của chị. Chị Lan đã “hăm hở” chạy về nhà lấy áo. Còn Sơn thì đứng yên lặng đợi chờ, trong lòng tự nhiên thấy “ấm áp vui vui”. Cảm xúc ấy cho thấy ý nghĩa của sự chia sẻ đem đến sự hạnh phúc cho cả người nhận và người cho. Có thể thấy rằng, nhân vật Sơn tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đã giàu lòng yêu thương.
Qua nhân vật này, nhà văn đã gửi gắm bài học về tình yêu thương, cũng như tấm lòng nhân ái, biết chia sẻ và đồng cảm của con người trong cuộc sống.
Người thầy đầu tiên là một truyện ngắn xuất sắc của Ai-tơ-ma-tốp kể về thầy giáo Đuy-sen qua hồi ức bà viện sĩ An-tư-nai Xu-lai-ma-nô-va, vốn là học trò trước đây của thầy Đuy-sen.
Hình ảnh một người thầy tuyệt đẹp và đáng kính là cảm nhận sâu sắc nhất của mỗi chúng ta khi đọc truyện ngắn này. Khi đến vùng núi quê hương của cô bé An-tư-nai. Thầy Đuy-sen còn trẻ lắm. Học vấn của thầy lúc đó chưa cao, nhưng trái tim thầy dạt dào tình nhân ái và sôi sục nhiệt tình cách mạng. Một mình thầy lao động hằng tháng trời, phạt cỏ, trát lại vách, sửa cánh cửa, quét dọn cái sân..., biến cái chuồng ngựa của phú nông hoang phế đã lâu ngày thành một cái trường khiêm tốn nằm bên hẻm núi, cạnh con đường vào cái làng nhỏ của người Kir-ghi-di, vùng Trung Á nghèo nàn lạc hậu
Khi An-tư-nai và các bạn nhỏ đến thăm trường với bao tò mò “xem thử thầy giáo đang làm gì, ở đấy cũng hay” thì thấy thầy “từ trong cửa bước ra, người bê bết đất”. Thầy Đuy-sen “mỉm cười, niềm nở” quệt mồ hôi trên mặt, rồi ôn tồn hỏi: “Đi đâu về thế, các em gái”. Trước các “vị khách” nhỏ tuổi, thầy hiền hậu nói: “Các em ghé vào đây xem là hay lắm, các em chả sẽ học tập ở đây là gì? Còn trường của các em thì có thể nói là đã xong đến nơi rồi...?”
Đuy-sen đúng là một người thầy vĩ đại, cử chỉ của thầy rất hồn nhiên. Thầy hiền hậu nói lên những lời ấm áp lay động tâm hồn tuổi thơ. Mới gặp các em nhỏ xa lạ lần đầu mà thầy đã nhìn thấy, đã thấu rõ cái khao khát muốn được học hành của các em: “các em chả sẽ học tập ở đây là gì?” Thầy “khoe” với các em về chuyện đắp lò sưởi trong mùa đông..., thầy báo tin vui trường học đã làm xong “có thể bắt đầu học được rồi”. Thầy mời chào hay khích lệ? Thầy nói với các em nhỏ người dân tộc miền núi chưa từng biết mái trường là gì bằng tất cả tình thương mênh mông: “Thế nào, các em có thích học không? Các em sẽ đi học chứ?”
Thầy Đuy-sen quả là có tài, giàu kinh nghiệm sư phạm. Chỉ sau một vài phút gặp gỡ, vài câu nói nhẹ nhàng, thầy đã chiếm lĩnh tâm hồn tuổi thơ. Thầy đã khơi dậy trong lòng các em nhỏ người miền núi niềm khao khát được đi học.
Với An-tư-nai, thầy nhìn thấu tâm can em, cảm thông cảnh ngộ mồ côi của em, thầy an ủi và khen em một cách chân tình: “An-tư-nai, cái tên hay quá, mà em thì chắc là ngoan lắm phải không?”. Câu nói ấy cùng với nụ cười hiền hậu của Đuy-sen đã khiến cho cô gái dân tộc thiểu số bé nhỏ, bất hạnh “thấy lòng ấm hẳn lại”.
Đuy-sen là người thầy đầu tiên, người thầy khai tâm khai sáng cho An-tư- nai. Thầy hiền hậu, thầy yêu thương tuổi thơ. Thầy đã đốt cháy lên trong lòng các em ngọn lửa nhiệt tình khát vọng và khát vọng đi học. Đuy-sen là hình ảnh tuyệt đẹp của một ông thầy tuổi thơ. Con đường tuổi trẻ là con đường học hành. Trên con đường đầy nắng đẹp ấy, anh chị và mỗi chúng ta sẽ được dìu dắt qua nhiều thầy, cô giáo. Cũng như An-tư-nai, trong tâm hồn mỗi chúng ta luôn luôn chói ngời những người thầy, những Đuy-sen cao đẹp.
Ai-ma-tốp đã viết nên một truyện ngắn dưới dạng hồi ức chân thực, cảm động. Hình ảnh Đuy-sen – người thầy đầu tiên và hình ảnh An-tư-nai, cô bé mồ côi khát khao được đi học, được tác giả nói đến với tất cả sự ca ngợi, với niềm thương mến bao la. Người thầy trong truyện ngắn là người thầy của tình thương đến với tuổi thơ, đem ánh sáng cách mạng làm thay đổi mọi cuộc đời. Ngọn lửa tình thương như toả sáng trang văn Ai-ma-tốp, mãi mãi làm ấm áp lòng người. Thầy Đuy-sen càng trở nên gần gũi trong niềm thương mến của tuổi thơ chúng ta.
Truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký” là một tác phẩm đặc sắc và nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Đây là một câu chuyện đầy thú vị và hấp dẫn về hành trình phiêu lưu của Dế Mèn qua nhiều vùng đất của các loài vật khác nhau. Chương đầu tiên của chuyện là “Bài học đường đời đầu tiên” đã miêu tả rõ nét cả ngoại hình và tính cách của Dế Mèn, đồng thời đó cũng là câu chuyện về bài học đầu tiên của Dế Mèn.
Ngay phần mở đầu, nhà văn đã giới thiệu một cách chi tiết về chú dế này. Dế Mèn là một chú dế khỏe mạnh, cường tráng và có lối sống khoa học: “Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm”, “chẳng bao lâu tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng”. Dưới cái nhìn tinh tế, trí tưởng tượng phong phú và kỹ lưỡng, Tô Hoài đã tái hiện chân chung của một chàng dế thanh niên thật đẹp và sinh động: “thân hình cường tráng, đôi càng mẫm bóng, những vuốt ở chân và ở khoeo cứng và nhọn hoắt”, “ chỉ cần lia qua là những ngọn cỏ đã ngã rạp xuống”…
Dế Mèn luôn tự tin về bản thân mình, mỗi bước đi của cậu trở nên “trịnh trọng, khoan thai”, cho ra cái dáng điệu của “con nhà võ”. Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả hình dáng bên ngoài của Dế Mèn, nhà văn còn đi sâu vào tính cách của chú dế này, cho người đọc cảm nhận một chú dế nhỏ bé cũng có những nét tính cách khác nhau. Dế Mèn là một chú dế tự tin, yêu đời và luôn tự hào về bản thân mình, luôn hãnh diện với bà con hàng xóm vì vẻ ngoại hình và sức mạnh của mình. Nhưng chính từ sự tự hào và tự tin thái quá của tuổi trẻ mà Dế Mèn lại trở thành kiểu tự cao, tự đắc, kiêu căng và xốc nổi.
Dế Mèn đem cái sức mạnh của mình đi để chòng ghẹo hàng xóm chứ không phải là giúp đỡ, hàng xóm chỉ là nhường nhịn không thèm chấp với Mèn nhưng chú lại nghĩ đó là họ sợ mình, không ai dám đối đầu với mình. Chính vì thế sự ảo tưởng ngông cuồng của Dế Mèn lại càng được đà đẩy lên cao, bản thân tự cho mình là “một tay ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ rồi”. Rồi chính bản tính kiêu căng, hống hách và ngông cuồng ấy của Dế Mèn đã để lại cho chú dế một bài học nhớ đời, bài học đắt giá ấy đã đánh đổi bằng cả mạng sống của anh bạn hàng xóm là Dế Choắt.
Trái ngược hoàn toàn với Dế Mèn, Dế Choắt là một kẻ gầy gò, ốm yếu, bộ dạng không có sức sống lại không có sức làm. Dế Mèn là hàng xóm nhưng lại chỉ biết chê bai, khinh bỉ, khi Dế Choắt nhờ giúp cũng chẳng bận tâm. Bản tính ngông cuồng của Dế Mèn đã nảy ra ý tưởng trêu chị Cốc, hắn rủ Dế Choắt nhưng Dế Choắt thì sợ không dám, còn căn ngăn nhưng không được. Sau khi trêu chị Cốc, Dế Mèn thì chui tọt vào hang sâu của mình lẩn trốn, mà đâu ngờ người bị chị Cốc tóm được lại là Choắt, Dế Choắt đã gánh chịu mọi hậu quả từ trò đùa dại dột của Dế Mèn. Chỉ đến khi Dế Choắt thoi thóp, Dế Mèn mới ân hận nhận ra lỗi lầm, tuy vậy cũng nhờ có Dế Choắt mà Dế Mèn có được bài học quý giá: “Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn cũng mang vạ vào mình đấy”.
Bằng nghệ thuật miêu tả tài tình và bút pháp nhân hóa so sánh điêu luyện, nhà văn Tô Hoài đã cho người đọc thấy được chân dung sống động về một chú dế. Bên cạnh đó còn rút ra những bài học sâu sắc trong cuộc sống, đó là phải luôn biết khiêm tốn, giúp đỡ người khác và khi mắc lỗi phải biết sửa chữa lỗi lầm.
Cậu bé Mên là nhân vật mà em yêu thích nhất trong truyện ngắn Bầy chim chìa vôi của nhà văn Nguyến Quang Thiều.
Mên là một cậu bé vừa có vẻ trưởng thành của người lớn, vừa mang nét tinh nghịch của trẻ em. Sự trưởng thành của cậu, thể hiện rõ nét trong mối quan hệ với em trai của mình là Mon. Chính sự tin tưởng, dựa dẫm và đặt câu hỏi liên tiếp về mọi thắc mắc của Mon, đã làm cho hình dáng của Mên càng thêm chín chắn trưởng thành. Trong các tình huống xảy ra, Mên là người giải đáp, đưa ra quyết định và chỉ huy cho hai anh em cùng làm. Tựa như việc quyết định lấy đò, chèo ra bờ sông xem bầy chìa vôi non, hay kéo đò vào bờ để cất kẻo trôi trong đêm mưa vậy. Nhưng ở Mên, cũng có những nét trẻ con lộ rõ. Thể hiện qua những lần chợt sợ hãi khi nghĩ về bố - một chi tiết rất thú vị, đặc trưng về tâm lí của trẻ em.
Nhưng tuyệt vời nhất ở nhân vật Mên, thì phải nhắc đến trái tim ấm áp, giàu tình yêu thương của cậu. Hành động lo lắng, cùng em trai chèo đò ra bờ sông trong đêm mưa gió để kiểm tra tình hình mấy chú chìa vôi non đã khẳng định được điều đó. Từng giây phút thấp thỏm theo nhịp vỗ của cánh chim của nhân vật Mên, đã thể hiện được một tâm hồn giàu tình yêu thương của cậu. Sự yêu thương ấy, khiến cậu lo lắng, rồi vui sướng vỡ òa đến bật khóc khi những chú chim được an toàn.
Có thể nói, nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã rất thành công khi xây dựng nên một nhân vật hay và ấn tượng như cậu bé Mên trong truyện Bầy chim chìa vôi.
Cậu bé An trong đoạn trích Đi lấy mật, là một nhân vật mà em rất yêu quý và ấn tượng ngay từ lần đầu tiên đọc tác phẩm.
An là một cậu bé với tình yêu dành cho thế giới thiên nhiên xung quanh minh vô cùng cháy bỏng. Đồng thời, ở cậu cũng luôn rạo rực khát khao được học hỏi và khám phá những cái mới. Nét tính cách này đã được thể hiện rõ qua hành trình đi lấy mật của An cùng cha nuôi và thằng Cò. Trong hành trình lấy mật, An chăm chú và tận hưởng mọi thứ xung quanh mình bằng cả tâm hồn và mọi giác quan. Cậu “đảo mắt khắp nơi” khi nghe lời kể của thằng Cò, rồi nhìn chăm chú, “mắt không rời khỏi tổ ong” mà cha nuôi chỉ. Dù mệt nhọc, vất vả khi lần đầu đi rừng, An vẫn không hề than thở một lời, quyết tâm theo mọi người tiến về phía trước. Tinh thần ấy của cậu bé khiến em vô cùng khâm phục. Tình yêu thiên nhiên ở An được thể hiện rõ nét qua sự thích thú của cậu khi lần đầu được đi “săn ong”. Qua sự thán phục, chăm chú lắng nghe khi cha nuôi và thằng Cò kể về rừng cây, về loài ong mật. Rồi lại ngây ngất trước vẻ đẹp của núi rừng.
Ở nhân vật An, em còn thấy những nét tính cách trẻ con, tinh nghịch rất thú vị, Khi cậu "chen vào giữa, quẩy tòn ten một cái gùi bé" để theo cha nuôi vào rừng. Rồi lại giận dỗi thằng Cò khi bị nó trêu chọc. Nhưng An giận nhanh mà quên cũng nhanh, chẳng mấy mà cậu lại tíu tít với thằng Cò như trước.
Những đặc điểm ấy đã cùng nhau tạo nên sự thú vị và hấp dẫn cho nhân vật vật An nói riêng cũng như đoạn trích Đi lấy mật nói chung.
“Truyện cô bé bán diêm" là một tác phẩm tiêu biểu của An- đéc- xen. Dưới ngòi bút đầy chất thơ của nhà văn, cô bé bán diêm đã phải chết. Em bé đã chết mà đôi má vẫn hồng và đôi môi đang mỉm cười. Hình ảnh cái chết đấy thật đẹp đã thể hiện sự hạnh phúc, mãn nguyện của cô bé, có lẽ em đã thanh thản, tại nguyện vì chỉ mình em được sống trong những điều huy hoàng, kì diệu. Cái chết của em bé bán diêm thể hiện tấm lòng nhân hậu, nhân ái của nhà văn dành cho số phận trẻ thơ, đó là sự cảm thông yêu thương và trân trọng thế giới tâm hồn. Thực tế em bé đã chết rất tội nghiệp, đó là cái chết bi thảm, làm nhức nhối trong lòng người đọc, em đã chết trong đêm giao thừa rét mướt, em nằm ngoài đường sáng mùng một đầu năm trong khi mọi người vui vẻ ra khỏi nhà, kẻ qua người lại mà không hề ai quan tâm đến em, em đã chết vì lạnh, vì đói ở một xó tường, đó là cái chết đau đớn nhưng chắc chắn sẽ thanh thản về tâm hồn. Như vậy, bằng ngòi bút nhân ái lãng mạng của nhà văn, qua cái chết của cô bé bán diêm tác giả muốn tố cáo phê phán xã hội thờ ơ lạnh lùng với những nỗi bất hạnh của những người nghèo khổ bất hạnh, đặc biệt đối với trẻ thơ. Đồng thời, nhà văn còn muốn gửi gắm thông điệp tới người đọc: đó là hãy biết san sẻ yêu thương đừng phũ phàng hoặc vô tình trước nỗi đau bất hạnh, cay đắng của các em bé. Cái chết của em sẽ mãi ám ảnh trong lòng người đọc, khơi dậy cho ta về tình yêu thương con người.
Lời giải
Dàn ý Phân tích nhân vật Phrăng
* Mở bài
- Giới thiệu về tác giả An-phông- xơ Đô-đê và nhân vật Phrăng của tác phẩm Buổi học cuối cùng
* Thân bài
- Câu chuyện kể về buổi học tiếp Pháp cuối cùng của dân làng An-dát về thời kì bị thực dân Đức xâm lược.
- Cậu bé Phrăng là người kể lại câu chuyện đó bằng chính lời văn và cảm xúc của mình
- Sự hối hận muộn màng của cậu bé Phrăng về quá khứ mải chơi, quên việc học hành của bản thân
- Suy nghĩ thấu đáo, trưởng thành của một cậu bé sau biến cố cuộc đời đó.
* Kết bài
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình của tác giả đã bộc lộ được hết cảm xúc, suy nghĩ nhân vật Phrăng
Mẫu 1
Tác giả An-phông- xơ Đô-đê là một nhà văn nổi tiếng người Pháp. Những tác phẩm của ông là những mảnh chuyện giản dị, đơn thuần ngày thường nhưng luôn mang theo một tấm lòng yêu thương con người, đất nước. Ông luôn mang đến những tác phẩm nhân văn, ý nghĩa đến người đọc qua những nhân vật trong tác phẩm. Nhân vật Phrăng trong tác phẩm "Buổi học cuối cùng" của ông là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của ông.
Truyện nói về ngôi làng thuộc vùng An-dát của nước Pháp đầy bi thương thời chiến tranh. Câu chuyện được cậu bé Phrăng kể lại qua sự quan sát của ánh mắt, sự lắng nghe của đôi tai và đặc biệt là cảm xúc của chính mình. Câu chuyện khiến cho mọi người suy ngẫm về cách nhìn nhận vấn đề của một cậu học trò còn nhỏ tuổi.
Phrăng được biết đến là một cậu bé vô cùng nghịch ngợm, lười học, luôn bị cám dỗ bên ngoài mà quên đi mất nhiệm vụ học tập của mình. Cậu thường xuyên bỏ tiết học để lang thang, nhảy múa trên những bãi cỏ ngoài đồng nội. Tiếng chim sáo hót véo von trên ngọn cây, bầu trời trong xanh luôn thu hút Phrăng hơn là những bài học về phân từ tiếng Pháp trên lớp. Ngày hôm đó, cậu lại tiếp tục có ý định bỏ học nhưng bằng một cách nào đó, có một thứ gì thôi thúc cậu rằng cậu phải đến trường. Tuy vậy, cậu vẫn đi học muộn nhưng lại không bị người thầy khó tính của mình trách móc lấy một câu, ngược lại còn rất dịu dàng gọi cậu vào lớp. Từ giây phút đó cậu đã thấy có gì đấy khác xa so với mọi ngày, người thầy mặc bộ quần áo chỉnh tề, có rất nhiều dân làng ngồi cùng lớp học với cậu.
Một lúc sau những lời nói như sét đánh ngang tai của thầy Ha- men được vang lên và thông báo rằng đây sẽ là buổi học tiếng Pháp cuối cùng của dân làng nơi đây. Tất cả mọi người đều sững lại, còn một số người đã biết trước thì cúi mặt, lộ ra vẻ mặt buồn thăm thẳm. Bên cạnh nỗi buồn đó còn có nỗi uất hận và cả sự hối hận của cậu học trò tên Phrăng này. Cậu dằn vặt bản thân, đau đớn khi đã không chăm chỉ đến lớp, chăm chỉ học tập mà mải chơi trên những bãi cỏ hay trượt băng trên những con hồ lớn. Những quyển ngữ pháp hay sách sử cậu từng rất chán ngán giờ nhìn lại chúng đầy sự lưu luyến, tiếc nuối, không muốn rời xa. Cậu cũng quên rằng thầy Ha-men đã đừng khó tính, khó ưa như thế nào, quên đi những lần bị thầy phạt nặng vì không chịu học bài,…Trong buổi học đó. cậu không thuộc những quy tắc đơn giản về phân từ, lúc đó cậu chỉ ước mình chăm chỉ hơn, nhìn nhận ra điều này sớm hơn để không phải hổ thẹn như giờ.
Lời bộc bạch của thầy Ha-men vang lên: “Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc -lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con”. Từ lời nói của thầy khiến cho Phrăng cảm thấy choáng váng. Cậu cảm thấy hối hận, đau đớn và tự giận chính mình về thời gian đã bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt băng trên hồ. Cậu đau lòng khi nghĩ tới chuyện phải giã từ những quyển ngữ pháp, những quyển thánh sử. Cậu quên cả nỗi giận thầy Ha-men vì những lần bị phạt. Thầy Ha-men tiếp tục giảng giải về sự quan trọng của tiếng Pháp, đó không chỉ là ngôn ngữ của một quốc gia, đó còn là chìa khóa để nắm giữ sự tự do, độc lập của đất nước. Cậu bé Phrăng tuy nhỏ tuổi nhưng cậu đã nhìn nhận ra được lỗi sai của bản thân, sự hối hận muộn màng đến từ cậu bé. Cậu cũng nhìn ra được sự ác độc của bọn phát xít Đức, chúng xâm lược Pháp, biến Pháp thành thuộc địa và cũng muốn biến con người Pháp thành những công dân Đức. Từ đó nhìn thấy được lòng yêu nước nồng nàn của cậu bé, sự trưởng thành và lớn lên sau những biến cố cuộc đời.
Bút pháp nghệ thuật của tác giả người Pháp An-phông-xơ Đô-đê đã thể hiện được diễn biến tâm trạng nhân vật, cụ thể là cậu bé Phrăng. Và cũng qua câu chuyện, tác giả dùng nhân vật để nói lên suy nghĩ của bản thân, nói lên một chân lí đó là “Tiếng Pháp muôn năm, nước Pháp muôn năm”.
Mẫu 2
- Sau khi đọc xong truyện ngắn “ Buổi học cuối cùng” của nhà văn An – phông – xơ Đô – đê, nhân vật Phrang đã để lại cho em nhều ân tượng nhất. Trước hết, ta thấy Phrang là một cậu bé ham chơi, thường xuyên trốn học. Tuy nhiên cậu cũng là một người khá sâu sắc, sống có tâm hồn khi cảm nhận được những điều khác lạ đang diễn ra xung quanh mình từ quang cảnh con đường đến trường, lớp học, và cả thái độ của mọi người đặc biệt là thái độ của thầy giáo Ha- men.Và hơn hết cậu đã có sự thức tỉnh đáng quý trong buổi học cuối cùng: đó là lòng yêu tiếng Pháp, yêu dân tộc Pháp.
Mẫu 3
Hình ảnh chú bé Phrăng trong văn bản " Buổi học cuối cùng " của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê đã để lại cho em những ấn tượng sâu sắc. Thật vậy, Phrăng là một chú bé vô tư và hồn nhiên. Tuy đã trễ giờ đến lớp nhưng vì mải chơi, Phrăng đã có ý định trốn học và rong chơi ngoài đồng cỏ. Phrăng cũng như bao đứa trẻ khác, cậu ham chơi, hiếu động và vô lo vô nghĩ. Nhưng điều đặc biệt khiến em vô cùng yêu mến Phrăng đó là tình yêu nước thiết tha ở cậu bé. Tình yêu nước ấy được thể hiện rõ trong buổi học Pháp văn cuối cùng. Khi nghe thầy Ha-men thông báo người dân vùng An-dát không còn được học tiếng Pháp nữa, Phrăng đã cảm thấy sửng sốt, choáng váng và tức giận. Tâm trạng của Phrăng đã có sự biến đổi sâu sắc, cậu cảm thấy ân hận vì đã lãng phí thời gian học tập, không nhớ các quy tắc phân từ của tiếng Pháp. Khi nghe thầy Ha-men giảng bài, Phrăng cảm thấy trân trọng thầy giáo của mình, cậu cũng chưa bao giờ thấy mình hiểu bài nhanh đến thế. Diễn biến tâm trạng của Phrăng trong buổi học cuối cùng đã cho ta thấy được tình yêu nước sâu sắc và mãnh liệt ở chú bé. Em vô cùng yêu mến chú bé Phrăng!
Mẫu 4
Phrăng là nhân vật mà em rất yêu thích trong truyện Buổi học cuối cùng. Cậu hiện lên với vẻ ngây thơ, hồn nhiên và nghịch ngợm cũng giống như biết bao đứa trẻ bằng tuổi. Phrăng cũng từng định trốn học để đi chơi, chểnh mảng việc học. Để rồi đến khi phải đối mặt với sự việc xảy ra quá đột ngột buổi học cuối cùng còn được học tiếng Pháp, cậu đã cảm thấy đau đớn, xót xa. Trong suốt cả buổi học, cậu chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc. Nhờ có buổi học cuối cùng này mà cậu đãhiểu được giá trị của tiếng Pháp - đó không chỉ là tiếng mẹ đẻ mà còn thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Nhân vật này đã giúp em nhận ra được một bài học giá trị, thêm trân trọng ngôn ngữ của dân tộc.
Mẫu 5
Trong truyện Buổi học cuối cùng, em rất ấn tượng với nhân vật Phrăng. Đây là nhân vật trung tâm của truyện, góp phần thể hiện tư tưởng, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm. Phrăng là một cậu bé hồn nhiên, ngây thơ và ham chơi. Vào một buổi sáng đẹp trời, Phrăng đã định trốn học để chạy nhảy trên cánh đồng cỏ Ríp-pe. Nhưng cậu bé cưỡng lại được và ba chân bốn cẳng chạy đến trường. Khi đến lớp học, thầy Ha-men thông báo với cậu đây là buổi học Pháp văn cuối cùng. Từ đó, ở Phrăng đã có những thay đổi. Cậu nghe tin mà rụng rời. Khuôn mặt cậu đỏ bừng vì tức giận, rồi chuyển dần sang tái nhợt vì choáng váng. Đôi mắt đen láy ngây thơ không còn hiện lên vẻ tinh nghịch mà thay vào đó là một nỗi mất mát, một nỗi sợ mơ hồ. Đôi bàn tay nhỏ bé run run lấy sách từ trong cặp để lên bàn, lật giở từng trang thật nhẹ nhàng. Ánh mắt của Phrăng dõi theo thầy Ha-men như thể sợ thầy có thể biến mất. Lúc được gọi lên đọc bài, Phrăng lúng túng và đung đưa người trên chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên vì xấu hổ. Cậu quan sát lớp học, những khuôn mặt, hành động và sự nhẫn nại của thầy Ha-men để khắc sâu hồi ức về buổi học này trước khi bị ép học tiếng Đức. Suốt cả buổi học, Phrăng chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc. Nhờ có buổi học cuối cùng này mà Phrăng mới hiểu được giá trị của tiếng Pháp - đó không chỉ là tiếng mẹ đẻ mà còn thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc.
Mẫu 6
An-phông-xơ Đô-đê là một cây bút truyện ngắn nổi tiếng của văn học Pháp. Truyện của ông thường giản dị nhưng rất đằm thắm, thể hiện một tấm lòng gắn bó tha thiết sâu nặng với quê hương đất nước. “Buổi học cuối cùng” là một tác phẩm như thế.
Truyện đưa chúng ta đến một ngôi trường làng vùng An-dát để chứng kiến một câu chuyện đầy xúc động đó là buổi học Pháp văn cuối cùng. Nó được diễn ra trong con mắt quan sát và cảm xúc, suy ngẫm của cậu học trò nhỏ Phrăng và được kề lại bằng chính lời kể của cậu bé.
Phrăng là một cậu học trò nghịch ngợm lại lười học. Cậu thường trốn học đi chơi ngoài đồng nội. Đối với cậu, bầu trời trong trẻo, chim sáo hót ven rừng trên đồng cỏ thường có sức cám dỗ hơn là những phân từ tiếng Pháp. Ngày hôm ấy, Phrăng đã đi học muộn. Khi đến lớp, cậu bé càng thấy ngạc nhiên hơn vì thấy thầy giáo không những chẳng giận dữ mà còn dịu dàng bảo cậu: “Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà lại vắng mặt con”. Còn ở phía cuối lớp, trên những dãy ghế bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ; thầy Ha-men thì mặc một bộ lễ phục thật trang trọng.
Lời bộc bạch của thầy Ha-men vang lên: “Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc -lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con”. Từ lời nói của thầy khiến cho Phrăng cảm thấy choáng váng. Cậu cảm thấy hối hận, đau đớn và tự giận mình về thời gian đã bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt băng trên hồ. Cậu đau lòng khi nghĩ tới chuyện phải giã từ những quyển ngữ pháp, những quyển thánh sử. Cậu quên cả nỗi giận thầy Ha-men vì những lần bị phạt.
Trong buổi học cuối cùng, Phrăng không đọc thuộc những quy tắc về phân từ, nhưng thầy giáo không trách mắng. Thầy giảng giải cho Phrăng và các cậu học trò hiểu hoãn việc học là một tai hoạ lớn. Song điều làm Phrăng cảm thấy xúc động là khi thầy Ha men giang giải về tiếng Pháp. Thầy nói rằng đó là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất thế giới và vững vàng nhất: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững ti ống nói nia mình thì chẳng khác gì nắm được chia khoả chốn lao tù…”
Buổi học cuối cùng diễn ra trong không khí trang nghiêm và xúc động: thầy say sưa giảng bài, trò chăm chú lắng nghe và cặm cụi học tập. Đến khi tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ vang lên, thầy Ha-men trở nên xúc động không nói nên lời: “Các bạn, hỡi các bạn, tôi... tôi…”. Và thầy đã quay về phía bảng, cầm lấy viên phấn và viết một dòng chữ: “Nước Pháp muôn năm”. Có thể nói, đây là câu chuyện xúc động về tình yêu Tô quốc. Tình yêu ấy được biểu hiện cụ thể bằng tình yêu tiếng nói của dân tộc của thầy Ha-men, của những cậu học trò, của dân làng vùng An-dát. Đế diễn tả tình yêu ấy, An-Phông -xơ Đô-đê đã chú ý tập trung vào miêu tả cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng và hành động của các nhân vật, đặc biệt là thầy Ha-men và cậu học trò Phrăng.
Ngòi bút An-Phông-xơ Đô-đê đặc biệt tinh tế khi thế hiện tâm trạng và tình cảm của nhân vật. Cũng qua truyện ngắn này, mượn lời thầy Ha-men, nhà văn muôn nêu lên một chân lý: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù”.
Với tất cả ý nghĩa như trên, “Buổi học cuối cùng” của An-phông-xơ Đô-đê đã trở thành một truyện ngắn hay, được nhiều người yêu mến.
Mẫu 7
Chú bé Phrăng trong buổi học cuối cùng của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê là một nhân vật đặc biệt để lại cho em nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Mowr đàu đoạn trích ta thấy Phrăng hiện lên là một cậu bé vô tư, hồn nhiên và có phần hơi lười học, thỉnh thoảng cậu còn trốn học để đi chơi. Thế nhưng cậu cũng là một đứa trẻ vô cùng nhạy cảm. Cậu bé vô lo vô nghĩ ấy đã dễ dàng nhận ra sự khác lạ đang diễn ra xung quanh mình. Và hơn hết chú cũng là một công dân vô cùng yêu nước. Tình yêu nước tha thiết được thể hiện rất rõ trong buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp. Khi nghe thầy giảng bài, cậu bỗng thấy yêu tiếng Pháp đến lạ, thấy những bài giảng của thầy hôm nay thật dễ hiểu. Và khi nghe thầy nói rằng từ nay trở đi cậu không còn được học tiếng Pháp nữa thì bỗng dung cậu thấy choáng váng, ân hận vì trước đây đã mải chơi. Diễn biến tâm trạng của Phrăng cho thấy ở cậu có một tình yêu nước mãnh liệt.
Mẫu 8
Trong văn bản "Buổi học cuối cùng", nhân vật cậu bé Ph-răng đã để lại trong em nhiều ấn tượng sâu sắc. Thật vậy, nhân vật Ph-răng là một cậu bé ham chơi nay được đặt vào trong tình huống không bao giờ được học tiếng mẹ đẻ nữa, chính vì vậy, cậu đã bộc lộ những phẩm chất đáng quý. Đầu tiên, Ph-răng là cậu bé ham chơi. Dường như, cậu bé thích nô đùa với thiên nhiên hơn là đi học. Cậu không thuộc bài,hay trốn học và thường xuyên bị thầy giáo Ha-men trách phạt. Thứ hai, cậu bé Ph-răng đã thức tỉnh được tình yêu tiếng Pháp của mình khi nhận ra đây là buổi học tiếng mẹ đẻ cuối cùng. Điều này được thể hiện rất rõ trong diễn biến tâm lý của cậu. Thứ nhất, cậu ngạc nhiên vì những điều khác thường khi đến trường. Khi biết được đây là buổi học cuối cùng, tâm trạng của cậu choáng váng, sững sờ, bất ngờ và xúc động và thương thầy giáo biết bao. Sau đó, cậu cảm thấy nuối tiếc vì sự lười nhác học tập và sự ham chơi đi bắt những chú chim, giờ đây muốn được học tiếng mẹ đẻ cũng chẳng thể được nữa. Bên cạnh đó, cậu cũng thấy ân hận khi không thuộc bài và không đọc được chữ Pháp. Khác với mọi khi, ở buổi học hôm ấy, khi thầy Hamen giảng, cậu đã chăm chú nghe, thấy rõ ràng, dễ hiểu khác với trước đây thấy phức tạp, rắc rối, khó hiểu và thấy yêu thầy, thương thầy biết ơn thầy, tự nhủ sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này. Ta có thể thấy, Ph-răng đã giác ngộ và hiểu ra giá trị của việc học tiếng mẹ đẻ, tha thiết muốn được học, được nói tiếng nói của dân tộc. Cậu ân hận vì những tháng ngày ham chơi của mình. Chẳng những thế, cậu còn hiểu được lời thầy Ha-men rằng, tiếng mẹ đẻ chính là chìa khóa thoát khỏi chốn lao tù. Đây chính là biểu hiện của lòng yêu nước. Tóm lại, Ph-răng là cậu bé ham chơi nhưng bên trong cậu cũng có những tình cảm cao đẹp, đó là sự kính trọng thầy giáo, lòng tự tôn dân tộc và lòng yêu nước.
Mẫu 9
Hôm ấy, chú bé Phrăng định sẽ trốn học và rong chơi ngoài đồng nội. Nhưng rồi lời của bác phó rèn Oát-stơ đã thôi thúc cậu đến lớp. Khi đến lớn cậu bắt gặp bầu không khí im ắng của lớp học - một điều thật kỳ lạ. Cậu cảm thấy thật xấu hổ khi đã đến muộn trong buổi học. Nhưng Phrăng cảm thấy càng kỳ lạ hơn khi thầy Ha-men không quở mắng mình. Chỉ đến khi nghe thầy giáo thông báo đó là buổi học Pháp văn cuối cùng, Phrăng mới hiểu ra. Cậu cảm thấy ngạc nhiên, buồn bã và hối hận. Chú bé thấy bài giảng của thầy dễ hiểu đến lạ lùng, cậu ân hận tại sao bấy lâu nay mình không trận trọng cơ hội được học tiếng mẹ đẻ. Xấu hổ vì bấy lâu nay không chịu học, cậu ước rằng mình có thể đọc trôi chảy tất cả những câu mà thầy giáo đã yêu cầu mình đọc. Tình yêu tiếng mẹ đẻ có lẽ khiến cậu cảm thấy đau đớn giống như thầy giáo của mình.
Mẫu 10
Buổi sáng đẹp trời, Phrăng đã định trốn học để chạy nhảy trên cánh đồng cỏ Ríp-pe, nghe tiếng sáo hót ven rừng, đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Nhưng cậu bé cưỡng lại được và ba chân bốn cẳng chạy đến trường. Thầy Ha-men thông báo với cậu đây là buổi học Pháp văn cuối cùng. Phrăng nghe tin mà rụng rời. Khuôn mặt cậu đỏ bừng vì tức giận, rồi chuyển dần sang tái nhợt vì choáng váng. Đôi mắt đen láy ngây thơ không còn hiện lên vẻ tinh nghịch mà thay vào đó là một nỗi mất mát, một nỗi sợ mơ hồ. Đôi bàn tay nhỏ bé run run lấy sách từ trong cặp để lên bàn, lật giở từng trang thật nhẹ nhàng. Ánh mắt của Phrăng dõi theo thầy Ha-men như thể sợ thầy có thể biến mất. Lúc được gọi lên đọc bài, Phrăng lúng túng và đung đưa người trên chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên vì xấu hổ. Cậu quan sát lớp học, những khuôn mặt, hành động và sự nhẫn nại của thầy Ha-men để khắc sâu hồi ức về buổi học này trước khi bị ép học tiếng Đức. Suốt cả buổi học, Phrăng chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc
Lời giải
Dàn ý
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác phẩm, đoạn trích.
- Nêu cảm nhận chung về nhân vật.
2. Thân bài:
* Phân tích đặc điểm nhân vật:
- Là một người thầy tâm huyết, tận tình với nghề:
+ Dù là buổi học cuối cùng, thầy Ha-men vẫn lên lớp dạy như bao ngày trước kia.
+ Thầy nhẹ nhàng, dịu dàng nhắc nhở học trò thay vì giận dữ như mọi khi.
+ Thầy kiên nhẫn giảng giải hết mọi kiến thức cho học trò.
- Là một người có lòng yêu nước, yêu ngôn ngữ dân tộc tha thiết:
+ Thầy nói với học trò về vẻ đẹp của tiếng Pháp.
+ Khi cho học sinh viết tập, thầy đã chuẩn bị "những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng chữ rông thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát."
+ Xúc động mạnh, người nhợt nhạt khi nghe thấy tiếng kèn của lính Phổ vang lên ngoài cửa sổ.
+ Thầy cầm phấn viết lên bảng dòng chữ "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!" rồi sau đó đứng dựa vào tường, chẳng nói một lời mà chỉ giơ tay ra hiệu "Kết thúc rồi... đi đi thôi!".
* Nhận xét nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng "tôi" -> giúp nhân vật bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc một cách chân thực, rõ nét về thầy Ha-men.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo: khắc họa nhân vật thông qua trang phục, cử chỉ, hành động, lời nói.
3. Kết bài: Nêu ấn tượng và đánh giá về nhân vật.
Mẫu 1
Đoạn trích "Buổi học cuối cùng" trích từ tác phẩm "Chuyện kể của một em bé người An-dát" đã mang đến cho độc giả một câu chuyện cảm động về buổi học cuối cùng của các em vùng An-dát. Thông qua đoạn trích, nhà văn người Pháp An-phông-xơ Đô-đê còn khắc họa rõ nét hình ảnh người thầy Ha-men - một người có lòng yêu nước, yêu ngôn ngữ dân tộc tha thiết.
Bốn mươi năm làm nghề giáo viên, thầy Ha-men luôn hết lòng phụng sự, dốc trọn nhiệt huyết. Vì thế, vào buổi học cuối cùng, thầy vẫn đến lớp như bao ngày. Thầy ăn vận trang trọng, lịch sự "mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng". Có thể thấy, thầy Ha-men luôn quý trọng từng giây, từng phút được đứng trên bục giảng để chỉ bảo kiến thức cho học trò. Dù ngày hôm ấy là buổi học cuối cùng nhưng thầy vẫn tâm huyết, tận tình. Thầy không tỏ thái độ giận dữ khi học trò mắc lỗi như mọi hôm mà chỉ nhẹ nhàng bảo ban "Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con". Trong giờ học, thầy vẫn kiên nhẫn giảng giải tất cả kiến thức "Cứ như thể trước khi ra đi, con người tội nghiệp muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình". Có thể thấy, tấm lòng yêu nghề, khát khao cống hiến luôn rực cháy tận trong sâu thẳm con người thầy Ha-men.
Bên cạnh đó, thầy Ha-men còn là một người có lòng yêu nước, yêu ngôn ngữ dân tộc da diết. Khi buổi học diễn ra, thầy không quên nói về vẻ đẹp của tiếng Pháp. Thầy nhắc nhở, dặn dò học trò của mình "phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên". Hay trong giờ viết tập, thầy còn chuẩn bị "những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng chữ rông thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát.". Thầy hi vọng học trò của mình luôn biết yêu mến, nâng niu, trân trọng ngôn ngữ dân tộc. Từ đây, ta có thể cảm nhận được tình yêu da diết mà thầy Ha-men dành cho tiếng mẹ đẻ - "ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất". Giây phút tiếng kèn của lính Phổ vang lên ngoài cửa sổ, thầy đã không kìm nổi nỗi xúc động ở bản thân "đứng dậy trên bục, người tái nhợt". Lúc này đây, mọi lời nói đã nghẹn ứ nơi cổ họng. Sau cùng, bằng tất cả ý chí và quyết tâm, thầy đã cầm phấn viết lên bảng dòng chữ "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!". Như vậy, tận sâu trong thâm tâm và trái tim thầy là hình bóng Tổ quốc và tiếng nói dân tộc. Hình ảnh thầy đứng dựa vào tường, chẳng nói một lời mà chỉ giơ tay ra hiệu "Kết thúc rồi... đi đi thôi!" làm chúng ta không khỏi cảm động.
Để làm nổi bật hình tượng nhân vật Ha-men, nhà văn Đô-đê đã sử dụng nhiều hình thức nghệ thuật độc đáo. Trước hết, ông đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật. Nhân vật thầy Ha-men hiện lên thật chân thực, rõ nét qua các chi tiết miêu tả trang phục, cử chỉ, lời nói, hành động,... Ngoài ra, việc sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng "tôi" cũng giúp Phrăng dễ dàng bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc về thầy Ha-men và buổi học cuối cùng.
Mỗi khi nhắc tới đoạn trích "Buổi học cuối cùng", chúng ta sẽ chẳng thể nào quên hình bóng người thầy Ha-men yêu nghề, yêu tiếng nói dân tộc và yêu Tổ quốc tha thiết. Mong rằng, những giá trị nhân văn, tốt đẹp của tác phẩm sẽ luôn sống mãi theo dòng chảy thời gian.
Mẫu 2
An-phông-xơ Đô-đê là một cây bút truyện ngắn nổi tiếng của văn học Pháp. Truyện của ông thường giản dị nhưng rất đằm thắm, thể hiện một tấm lòng gắn bó tha thiết sâu nặng với quê hương đất nước. “Buổi học cuối cùng” là một tác phẩm như thế.
Truyện đưa chúng ta đến một ngôi trường làng vùng An-dát để chứng kiến một câu chuyện đầy xúc động đó là buổi học Pháp văn cuối cùng. Nó được diễn ra trong con mắt quan sát và cảm xúc, suy ngẫm của cậu học trò nhỏ Phrăng và được kề lại bằng chính lời kể của cậu bé.
Phrăng là một cậu học trò nghịch ngợm lại lười học. Cậu thường trốn học đi chơi ngoài đồng nội. Đối với cậu, bầu trời trong trẻo, chim sáo hót ven rừng trên đồng cỏ thường có sức cám dỗ hơn là những phân từ tiếng Pháp. Ngày hôm ấy, Phrăng đã đi học muộn. Khi đến lớp, cậu bé càng thấy ngạc nhiên hơn vì thấy thầy giáo không những chẳng giận dữ mà còn dịu dàng bảo cậu: “Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà lại vắng mặt con”. Còn ở phía cuối lớp, trên những dãy ghế bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ; thầy Ha-men thì mặc một bộ lễ phục thật trang trọng.
Lời bộc bạch của thầy Ha-men vang lên: “Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc -lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con”. Từ lời nói của thầy khiến cho Phrăng cảm thấy choáng váng. Cậu cảm thấy hối hận, đau đớn và tự giận mình về thời gian đã bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt băng trên hồ. Cậu đau lòng khi nghĩ tới chuyện phải giã từ những quyển ngữ pháp, những quyển thánh sử. Cậu quên cả nỗi giận thầy Ha-men vì những lần bị phạt.
Trong buổi học cuối cùng, Phrăng không đọc thuộc những quy tắc về phân từ, nhưng thầy giáo không trách mắng. Thầy giảng giải cho Phrăng và các cậu học trò hiểu hoãn việc học là một tai hoạ lớn. Song điều làm Phrăng cảm thấy xúc động là khi thầy Ha men giang giải về tiếng Pháp. Thầy nói rằng đó là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất thế giới và vững vàng nhất: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững ti ống nói nia mình thì chẳng khác gì nắm được chia khoả chốn lao tù…”
Buổi học cuối cùng diễn ra trong không khí trang nghiêm và xúc động: thầy say sưa giảng bài, trò chăm chú lắng nghe và cặm cụi học tập. Đến khi tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ vang lên, thầy Ha-men trở nên xúc động không nói nên lời: “Các bạn, hỡi các bạn, tôi... tôi…”. Và thầy đã quay về phía bảng, cầm lấy viên phấn và viết một dòng chữ: “Nước Pháp muôn năm”. Có thể nói, đây là câu chuyện xúc động về tình yêu Tô quốc. Tình yêu ấy được biểu hiện cụ thể bằng tình yêu tiếng nói của dân tộc của thầy Ha-men, của những cậu học trò, của dân làng vùng An-dát. Đế diễn tả tình yêu ấy, An-Phông -xơ Đô-đê đã chú ý tập trung vào miêu tả cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng và hành động của các nhân vật, đặc biệt là thầy Ha-men và cậu học trò Phrăng.
Ngòi bút An-Phông-xơ Đô-đê đặc biệt tinh tế khi thế hiện tâm trạng và tình cảm của nhân vật. Cũng qua truyện ngắn này, mượn lời thầy Ha-men, nhà văn muôn nêu lên một chân lý: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù”.
Với tất cả ý nghĩa như trên, “Buổi học cuối cùng” của An-phông-xơ Đô-đê đã trở thành một truyện ngắn hay, được nhiều người yêu mến.
Mẫu 3
Đoạn trích "Buổi học cuối cùng" trích từ tác phẩm "Chuyện kể của một em bé người An-dát" đã mang đến cho độc giả một câu chuyện cảm động về buổi học cuối cùng của các em vùng An-dát. Thông qua đoạn trích, nhà văn người Pháp An-phông-xơ Đô-đê còn khắc họa rõ nét hình ảnh người thầy Ha-men - một người có lòng yêu nước, yêu ngôn ngữ dân tộc tha thiết.
Bốn mươi năm làm nghề giáo viên, thầy Ha-men luôn hết lòng phụng sự, dốc trọn nhiệt huyết. Vì thế, vào buổi học cuối cùng, thầy vẫn đến lớp như bao ngày. Thầy ăn vận trang trọng, lịch sự "mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng". Có thể thấy, thầy Ha-men luôn quý trọng từng giây, từng phút được đứng trên bục giảng để chỉ bảo kiến thức cho học trò. Dù ngày hôm ấy là buổi học cuối cùng nhưng thầy vẫn tâm huyết, tận tình. Thầy không tỏ thái độ giận dữ khi học trò mắc lỗi như mọi hôm mà chỉ nhẹ nhàng bảo ban "Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con". Trong giờ học, thầy vẫn kiên nhẫn giảng giải tất cả kiến thức "Cứ như thể trước khi ra đi, con người tội nghiệp muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình". Có thể thấy, tấm lòng yêu nghề, khát khao cống hiến luôn rực cháy tận trong sâu thẳm con người thầy Ha-men.
Bên cạnh đó, thầy Ha-men còn là một người có lòng yêu nước, yêu ngôn ngữ dân tộc da diết. Khi buổi học diễn ra, thầy không quên nói về vẻ đẹp của tiếng Pháp. Thầy nhắc nhở, dặn dò học trò của mình "phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên". Hay trong giờ viết tập, thầy còn chuẩn bị "những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng chữ rông thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát.". Thầy hi vọng học trò của mình luôn biết yêu mến, nâng niu, trân trọng ngôn ngữ dân tộc. Từ đây, ta có thể cảm nhận được tình yêu da diết mà thầy Ha-men dành cho tiếng mẹ đẻ - "ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất". Giây phút tiếng kèn của lính Phổ vang lên ngoài cửa sổ, thầy đã không kìm nổi nỗi xúc động ở bản thân "đứng dậy trên bục, người tái nhợt". Lúc này đây, mọi lời nói đã nghẹn ứ nơi cổ họng. Sau cùng, bằng tất cả ý chí và quyết tâm, thầy đã cầm phấn viết lên bảng dòng chữ "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!". Như vậy, tận sâu trong thâm tâm và trái tim thầy là hình bóng Tổ quốc và tiếng nói dân tộc. Hình ảnh thầy đứng dựa vào tường, chẳng nói một lời mà chỉ giơ tay ra hiệu "Kết thúc rồi... đi đi thôi!" làm chúng ta không khỏi cảm động.
Để làm nổi bật hình tượng nhân vật Ha-men, nhà văn Đô-đê đã sử dụng nhiều hình thức nghệ thuật độc đáo. Trước hết, ông đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật. Nhân vật thầy Ha-men hiện lên thật chân thực, rõ nét qua các chi tiết miêu tả trang phục, cử chỉ, lời nói, hành động,... Ngoài ra, việc sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng "tôi" cũng giúp Phrăng dễ dàng bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc về thầy Ha-men và buổi học cuối cùng.
Mỗi khi nhắc tới đoạn trích "Buổi học cuối cùng", chúng ta sẽ chẳng thể nào quên hình bóng người thầy Ha-men yêu nghề, yêu tiếng nói dân tộc và yêu Tổ quốc tha thiết. Mong rằng, những giá trị nhân văn, tốt đẹp của tác phẩm sẽ luôn sống mãi theo dòng chảy thời gian.
Mẫu 4
"Buổi học cuối cùng" được trích từ tác phẩm nổi tiếng "Chuyện kể của một em bé người An-dát" của cố nhà văn An-phông-xơ Đô-đê. Đoạn trích đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng về hình tượng người thầy giáo Ha-men yêu nghề, yêu dân tộc và đất nước sâu sắc.
Đầu tiên, hình ảnh thầy Ha-men hiện lên là một người thầy tận tình, tâm huyết trong công việc. Vào buổi học cuối cùng, dù rất đau buồn nhưng thầy vẫn hoàn thành mọi trách nhiệm của bản thân. Khi thấy cậu học trò Phrăng đi học muộn, thầy không trách móc nặng lời mà chỉ nhẹ nhàng bảo ban "Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con". Thầy còn kiên nhẫn giảng giải mọi kiến thức như thể "muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay một lúc tri thức ấy vào đầu óc chúng tôi". Bốn mươi năm tận tình cống hiến, thầy luôn làm tròn trách nhiệm ở bản thân. Có thể thấy, tất cả hành động, cử chỉ, lời nói đều minh chứng cho tấm lòng của người thầy yêu nghề, của "người cha" bao dung, luôn yêu thương những cô cậu học trò.
Không chỉ vậy, thầy Ha-men trong "Buổi học cuối cùng" còn là một người yêu nước vô bờ. Điều này được thể hiện rõ qua suy nghĩ của thầy đối với tiếng Pháp. Thầy ca tụng tiếng Pháp và khẳng định tiếng Pháp chính là vũ khí, là chìa khóa đưa đất nước thoát khỏi ách đô hộ của quân Phổ. Thầy đã truyền cảm hứng cho cả lớp, khơi dậy ở học sinh niềm tin, sự tự hào và tình yêu với tiếng nói dân tộc, để các em ý thức được việc gìn giữ tiếng mẹ đẻ. Cuối buổi học, dù đau xót tột cùng đến mức không nói thành lời, thầy vẫn mạnh mẽ viết lên bảng dòng chữ thật to: "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM". Qua đây, chúng ta cảm nhận được tình yêu của thầy dành cho tiếng Pháp, cũng là tình yêu đối với môn học mà thầy giảng dạy suốt 40 năm qua. Gần như cả cuộc đời thầy đã dành trọn tâm huyết cho việc gìn giữ tiếng nói dân tộc.
Bằng việc sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng "tôi", thầy Ha-men hiện lên thật chân thực từ điểm nhìn của nhân vật cậu học trò Phrăng. Ngoài ra, tác giả còn rất thành công khi khắc họa thầy Ha-men qua lời nói, hành động,...
"Buổi học cuối cùng" sẽ mãi in sâu trong lòng bạn đọc bởi câu chuyện xúc động của các em học sinh vùng An-dát. Qua đoạn trích, ta còn cảm nhận được tình yêu nghề, yêu tiếng nói dân tộc và yêu đất nước da diết ở thầy Ha-men. Cảm ơn nhà văn Đô-đê đã mang tới một tác phẩm giàu giá trị và ý nghĩa như vậy.
Vào một buổi sáng ấm áp, trong trẻo, ven rừng vẳng lên tiếng chim hót thánh thót khi gần khi xa, người dân Pháp bàng hoàng trước lệnh từ Béc-lin truyền xuống: các trường học vùng An-dát và Loren của Pháp buộc phải chuyển sang học tiếng Đức (do nước Pháp bị thất thủ trong trong cuộc chiến tranh Pháp – Phổ).
Thầy Ha-men – một giáo viên dạy Pháp văn, gần như cả đời gắn bó với miền quê An-dát đã dạy buổi học cuối cùng cho học sinh thân yêu trước lúc rời khỏi xứ sở này mãi mãi. Có rất nhiều người làng đến dự buổi học ấy, trong đó có cả những cụ già cao tuổi như cụ Hô-de. Bằng sự thành kính, họ muốn tạ ơn người thầy đã bốn mươi năm tận tụy đem ánh sáng tri thức đến cho con em mình.
Hôm ấy, thầy Ha-men mặc một chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, viền lá sen gấp nếp mịn và cái mũ lụa đen thêu. (Thầy chỉ mặc bộ lễ phục này vào những dịp long trọng như khi đón quan thanh tra hay phát phần thưởng cho học sinh). Khi mặc bộ quần áo này, thầy muốn thể hiện sự tôn vinh buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp một cách cảm động.
Thái độ của thầy với học sinh cũng khác với mọi ngày. Bình thường, thầy nổi tiếng nghiêm khắc. Không bao giờ thầy nhân nhượng với những học trò lười biếng. Do đó, với cậu học sinh cá biệt như Phrăng, cây thước sắt khủng khiếp mà thầy kẹp dưới nách đã thành nỗi ám ảnh. Đi học muộn, Phrăng đã sợ hãi nghĩ đến lúc bị thầy quở mắng, bị kiểm tra bài cũ và bị vụt bằng thước kẻ. Nhưng, hôm nay, thay vì giận dữ, thầy lại dịu dàng giục cậu vào lớp. Nhìn mọi người bằng đôi mắt xanh buồn sâu thẳm, thầy xúc động nói:
- Đây là lần cuối cùng thầy dạy các con… Kẻ thù xâm lược buộc chúng ta phải học bằng thứ tiếng của chúng. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con. Thầy mong các con hết sức chú ý.
Phrăng choáng váng khi nghe thầy nói vậy. Cậu giận mình đã ham chơi hơn ham học để đến nỗi mới biết viết. Đáng trách hơn nữa là trong buổi học này, cậu còn không đọc được trót lọt các quy tắc về phân từ. Thầy Ha-men đã không quở mắng cậu như mọi lần. Thầy chỉ ra những lầm lỗi của tất cả mọi người trong việc lần nữa, không tích cực học tiếng Pháp nên bây giờ vẫn không nắm vững ngôn ngữ của chính dân tộc mình. Thầy đau đớn thốt lên:
- Ôi! Tai hoạ lớn của xứ An-dát chúng ta là bao giờ cũng hoãn việc học đến ngày mai. Giờ đây, kẻ thù của dân tộc có quyền bảo chúng ta rằng: “Thế nào! Các người tự nhận là dân Pháp, vậy mà các người chẳng biết đọc, biết viết tiếng của các người!”…
Trước lúc ra đi, thầy đã truyền tất cả tâm hồn và trí tuệ của mình vào bài học cuối cùng, kiên nhẫn giảng giải cho mọi người hiểu được điều kì diệu của ngôn ngữ dân tộc. Thầy khẳng định: “Tiếng Pháp là thứ tiếng hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất. Mọi người phải bảo vệ nó, đừng bao giờ được phép quên lãng. Bởi, khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù...”
Mẫu 5
Tình yêu nước là thứ tình cảm thiêng liêng trong mỗi con người, nó được thể hiện thật giản đơn qua tình yêu tiếng nói của dân tộc mình. Thầy Ha-men trong truyện buổi học cuối cùng là là một người có tinh thần yêu nước sâu sắc. Bởi vậy, buổi học tiếng Pháp cuối cùng là một ngày quan trọng đối với ông. Hôm ấy, thầy Ha-men mặc chiếc áo khoác xanh, chiếc áo sơ mi xếp nếp và chiếc mũ thêu bằng lụa đen mà thầy chỉ mặc vào những dịp quan trọng. Trong tiết học, thầy giảng bài với tất cả tâm huyết, giọng nói vừa nghiêm nghị lại vừa hiền lành. Thầy không hề quát mắng khi chú bé Phrăng mắc lỗi. Thầy tận tình chu đáo chuẩn bị cho học sinh những bản mẫu mới với những con chữ tròn trịa ngợi ca nước Pháp. Người thầy vĩ đại ấy đăm chiêu nhìn mọi thứ xung quanh như muốn khắc sâu hình ảnh của mọi thứ xung quanh vào tâm trí trước khi rời đi. Đến khi đồng hồ điểm mười hai giờ, thầy Ha-men đứng dậy trên bục, người tái nhợt, giọng nói nghẹn ngào không thành lời. Thầy quay về phía bảng, cầm phấn viết lên dòng chữ: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM” rồi ra hiệu kết thúc buổi học.
Mẫu 6
Hình ảnh thầy Ha-men trong buổi học cuối cùng hiện lên thật khác ngày thường. Thầy mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu. Đó là bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát thưởng. Mái tóc đã lốm đốm hoa râm của thầy được chải gọn gàng.
Thầy chuẩn bị bài học rất chu đáo. Thầy giảng bài bằng giọng nói dịu dàng; lời nhắc nhở của thầy cũng hết sức nhã nhặn, trong suốt buổi học người không giận dữ quát mắng học sinh một lời nào. Ngay cả với cậu bé đến muộn Phrăng, thầy cũng chỉ nhẹ nhàng mời vào lớp. Tất cả học sinh trong lớp đều thấy rằng chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng bài như vậy.
Trong bài giảng của mình, thầy luôn ca ngợi tiếng Pháp - tiếng nói dân tộc - và tự phê bình mình cũng như mọi người có lúc đã sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Mỗi lúc thầy nói đến những điều đó, giọng thầy như nghẹn lại, lạc đi và gương mặt hằn lên những nếp nhăn đau đớn. Thầy còn nhấn mạnh rằng, chính tiếng Pháp là vũ khí, là chìa khóa trong chốn lao tù, giúp mỗi người tù vượt tù “vượt ngục tinh thần”, nuôi dưỡng lòng yêu nước.
Buổi học kết thúc, những tiếng kèn hiệu khiến thầy Ha-men xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu. Thầy đã viết thật to lên bảng: "Nước Pháp muôn năm rồi giơ tay ra hiệu kết thúc buổi học.
Mẫu 7
Tác phẩm “Buổi học cuối cùng” đã để lại trong lòng độc giả nhiều ấn tượng sâu sắc về tình yêu dân tộc qua diễn biến tâm trạng của các nhân vật, đặc biệt là qua những hành động và lời nói của nhân vật thầy giáo Ha- men.
Tuy được quan sát và miêu tả qua điểm nhìn của cậu học trò Phrăng nhưng bức chân dung của thầy giáo Ha-men đã được phác họa một cách chân thực và rõ rét. Hơn bất kì ai đang sinh sống trên mảnh đất An-dát, thầy giáo Ha-men là người rất mực trân trọng buổi học cuối cùng. Để tôn vinh buổi học này, thầy đã ăn mặc thật trang trọng: “mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng”. Hình như thầy chuẩn bị cho cuộc tiễn đưa một điều lớn lao - đó không chỉ là buổi học cuối đối với những học trò thân yêu, đối với bục giảng thân quen mà còn là cuộc chia ly đối với ngôn ngữ mẹ đẻ đầy thiêng liêng.
Thái độ của thầy đối với những học trò nhỏ cũng khác biệt hơn. Khác với thái độ nghiêm khắc hằng ngày, thầy đã ân cần nhẹ nhàng và không hề trách mắng khi cậu học trò Phrăng đi học muộn. Trong buổi học này, thầy đã nói chuyện với những học trò thân yêu với lời nhắn nhủ đầy tâm tình mà trong đó chứa đựng cả sự ân hận của bản thân: “Cả thầy cũng không có gì đáng để trách mình ư? Thầy đã chẳng sai các con tưới vườn thay vì học hành đó sao? Và khi thầy muốn đi câu cá hương, thầy có ngại ngùng gì cho các con nghỉ học đâu?…”. Dòng tâm trạng như độc thoại nội tâm này không chỉ xuất phát từ tấm lòng của một người thầy tâm huyết với con chữ mà còn bắt nguồn từ tinh thần yêu nước của một công dân Pháp trước nỗi đau đất nước bị xâm lược.
Mỗi một hành động và lời nói của thầy Ha-men đã làm nổi bật lên vai trò, ý nghĩa cùng giá trị thiêng liêng của tiếng mẹ đẻ đối với việc bảo vệ chủ quyền dân tộc cũng như mối quan hệ giữa tình yêu tiếng nói dân tộc và lòng yêu nước. Thầy Ha-men đã truyền đạt một cách say mê về tiếng Pháp: “đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất”. Tình yêu đối với ngôn ngữ mẹ đẻ là một trong những biểu hiện kết tinh cao độ của lòng yêu nước. Và thiêng liêng hơn, người thầy còn nêu bật giá trị của tiếng nói dân tộc: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù”. Câu nói tưởng chừng như giản đơn nhưng lại chứa đựng một triết lý sâu sắc về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc trong hoàn cảnh bị xâm lăng. Và rồi, trong giờ phút tưởng chừng như yếu đuối nhất - tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên cũng là lúc tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ, dù cho người tái nhợt và không đủ bình tĩnh để nói hết câu nhưng thầy vẫn cố gắng dằn mạnh viên phấn để viết lên bảng dòng chữ: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”. Đó chính là tiếng nói sâu sắc và tha thiết từ một trái tim yêu nước.
Như vậy, nhân vật người thầy giáo Ha-men đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc và nhiều bài học ý nghĩa về ngôn ngữ dân tộc cũng như tinh thần yêu nước.
Mẫu 8
Buổi học cuối cùng diễn ra trong một không khí thật khác lạ. Hình ảnh thầy Ha-men mặc chiếc áo khoác xanh, chiếc áo sơ mi xếp nếp và chiếc mũ thêu bằng lụa đen mà thầy chỉ mặc vào những dịp quan trọng. Bộ trang phục khiến cho mọi người cảm thấy đây là buổi học mà thầy đã rất coi trọng. Thầy cũng không còn trách mắng khi Phrăng đến lớp muộn. Tiết học bắt đầu, thầy giảng bài với tất cả tâm huyết, giọng nói vừa nghiêm nghị lại vừa hiền lành. . Thầy tận tình chu đáo chuẩn bị cho học sinh những bản mẫu mới với những con chữ tròn trịa ngợi ca nước Pháp. Người thầy vĩ đại ấy đăm chiêu nhìn mọi thứ xung quanh như muốn khắc sâu hình ảnh của mọi thứ xung quanh vào tâm trí trước khi rời đi. Tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ vang lên, người thầy tái nhợt đi. Giọng nói nghẹn ngào, không nói được hết câu. Thầy liền tiến về phía bảng, cầm viên phấn và dằn mạnh hết sức, cố viết thật to: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”. Sau đó, thầy giơ tay ra hiệu buổi học kết thúc.
Mẫu 9
Buổi học cuối cùng diễn ra trong hình ảnh thầy Ha-men (văn bản Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê) hiện lên thật khác với những ngày thường. Thầy mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu. Đó là bộ trang phục mà thầy chỉ mặc vào những dịp quan trọng. Thầy bắt đầu giảng bài với giọng nói dịu dàng; lời nhắc nhở của thầy cũng hết sức nhã nhặn, trong suốt buổi học người không giận dữ quát mắng học sinh một lời nào. Ngay cả với cậu bé đến muộn Phrăng, thầy cũng chỉ nhẹ nhàng mời vào lớp. Thầy Ha-men đã ca ngợi tiếng Pháp, cũng như nhấn mạnh rằng “phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù…”. Đến tiết tập viết. Thầy Ha-men đã chuẩn bị cho ngày hôm đó những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng “chữ rông” thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát. Thầy Ha-men đứng lặng trên bục giảng hướng mắt về phía ngôi trường quen thuộc. Đồng hồ điểm mười hai giờ, tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa cũng vang lên. Thầy Ha-men xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu. Thầy liền quay về phía bảng, cầm viên phấn lên cố dằn mạnh để viết dòng chữ: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”. Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho mọi người buổi học đã kết thúc.
Mẫu 10
Hôm ấy, Phrăng bỗng thấy bài giảng của thầy sao mà giản dị và dễ hiểu đến thế. Với tất cả nhiệt tình sôi sục, thầy Ha-men muốn truyền thụ ngay một lúc, toàn bộ tri thức của mình vào đầu óc non nớt của học trò, bởi đây là cơ hội cuối cùng thầy dạy cho chúng những tri thức ngôn ngữ thiêng liêng của dân tộc.
Trong giờ viết tập, thầy đã chuẩn bị sẵn những tờ mẫu mới tinh trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới, trên có viết các từ Pháp, An-dát bằng chữ trông thật đẹp. Qua đó, thầy muốn khắc ghi trong tâm tưởng mọi người một chân lý: An-dát vẫn mãi mãi thuộc về nước Pháp, như máu chảy về tim, bất chấp ý muốn ngạo ngược của kẻ thù! Cả lớp im phăng phắc, chăm chú tập viết. Chỉ còn nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt, tiếng bồ câu gù thật khẽ trên mái nhà. Ai nấy đều nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của việc học tiếng nói dân tộc.
Khi học trò tập viết, thầy Ha-men thầy đăm đăm nhìn ngắm những đồ vật thân thuộc đã gắn bó với thầy suốt bốn mươi năm dạy học. Qua ánh mắt đau đáu ấy, thầy muốn mang theo hình ảnh thân thương của ngôi trường, của các học trò trong suốt phần đời còn lại. Trái tim thầy tan nát khi phải rời xa mái trường thân yêu, xa đám học trò nhiều phen khiến thầy phải phiền lòng nhưng chúng đã là tất cả cuộc đời thầy. Đau lòng nhưng thầy vẫn đủ can đảm để dạy cho đến phút cuối cùng. Khi chuông đồng hồ điểm mười hai giờ, thầy đứng lặng trên bục giảng, người tái nhợt, tấm lưng của thầy bỗng còng hẳn xuống bởi một gánh nặng vô hình nào đó. Thầy nghẹn ngào nói không hết câu chào từ biệt. Bất ngờ, thầy quay về phía bảng, lấy hết sức bình sinh, viết thật to dòng khẩu hiệu: “Nước Pháp muôn năm!”.
Thực sự nước Pháp, cũng như các quốc gia khác trên thế giới đã thành bất tử trong tâm hồn của bao thế hệ học trò nhờ sự truyền giảng nhiệt thành về tình yêu Tổ quốc, yêu ngôn ngữ dân tộc của những người thầy đáng kính, giàu tâm huyết như thầy giáo Ha-men trong tác phẩm của nhà văn A. Đô-đê.
Lời giải
Dàn ý
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác phẩm, đoạn trích.
- Nêu cảm xúc chung về nhân vật.
2. Thân bài:
* Phân tích đặc điểm nhân vật:
- Côn là một cậu bé ham học hỏi, thích tìm hiểu mọi thứ xung quanh:
+ Khi thấy ngôi đền và ngọn núi, cậu bé Côn đã hỏi cha về các sự tích gắn liền với chúng.
- Côn còn là cậu bé có suy nghĩ chín chắn, thấu đáo:
+ Sau khi nghe cha kể xong chuyện "Mỵ Châu - Trọng Thủy", cậu bé đã bày tỏ suy nghĩ của mình về các nhân vật.
+ Thắc mắc tại sao Nguyễn Du có công lao lớn nhưng không được lập đền thờ còn thằng ăn trộm bị đánh chết lại có.
* Nhận xét nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Sử dụng ngôi kể thứ ba.
- Khắc họa nhân vật thông qua lời nói, suy nghĩ.
- Sử dụng ngôn ngữ địa phương.
3. Kết bài: Nêu ấn tượng và đánh giá về nhân vật.
Mẫu 1
Nhắc tới nhà văn Sơn Tùng, chúng ta sẽ nhớ ngay tới cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Búp sen xanh". Tác phẩm đã đem đến cho bạn đọc những hình dung cụ thể, chân thực về cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời niên thiếu tới tuổi trưởng thành. Đặc biệt, đến với đoạn trích "Dọc đường xứ Nghệ", ta sẽ thấy được một cậu bé Côn ham học, thích tìm hiểu.
Trên đường đi, cậu bé Côn luôn chú ý quan sát vạn vật xung quanh. Trong đôi mắt trẻ thơ của Côn, quê hương hiện lên với "những ngôi đền cổ kính", với "dãy núi xa xa rất nhiều hình nhiều vẻ". Ngắm nhìn các di tích, cảnh sắc ấy, Côn không khỏi tò mò, thắc mắc. Vì thế, cậu bé đã mạnh dạn hỏi cha về các sự tích gắn liền với chúng "Thưa cha, con muốn được cha chỉ bảo chúng con về sự tích ngôi đền ni, về tên của các hòn núi kia, trông lạ mắt quá cha ạ.". Có thể thấy, Côn là một người ham học hỏi, thích tìm hiểu mọi thứ xung quanh. Đứng trước những điều mới lạ, cậu luôn muốn tìm tòi, khám phá sâu rộng. Côn khao khát được hiểu hơn về cuộc sống, về cội nguồn dân tộc. Như vậy, ngay từ thơ bé, cậu bé Côn đã rèn luyện và bồi đắp cho bản thân một tinh thần ham học đáng ngưỡng mộ.
Bên cạnh đó, Côn còn là cậu bé có suy nghĩ chín chắn, thấu đáo. Sau khi nghe cha kể xong chuyện "Mỵ Châu - Trọng Thủy", cậu bé đã thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ của mình về các nhân vật. Côn phê phán việc vua Thục "không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu". Nhưng đồng thời, cậu bé cũng coi trọng hành động của An Dương Vương ở cuối câu chuyện. Có thể thấy, dù tuổi còn nhỏ nhưng Côn đã có những lí giải, phân tích hết sức chín chắn. Đặc biệt, giây phút đứng trước mộ Nguyễn Du, Côn cảm thấy vô cùng chạnh lòng, xót xa mà nhớ đến mấy câu thơ "...Rằng sao trong tiết Thanh minh/ Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?...". Cậu bé luôn thắc mắc, hoài nghi tại sao thằng trộm bị đánh chết được lập đền thờ còn Nguyễn Du công lao to lớn lại không.
Với việc sử dụng ngôi kể thứ ba, người đọc đã có cái nhìn khách quan, cụ thể về câu chuyện và nhân vật Côn. Ngoài ra, tác giả Sơn Tùng còn xây dựng thành công nhân vật qua lời nói, suy nghĩ. Từ đây, Côn hiện lên thật sắc nét với bao phẩm chất tốt đẹp, đáng ngưỡng mộ. Không chỉ vậy, các từ ngữ địa phương "ni", "dớ dận" cũng làm câu chuyện trở nên gần gũi, thân quen.
Nhân vật Côn quả là một cậu bé điềm đạm, thông minh, yêu thích học hỏi. Theo dòng thời gian, những câu chuyện gắn liền với Người như "Dọc đường xứ Nghệ" nói riêng và "Búp sen xanh" nói chung sẽ mãi in sâu trong tâm trí dân tộc Việt Nam. Cảm ơn nhà văn Sơn Tùng đã mang đến một tác phẩm giàu giá trị như vậy.
Mẫu 2
"Dọc đường xứ Nghệ" là một trích đoạn tiêu biểu của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Búp sen xanh". Đoạn trích đã mang đến cho bạn đọc những hình dung cụ thể về thời niên thiếu của Người khi sống bên gia đình qua nhân vật Côn.
Đầu tiên, khi dừng chân tại vùng đất Diễn Châu, được nghe cha kể về truyền thuyết "Mỵ Châu - Trọng Thủy", cậu bé Côn đã thẳng thắn chỉ ra căn nguyên của mọi việc xung quanh câu chuyện. Với khả năng phân tích, nhìn nhận vấn đề cốt lõi bằng tư duy khách quan, đa chiều, Côn nhận thấy nhà Triệu quá nham hiểm, chàng Trọng Thủy lại ngoan ngoãn làm theo lời cha, nàng Mị Châu thì ruột để ngoài da. Đồng thời, Côn còn thẳng thắn nêu lên hạn chế của vua Thục khi không nhận ra bản chất của kẻ thù, trọng chữ tín mà không đề phòng. Mặc dù vậy, cậu vẫn công tâm khi công nhận cách xử sự của vua An Dương Vương ở cuối truyện.
Tuy nhỏ tuổi nhưng Côn đã có những am hiểu sâu sắc về cuộc sống. Sau khi nghe cha kể xong các sự tích gắn liền với hòn Hai Vai và núi "Tướng quân rơi đầu", Côn không tiếc lời ngợi ca ước mơ chính đáng ở người xưa. Đồng thời, cậu còn thể hiện tấm lòng trân trọng, ngợi ca tài năng và trí tưởng tượng phong phú của các tác giả dân gian.
Ngoài ra, Côn còn là một cậu bé có tâm hồn yêu mến văn thơ và biết đề cao công bằng, tôn trọng lẽ phải. Điều này được khắc họa rõ nét qua chi tiết ba cha con cụ Phó bảng tới thăm mộ đại thi hào Nguyễn Du. Sau khi chạnh lòng trước cảnh "hương khói vắng tanh" nơi đại thi hào yên nghỉ, Côn đã không khỏi thắc mắc vì sao Nguyễn Du lại không được lập đền thờ như thằng ăn trộm bị đánh chết.
Để làm nổi bật nhân vật cậu bé Côn, tác giả đã có những sáng tạo về hình thức nghệ thuật. Trước hết, việc sử dụng ngôi kể thứ ba giúp độc giả có cái nhìn toàn diện, chân thực về câu chuyện thời thơ ấu của Người. Tiếp đến, nhà văn còn thành công trong việc khắc họa nhân vật thông qua lời nói, hành động và suy nghĩ.
Nhân vật Côn trong đoạn trích "Dọc đường xứ Nghệ" hiện lên thật chân thực với vẻ đẹp về nhân cách và tâm hồn. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng cậu đã có thể hiểu sâu biết rộng, mang trong mình những suy nghĩ sâu sắc. Mong rằng, các câu chuyện gắn liền với cuộc đời của Người sẽ luôn in sâu trong tâm trí dân tộc Việt Nam.
Ông Nguyễn Sinh Sắc là một kho tàng sống của văn học dân gian xứ Nghệ. Mỗi câu chuyện mỗi địa danh, mỗi nơi đi qua ông đều tỉ mỉ kể cho các con nghe về lịch sử từng vùng, từng miền. Mỗi một câu chuyện lại cho ta thêm hiểu biết về một địa danh của xứ Nghệ. Hiện lên đó là hình ảnh người cha hiền lành, ân cần dạy dỗ từng cử chỉ, hành vi cho con. Với mong muốn các con của mình nên người. Ông cũng âm thầm dạy con rằng:
Dân vạn đại, quan nhất thời
Ghế quan ai ngồi xin chớ thờ ơ
Thương dân, dân lập đền thờ
Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương
Lời nói của Côn khi ngâm nga được ông khẳng định chắc nịch: “Bà ngoại nói không phải để mua vui đâu mà bà dạy cha, dạy những người có học, có chức trọng quyền cao đó con ạ.” Câu vè của đứa trẻ nghe được từ bà đã trở thành kim chỉ nam để ông dạy con, nếu làm quan thì phải thanh liêm bảo vệ dân, thương dân. Ông Nguyễn Sinh Sắc học giỏi, tuy đã ghi danh bảng vàng, vẫn canh cánh trong lòng nỗi đau nước mất nhà tan. Đối với ông, cứu nước chỉ còn con đường “làm quan thanh liêm” để bảo vệ dân. Chính ông đã tiếp bước ươm mầm ra một búp sen xanh cho dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh đó, ông cũng là một người cha nghiêm khắc, trước đó ông đã phạt Côn phải xin lỗi anh Khiêm vì đã bất lễ mà nói với anh:
“Côn cáu lại anh: “Anh lắm lời quá!”. Ông Sắc quắc mắt, nghiêm giọng:
- Côn! Vì đang ở trên đường, nếu ở nhà thì cha bắt con nằm xuống đánh mười roi về tội bất đễ. Anh con có nói sai, xử sự sai với con thì đã có cha phân xử, hoặc con phải nói với anh bằng một thái độ lễ phép. Con không được nói với anh câu nói của con nhà vô giáo dục như vậy.”. Rõ ràng ông Phó Bảng rất yêu thương con nhưng không nuông chiều mà luôn tỉ mỉ dạy dỗ. Mong con sẽ thành nhân. Khi con sai ông phạt con, nhưng cũng lí giải cho con hiểu lẽ đúng sai ở đời. Các con của ông đều yêu thương nhau. Anh cả Khiêm rất thương Côn và ngược lại.
- Tri thức là biển cả rộng lớn, những địa danh ông chưa đi qua ông cũng không hề giấu con, câu hỏi của Côn về Cổ Loa ông thành thật mà nói cha cũng chưa từng đi: “- Thành Cổ Loa ở mãi tận đâu, thưa cha?
- Cha chưa đi tới đó, nhưng cha đọc sách thấy xa… xa lắm, con ạ”
Trong cái nôi của một vùng đất giàu bản sắc văn hóa mà truyền thống gia đình là dưỡng chất đầu đời hình thành nên nhân cách lớn, Nguyễn Sinh Côn – Nguyễn Tất Thành đã sớm được giáo dục chu đáo, không chỉ chữ nghĩa của đạo thánh hiền mà còn là bài học về đạo làm người, về lẽ sống và ứng xử ở đời. Cậu bé Côn thật may mắn khi được sinh ra trong một gia đình Nho học đầy truyền thống. Có một người cha nghiêm khắc dạy dỗ, uốn con thơ từ thuở còn non, bồi đắp nhân cách tình yêu quê hương cho con.
Mẫu 3
Trong đoạn trích ta có thể thấy được sự ham học của Côn. Tác phẩm đã đưa người đọc trở về thời niên thiếu của Bác Hồ, từ lúc cất tiếng khóc chào đời tại làng Chùa quê ngoại, đến khi rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước ở tuổi 20 đầy khát vọng. Trong đoạn trích này tác giả chủ yếu là vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Nghệ qua con mắt nhìn và sự đánh giá của những đứa trẻ. Mỗi di tích mỗi câu chuyện là một góc nhìn của cậu bé Côn. Dưới sự giáo dục tỉ mỉ của người cha Nguyễn Sinh Sắc. Trước đó, Côn đã biết nhận ra lỗi lầm của mình khi nói hỗn với anh và bị cha nhắc nhở:
“Côn đặt chiếc khăn gói trên vai xuống bãi cỏ, khoanh hai tay trước ngực, giọng chân thành:
- Xin anh cả tha lỗi cho em…
Cậu cả Khiêm rơm rớm nước mắt, chạy lại xách tay nải lên:
- Để anh mang đỡ em một đoạn kẻo em mệt đi không kịp cha”. Một chi tiết nhỏ nhưng ta cũng thấy được sự lễ phép ngoan ngoãn của cậu bé. Cậu bé Côn ngay từ nhỏ đã thể hiện được sự thông minh ham học hỏi. Em liên tục thắc mắc và hỏi cha về cảnh vật xung quanh mỗi nơi mình đi qua.
Khi được nghe cha kể về câu chuyện về An Dương Vương, gắn với lông ngỗng mà nàng Mỵ Châu rải đường em đã đánh giá khách quan với cái nhìn đa chiều. Cái nhìn từ góc độ nhân dân. Biết cảm thông cho Mỵ Châu nhẹ dạ, biết thương An Dương Vương mất nước phải trầm mình xuống biển. Côn không giống những cậu bé khác em đánh giá mọi chuyện trong cuộc sống hết sức khách quan đa chiều. Mỗi cái nhìn của em về một sự vật sự việc đều thể hiện tốt chất của một lãnh đạo tài ba trong tương lai. Em không chỉ thấy được sự tài tình của trí tưởng tượng dân gian mà còn giúp ta thấy được cả sự nham hiểm của kẻ thù: “Côn nói, vẻ thán phục:
- Chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy hay tuyệt, tài tình lắm. Con nhận thấy vua nhà Triệu nước Tàu nham hiểm ghê gớm. Chàng Trọng Thủy ngoan ngoãn làm theo mẹo của cha bày đặt. Còn vua nhà Thục nước ta lại trọng chữ tín, thành thật muốn hai nước ở kè nhau có hòa hiếu để dân được sống yên ổn làm ăn. Nhưng vua nước ta lại không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu. Nàng Mỵ Châu lại ruột để ngoài da. Cha vậy, con vậy thì giữ nước làm sao được? Nhưng câu chuyện lại cho thấy điều đáng trọng không khinh được vua Thục là: Người đã phải tự chém con gái mình và tự xử án mình bằng hành động nhảy xuống biển về tội để mất nước, chứ không cam chịu nộp mình cho giặc.”
Một người trưởng thành, đủ hiểu biết chưa chắc đã đánh giá được như em… Đánh giá của em khiến người cha (mặc dù đã là cụ Phó Bảng) cũng phải “sững sờ” suy ngẫm.
Khi được cha kể sự tích về vùng Ba Hòn, là đứa trẻ ham học hỏi Côn chỉ chơm chớp mắt nhìn theo. Em đánh giá về câu chuyện như một người trưởng thành, luôn nhìn mọi vật từ góc độ văn hóa dân gian và cái đẹp. Em thốt lên khi nghe xong tích xưa: “Ước vọng của dân ta thật là đẹp. Tưởng tượng của người ta đến là tuyệt! Phải không cha?”. Em đã nhìn ra ước vọng đằng sau suy ngẫm của em về một tạo vật, mỗi danh thắng quê hương và ước vọng của nhân dân.
Khi thấy đền thờ Qủa Sơn to hơn đền thờ An Dương Vương, cậu bé Côn đã suy ngẫm ra triết lí làm quan ở đời. Nếu quan thương dân lo cho dân sẽ được nhân dân đời đời nhớ ơn lập đền thờ phụng. Nếu quan không thương dân chỉ biết vơ vét, hại dân sẽ bị tiếng nhơ muôn đời. Ông Phó Bảng giảng giải cho cậu bé Côn càng hiểu rõ hơn.
Cậu cũng yêu thơ và có tài làm thơ. Cậu thuộc câu vè của bà, thuộc Truyện Kiều của Nguyễn Du và gặp cảnh vật nào cậu có thể ngâm thơ để bình về cảnh vật ấy. Qua đó, ta cũng thấy được ngay từ nhỏ cậu bé Côn đã nhận được sự giáo dục tỉ mỉ của gia đình. Cụ Phó Bảng là một người am hiểu về nhiều góc độ văn hóa, Côn đã lĩnh hội và học hỏi bồi dưỡng nhân cách từ chính vốn văn hóa bình dân gần gũi ấy. Khi được cha giải thích cho con lí do cụ Nguyễn Du lại không được thờ phụng, lại có nơi thờ thằng ăn trộm và khắc rõ chữ “Đạo tặc tối linh tôn thần”. Cậu cũng phát hiện ra thứ phi lí ở đời. Có lẽ, trong xã hội những kẻ trộm cướp, đạo tặc luôn quấy phá xã hội và dân ta thờ phường trộm cướp là để chúng không quấy phá nhiễu loại khi đã chết đi. Nhưng với đầu óc của một đứa trẻ Côn vẫn chưa hiểu hết được những điều ấy.
Dưới ngòi bút của Sơn Tùng, khoảng đời niên thiếu của Bác được tái hiện sinh động bằng những chi tiết cuộc sống thường nhật với nỗi buồn, niềm vui, đắng cay, hiếu thảo, ham học, tò mò… Hình ảnh bé Côn với nét tính cách tinh nghịch, hóm hỉnh, thơ ngây hiển hiện trong đầu bạn đọc. Tuổi thơ của cậu bé Côn vừa được đắm mình trong môi trường quê hương, vừa nhận được sự giáo dục của người cha nghiêm khắc và mực thước. Điều đó góp phần hình thành tính cách tốt đẹp của Côn sau này.
Qua ngòi bút Sơn Tùng, Bác Hồ thời niên thiếu hiện lên với nét thông minh hơn người, bản lĩnh độc đáo nhưng không phải là thần đồng bẩm sinh, mà là quá trình tự rèn luyện, học tập, tu dưỡng, tiếp thu tinh hoa dân tộc.
Mẫu 4
Có thể nói, cái hạnh phúc lớn nhất của cậu bé Côn là được sinh ra và nuôi dưỡng trong một mái ấm mà cả ông bà cha mẹ đều là những “bảo tàng sống” về văn học bình dân. Đặc biệt là người cha Nguyễn Sinh Sắc.
Ông Nguyễn Sinh Sắc là một kho tàng sống của văn học dân gian xứ Nghệ. Mỗi câu chuyện mỗi địa danh, mỗi nơi đi qua ông đều tỉ mỉ kể cho các con nghe về lịch sử từng vùng, từng miền. Mỗi một câu chuyện lại cho ta thêm hiểu biết về một địa danh của xứ Nghệ. Hiện lên đó là hình ảnh người cha hiền lành, ân cần dạy dỗ từng cử chỉ, hành vi cho con. Với mong muốn các con của mình nên người. Ông cũng âm thầm dạy con rằng:
Dân vạn đại, quan nhất thời
Ghế quan ai ngồi xin chớ thờ ơ
Thương dân, dân lập đền thờ
Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương
Lời nói của Côn khi ngâm nga được ông khẳng định chắc nịch: “Bà ngoại nói không phải để mua vui đâu mà bà dạy cha, dạy những người có học, có chức trọng quyền cao đó con ạ.” Câu vè của đứa trẻ nghe được từ bà đã trở thành kim chỉ nam để ông dạy con, nếu làm quan thì phải thanh liêm bảo vệ dân, thương dân. Ông Nguyễn Sinh Sắc học giỏi, tuy đã ghi danh bảng vàng, vẫn canh cánh trong lòng nỗi đau nước mất nhà tan. Đối với ông, cứu nước chỉ còn con đường “làm quan thanh liêm” để bảo vệ dân. Chính ông đã tiếp bước ươm mầm ra một búp sen xanh cho dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh đó, ông cũng là một người cha nghiêm khắc, trước đó ông đã phạt Côn phải xin lỗi anh Khiêm vì đã bất lễ mà nói với anh:
“Côn cáu lại anh: “Anh lắm lời quá!”. Ông Sắc quắc mắt, nghiêm giọng:
- Côn! Vì đang ở trên đường, nếu ở nhà thì cha bắt con nằm xuống đánh mười roi về tội bất đễ. Anh con có nói sai, xử sự sai với con thì đã có cha phân xử, hoặc con phải nói với anh bằng một thái độ lễ phép. Con không được nói với anh câu nói của con nhà vô giáo dục như vậy.”. Rõ ràng ông Phó Bảng rất yêu thương con nhưng không nuông chiều mà luôn tỉ mỉ dạy dỗ. Mong con sẽ thành nhân. Khi con sai ông phạt con, nhưng cũng lí giải cho con hiểu lẽ đúng sai ở đời. Các con của ông đều yêu thương nhau. Anh cả Khiêm rất thương Côn và ngược lại.
- Tri thức là biển cả rộng lớn, những địa danh ông chưa đi qua ông cũng không hề giấu con, câu hỏi của Côn về Cổ Loa ông thành thật mà nói cha cũng chưa từng đi: “- Thành Cổ Loa ở mãi tận đâu, thưa cha?
- Cha chưa đi tới đó, nhưng cha đọc sách thấy xa… xa lắm, con ạ”
Trong cái nôi của một vùng đất giàu bản sắc văn hóa mà truyền thống gia đình là dưỡng chất đầu đời hình thành nên nhân cách lớn, Nguyễn Sinh Côn – Nguyễn Tất Thành đã sớm được giáo dục chu đáo, không chỉ chữ nghĩa của đạo thánh hiền mà còn là bài học về đạo làm người, về lẽ sống và ứng xử ở đời. Cậu bé Côn thật may mắn khi được sinh ra trong một gia đình Nho học đầy truyền thống. Có một người cha nghiêm khắc dạy dỗ, uốn con thơ từ thuở còn non, bồi đắp nhân cách tình yêu quê hương cho con.
Mẫu 5
Trong đoạn trích ta có thể thấy được sự ham học của Côn. Tác phẩm đã đưa người đọc trở về thời niên thiếu của Bác Hồ, từ lúc cất tiếng khóc chào đời tại làng Chùa quê ngoại, đến khi rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước ở tuổi 20 đầy khát vọng. Trong đoạn trích này tác giả chủ yếu là vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Nghệ qua con mắt nhìn và sự đánh giá của những đứa trẻ. Mỗi di tích mỗi câu chuyện là một góc nhìn của cậu bé Côn. Dưới sự giáo dục tỉ mỉ của người cha Nguyễn Sinh Sắc. Trước đó, Côn đã biết nhận ra lỗi lầm của mình khi nói hỗn với anh và bị cha nhắc nhở:
“Côn đặt chiếc khăn gói trên vai xuống bãi cỏ, khoanh hai tay trước ngực, giọng chân thành:
- Xin anh cả tha lỗi cho em…
Cậu cả Khiêm rơm rớm nước mắt, chạy lại xách tay nải lên:
- Để anh mang đỡ em một đoạn kẻo em mệt đi không kịp cha”. Một chi tiết nhỏ nhưng ta cũng thấy được sự lễ phép ngoan ngoãn của cậu bé. Cậu bé Côn ngay từ nhỏ đã thể hiện được sự thông minh ham học hỏi. Em liên tục thắc mắc và hỏi cha về cảnh vật xung quanh mỗi nơi mình đi qua.
Khi được nghe cha kể về câu chuyện về An Dương Vương, gắn với lông ngỗng mà nàng Mỵ Châu rải đường em đã đánh giá khách quan với cái nhìn đa chiều. Cái nhìn từ góc độ nhân dân. Biết cảm thông cho Mỵ Châu nhẹ dạ, biết thương An Dương Vương mất nước phải trầm mình xuống biển. Côn không giống những cậu bé khác em đánh giá mọi chuyện trong cuộc sống hết sức khách quan đa chiều. Mỗi cái nhìn của em về một sự vật sự việc đều thể hiện tốt chất của một lãnh đạo tài ba trong tương lai. Em không chỉ thấy được sự tài tình của trí tưởng tượng dân gian mà còn giúp ta thấy được cả sự nham hiểm của kẻ thù: “Côn nói, vẻ thán phục:
- Chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy hay tuyệt, tài tình lắm. Con nhận thấy vua nhà Triệu nước Tàu nham hiểm ghê gớm. Chàng Trọng Thủy ngoan ngoãn làm theo mẹo của cha bày đặt. Còn vua nhà Thục nước ta lại trọng chữ tín, thành thật muốn hai nước ở kè nhau có hòa hiếu để dân được sống yên ổn làm ăn. Nhưng vua nước ta lại không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu. Nàng Mỵ Châu lại ruột để ngoài da. Cha vậy, con vậy thì giữ nước làm sao được? Nhưng câu chuyện lại cho thấy điều đáng trọng không khinh được vua Thục là: Người đã phải tự chém con gái mình và tự xử án mình bằng hành động nhảy xuống biển về tội để mất nước, chứ không cam chịu nộp mình cho giặc.”
Một người trưởng thành, đủ hiểu biết chưa chắc đã đánh giá được như em… Đánh giá của em khiến người cha (mặc dù đã là cụ Phó Bảng) cũng phải “sững sờ” suy ngẫm.
Khi được cha kể sự tích về vùng Ba Hòn, là đứa trẻ ham học hỏi Côn chỉ chơm chớp mắt nhìn theo. Em đánh giá về câu chuyện như một người trưởng thành, luôn nhìn mọi vật từ góc độ văn hóa dân gian và cái đẹp. Em thốt lên khi nghe xong tích xưa: “Ước vọng của dân ta thật là đẹp. Tưởng tượng của người ta đến là tuyệt! Phải không cha?”. Em đã nhìn ra ước vọng đằng sau suy ngẫm của em về một tạo vật, mỗi danh thắng quê hương và ước vọng của nhân dân.
Khi thấy đền thờ Qủa Sơn to hơn đền thờ An Dương Vương, cậu bé Côn đã suy ngẫm ra triết lí làm quan ở đời. Nếu quan thương dân lo cho dân sẽ được nhân dân đời đời nhớ ơn lập đền thờ phụng. Nếu quan không thương dân chỉ biết vơ vét, hại dân sẽ bị tiếng nhơ muôn đời. Ông Phó Bảng giảng giải cho cậu bé Côn càng hiểu rõ hơn.
Cậu cũng yêu thơ và có tài làm thơ. Cậu thuộc câu vè của bà, thuộc Truyện Kiều của Nguyễn Du và gặp cảnh vật nào cậu có thể ngâm thơ để bình về cảnh vật ấy. Qua đó, ta cũng thấy được ngay từ nhỏ cậu bé Côn đã nhận được sự giáo dục tỉ mỉ của gia đình. Cụ Phó Bảng là một người am hiểu về nhiều góc độ văn hóa, Côn đã lĩnh hội và học hỏi bồi dưỡng nhân cách từ chính vốn văn hóa bình dân gần gũi ấy. Khi được cha giải thích cho con lí do cụ Nguyễn Du lại không được thờ phụng, lại có nơi thờ thằng ăn trộm và khắc rõ chữ “Đạo tặc tối linh tôn thần”. Cậu cũng phát hiện ra thứ phi lí ở đời. Có lẽ, trong xã hội những kẻ trộm cướp, đạo tặc luôn quấy phá xã hội và dân ta thờ phường trộm cướp là để chúng không quấy phá nhiễu loại khi đã chết đi. Nhưng với đầu óc của một đứa trẻ Côn vẫn chưa hiểu hết được những điều ấy.
Dưới ngòi bút của Sơn Tùng, khoảng đời niên thiếu của Bác được tái hiện sinh động bằng những chi tiết cuộc sống thường nhật với nỗi buồn, niềm vui, đắng cay, hiếu thảo, ham học, tò mò… Hình ảnh bé Côn với nét tính cách tinh nghịch, hóm hỉnh, thơ ngây hiển hiện trong đầu bạn đọc. Tuổi thơ của cậu bé Côn vừa được đắm mình trong môi trường quê hương, vừa nhận được sự giáo dục của người cha nghiêm khắc và mực thước. Điều đó góp phần hình thành tính cách tốt đẹp của Côn sau này.
Qua ngòi bút Sơn Tùng, Bác Hồ thời niên thiếu hiện lên với nét thông minh hơn người, bản lĩnh độc đáo nhưng không phải là thần đồng bẩm sinh, mà là quá trình tự rèn luyện, học tập, tu dưỡng, tiếp thu tinh hoa dân tộc.
198 Đánh giá
50%
40%
0%
0%
0%