Bài tập Viết bài văn nghị luận về một vấn đề trong đời sống có đáp án
39 người thi tuần này 4.6 0.9 K lượt thi 5 câu hỏi
🔥 Đề thi HOT:
Đề kiểm tra Học kì 1 Văn 7 Cánh diều có đáp án (đề 4)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 5)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 2)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 5)
Đề kiểm tra Học kì 1 Văn 7 Cánh diều có đáp án (đề 2)
Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 8)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 1)
Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 4)
Nội dung liên quan:
Danh sách câu hỏi:
Lời giải
Nghị luận về đức tính giản dị - Mẫu 1
Jean de la Bruyere đã từng nói: “Trong tất cả mọi thứ: trong tính cách trong cung cách trong phong cách, cái đẹp nhất là sự giản dị:. Quả đúng như vậy, đức tính giản dị là vô cùng quan trọng và cần thiết đối với mỗi người. Đây được coi là một trong những đức tính tốt đẹp nhất mà ai cũng cần phải có.
Giản dị là lối sống không cầu kì phô trương, không xa hoa phức tạp mà sống phù hợp với hoàn cảnh của mình, tạo ra lối sống nhẹ nhàng điềm đạm cả về thể chất lẫn tinh thần con người. Lối sống giản dị được thể hiện qua cách ăn mặc, cách nói chuyện, cách sinh hoạt hay cách thể hiện bản thân… Đây là một trong những đức tính vô cùng đáng quý của con người, giúp con người hoàn thiện được bản thân một cách tốt nhất.
Như vậy có thể nói đức tính giản dị là vô cùng cần thiết và quan trọng đối với mỗi người đặc biệt là trong cuộc sống ngày nay. Khi tất cả mọi người đều muốn chạy theo dòng đời tấp nập thì sự giản dị lại cần thiết hơn bao giờ hết. Nó giúp chúng ta cảm thấy yên bình, nhẹ nhõm trước cuộc đời, không bắt ta phải suy nghĩ về những thứ quá cầu kỳ phô trương. Chỉ cần chúng ta sống thật với bản thân, sống phù hợp với hoàn cảnh của mình thì đó cũng đã là một sự giản dị đáng quý. Hơn nữa, người có đức tính giản dị thường đi kèm với những phẩm chất tốt đẹp khác như sự chân thành, lòng trung thực, tình yêu thương sẻ chia với người khác… Nhờ vậy mà giá trị của mỗi cá thể sẽ được nâng cao, ngày càng được hoàn thiện. Đồng thời chính đức tính giản dị cũng giúp ta tạo được những mối quan hệ xã hội tốt đẹp, nhận được sự yêu mến và kính trọng từ những người xung quanh.
Nghị luận về lối sống giản dị - Mẫu 2
Trong cuộc sống của mỗi người, đức tính giản gị là vô cùng quan trọng. Lối sống giản dị là điều chúng ta cần học hỏi và noi theo. Đây là một lối sống lành mạnh, chuẩn mực. Nhưng chúng ta cũng cần phải phân biệt rõ giữa những hành vi thể hiện lối sống giản dị với những hành vi khác. Như việc sống luộm thuộm, cẩu thả hay sơ sài, chúng ta không thể coi đó là sống giản dị được. Hay việc nói cộc lốc, trống không đây là những hành vi trái ngược với lối sống giản dị. Mỗi chúng ta cần phải có ý thức rèn luyện để tạo dựng cho mình một lối sống tiết kiệm, thực hành tiết kiệm. Bên cạnh đó phải lên án, phê phán những hành vi sống không lành mạnh, xa hoa, lãng phí. Cần lắm những hành động sống và làm việc theo Bác Hồ. Một vị lãnh tụ không chỉ giản dị trong cách sống mà còn giản dị cả trong lời nói. Chúng ta sẽ mãi không quên những hình ảnh chiếc áo bộ đội sờn màu, đôi dép cao su mòn vẹt nhưng vẫn đi khắp các chiến trường, các con núi, con sông. Bữa ăn chỉ là cháo be, với rau măng, bữa cơm quá đỗi thanh đạm. Một cuộc đời của vị lãnh tụ chính là một bài học cho chúng ta về đức tính giản dị.
Nghị luận về đức tính giản dị - Mẫu 3
Việt Nam vốn là một đất nước nông nghiệp nên con người thường sống gần gũi với thiên nhiên. Lại thêm con người Việt Nam rất trọng tình mến nghĩa, hướng đến đời sống thanh cao. Bởi thế, đức tính giản dị vốn cũng rất được đề cao ở mỗi con người. Không những thế, nó còn được xem là một đức tính cần có trong thời đại ngày nay.
Giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Sống giản dị còn là không lãng phí, không cầu kì, kiểu cách, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Người có đức tính giản dị thường biết quý trọng tình nghĩa, giữ gìn nhân cách trong sạch. Lối sống của họ hòa hợp với thiên nhiên và mọi người xung quanh. Người giản dị còn hiền hòa trong cả lời nói, cung cách ứng xử với mọi người. Lúc nào họ cũng chân tình, cởi mở và thân thiện với mọi người.
Giản dị vốn là một đức tính cao đẹp của dân tộc ta. Không những thế, nó còn là lối sống lành mạnh, được nhân dân thực hành từ bao đời nay. Sống giản dị góp phần tiết kiệm được của cải, vật chất cho bản thân và xã hội, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Người có đức tính giản dị luôn được mọi người yêu thương, kính trọng và giúp đỡ. Từ đức tính giản dị hình thành nên lối sống giản dị ở họ. Không gian sống của người giản dị thường đơn sơ, mộc mạc, không cầu kì, kiểu cách. Nó luôn tạo nên nét thanh bình và thân thiện với thế giới xung quanh.
Trước hết là phải ra sức học tập và rèn luyện nhân cách, nhân phẩm tốt đẹp. Hình thành ở bản thân những phẩm chất tốt đẹp, nâng cao bản lĩnh sống, sẵn sàng thực hành lối sống giản dị ngay trong cuộc sống đầy tiện nghi này.
Biết tiết kiệm của cải, vật chất của bản thân và của xã hội. Không được phung phí hay làm tổn hại bất kì tài sản nào trong xã hội, Không nên đua đòi hình thức hay chạy theo lối sống thời thượng hào nhoáng, xa hoa, lãng phí. Vật chất chỉ là hình thức bề ngoài. Bởi giá trị đích thực của đời người đó là tình yêu thương và cuộc sống hạnh phúc. Đừng vì vật chất mà tách mình ra khỏi xã hội, quên đi nghĩa tình ở đời.
Đối với mọi người phải nhẹ nhàng, thân thiện. Lời nói đúng mực. Ứng xử lịch sự, nhã nhặn, tế nhị. Vật chất chỉ mua được niềm vui nhất thời và mau chóng chìm vào lạnh leo. Chỉ có tình người mới giữ ấm trái tim ta mãi mãi.
Trong cuộc sống vẫn còn có nhiều người không có đức tính giản dị. Họ xem của cải, vật chất là trên hết. Họ phô trương, khoe mẽ vật chất hoặc chú trọng hình thức quá mức cần thiết. Trong lời nói, họ kiêu ngạo, hợm hĩnh. Chỉ vì lợi ích, họ sẵn sàng bất chấp thủ đoạn để đoạt lấy. Bởi thế, họ thường bị mọi người xa lánh, khinh thường và thù ghét. Những người như thế thật đáng chê trách.
Không phải là phép màu nhưng sống giản dị có thể giúp con người được thanh thản, nhẹ nhàng, xóa bỏ được ưu tư, phiền muộn. Hãy rèn luyện đức tính giản dị và thực hành lối sống ấy ngay từ bây giờ.
Nghị luận về lối sống giản dị - Mẫu 4
Từ xưa, giản dị là một nếp sống đáng quý, trân trọng và cần được gìn giữ. Có thể, giờ đây lối sống giản dị đã phần nào mai một nhưng nó vẫn là truyền thống lâu đời của người phương Đông.
Trước hết, giản dị được thể hiện rõ nét trong cách ăn mặc ở hình thức bên ngoài của mỗi người. Đừng cố tỏ ra mình là người sành điệu, hợp thời trang mà đánh mất đi nét bình dị, đời thường của mình! Chỉ cần có một bộ cánh gọn gàng, sạch đẹp là bạn đã có thể khiến cho mọi người ấn tượng tốt.
Không chỉ là cách ăn mặc, giản dị còn được thể hiện rất nhiều trong cách ứng xử hằng ngày. Mẹ tôi đã từng dạy rằng, đừng bao giờ anh nói cầu kỳ, qua Mỹ mà hãy diễn tả những lời nói, Ý hiểu của mình bằng ngôn từ dễ hiểu, trong sáng. Đúng như vậy, dù khi lời nói của bạn chị làm cô bình dị nhưng chân thành thì nó sẽ trở thành ánh bình minh trong lòng mọi người bởi nó rất đáng yêu. Nhưng, không phải vì thế mà chúng ta trở nên hồn nhiên và vô tư một cách khiếm nhã, làm mất đi nét thanh lịch của con người. Sự cư xử trang nhã, lễ phép của bạn sẽ khiến cho những người xung quanh càng ngày càng yêu quý. Trong lối sống hằng ngày cũng vậy, chẳng cần cầu kỳ mà bạn vẫn có thể thể hiện rõ được mình là người giản dị, đáng mến, văn minh và lịch sự.
Chắc hẳn, bạn không thể quên được hình ảnh một lão nông chân quê, mộc mạc trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân? Đó là ông Hai – . một nhân vật văn học đã để lại cho chúng ta bao ấn tượng sâu sắc. Tâm hồn ông vốn đã người sáng bị lòng yêu quê hương, đất nước nồng nàn lại càng đẹp hơn nữa bởi vẻ đẹp đôn hậu, thật thà, rất đỗi hồn nhiên giản dị chân quê. Tâm trí tôi vẫn thường mường tượng tới hình ảnh của ông khi ngồi sẵn quần, kể chuyện bên nhà hàng xóm về cách mạng. Nhân vật ông Hai trở nên đáng yêu, đáng nhớ hơn có lẽ cũng chính nhờ vẻ đẹp tâm hồn giản dị của người nông dân Việt Nam…
Có thể tôi không hề giản dị theo nghĩa đơn thuần trong mắt mọi người, nhưng hôm nay, dù sao tôi cũng đã trở thành người giản dị trong suy nghĩ của riêng mình. Chẳng cần rườm rà, lan man, tôi đang thẳng thắn trình bày ý kiến và tất nhiên, điều không thể tránh khỏi đó chính là sự nghèo nàn, vụng về trong hiểu biết. Nhưng dù sao đó là giản dị theo cách của tôi.
Nghị luận về lối sống giản dị - Mẫu 5
Giản dị là sống một cách đơn giản, không cầu kì phô trương. Nhắc đến lối sống giản dị, ta thường hiểu đó là lối sống lấy tự nhiên làm mục đích, tránh những phức tạp, khoe khoang, những điều không cần thiết. Đây là một đức tính cao quý cần có và đáng trân trọng ở mỗi người. Lối sống giản dị được biểu hiện ở nhiều phương diện khác nhau trong đời sống con người: trang phục, việc ăn uống, cách giao tiếp, thói quen, hay phong cách làm việc…
Sống giản dị đem lại cho ta những giá trị gì? Trước hết, đây là một lối sống giúp con người tiết kiệm, không cần đầu tư tiền bạc, tâm sức vào những điều phù phiếm, xa xỉ. Thêm vào đó, giản dị giúp người ta dễ hòa nhập hài hòa với thế giới xung quanh, làm cho người với người thân thiện hơn và có thêm nhiều mối quan hệ cao đẹp trong cuộc sống. Sống giản dị cũng góp phần làm sáng lên nhân cách của mỗi con người. Hơn nữa, giản dị còn tạo nên sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn và sự nhàn nhã, thư thái trong nhịp sống. Con người không cần gắng gượng phô trương những điều không cần thiết, vì thế mà có thể sống thật, sống ý nghĩa hơn. Nhìn xa hơn, giản dị là một trong những nhân tố quan trọng giúp chúng ta hoàn thiện bản thân và tạo cho xã hội sự bình đẳng, nhân ái.
Có lẽ bất kì người con Việt Nam nào cũng biết đến tấm gương giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy là một lãnh tụ vĩ đại, là người đứng đầu một đất nước nhưng cuộc sống của bác tự nhiên, giản dị và gần gũi vô cùng với cuộc sống của nhân dân vào những năm tháng khó khăn. “Người là cha, là bác, là anh” với lối sống “cháo bẹ, rau măng” chứ không hề xa xôi, lạ lẫm.
Như vậy giản dị là lối sống hợp lí, cao đẹp. Tuy nhiên giản dị hoàn toàn khác với lối sống gò bó, lạc hậu; giản dị cũng không đồng nghĩa với cách sống hà tiện, tối giản hóa chi tiêu. Con người sống và làm việc phải đi đôi với hưởng thụ. Vì vậy hãy biết giản dị phù hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện để vẫn thể hiện được sự tao nhã, thanh lịch, có văn hóa. Đề cao lối sống giản dị đồng nghĩa với việc phê phán lối sống xa hoa, đua đòi, chạy theo xu hướng đám đông mà không phù hợp với hoàn cảnh của mình. Để có lối sống giản dị, con người cần trải qua rèn luyện, tự sống và cảm nhận, gạt bỏ mọi cám dỗ và lòng tham để nâng cao giá trị sống bản thân.
Nghị luận về lối sống giản dị - Mẫu 6
Với nhân dân ta nói riêng và bạn bè quốc tế nói chung thì có lẽ hình ảnh vị cha già kính yêu-Hồ Chí Minh, đã quá vĩ đại và thân quen với mọi tầng lớp và gương mặt. Những người không chỉ nổi tiếng là một vị lãnh tụ vĩ đại, một nhà quân sự tài ba, một danh nhân văn hóa thế giới mà Người còn được cả thế giới kính trọng bởi đức tính giản dị của một người lãnh tụ trên vạn người. Vậy thì thế nào là giản dị?
Giản dị là sự không cầu kì, sang trọng và phô trương khoe mẽ. giản dị thể hiện trong trang phục, lối sống, cách sinh hoạt, cách thể hiện bản thân. Giản dị đối lập hẳn với cách sống cầu kì, kiểu cách theo kiểu vương công quý tộc. Sự giản dị tạo ra cách sống nhẹ nhàng, điềm đạm thích sống hướng nội hơn là sự khoe mẽ ra bên ngoài.
Bác Hồ của chúng ta, người vốn nổi tiếng với đức tính giản dị. Giản dị trong nhu cầu ăn uống, Bác thường quen với những món giản dị, đạm bạc như canh cà, dưa muối. Trong ăn mặc Bác cũng không quá phô trương, Bác hay mặc chiếc áo ka-ki đã sờn màu và đi đôi dép lốp cao su. Tất cả những gì thuộc về Bác đều là sự giản dị đến tối đa, có ai nghĩ một vị chủ tịch nước của một dân tộc lại sống trong một căn nhà sàn đơn sơ, đạm bạc đến vậy thay vì những cung điện nguy nga, tráng lệ của vua chúa hay các vị nguyên thủ trên thế giới. Sự giản dị của Bác gợi ra cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Sự giản dị phải chăng cũng đi liền với những quan niệm thẩm mĩ về cái đẹp, đó là cái đẹp giản dị, tự nhiên, chân chất và mộc mạc thay vì cái đẹp cầu kì, kiểu cách. Cái đẹp ấy đi liền với sự thanh cao, giản dị, cái đẹp tự nhiên, điềm đạm, cân đối hài hòa. Sự giản dị giúp tâm hồn ta thanh thản và nhẹ nhõm, không quá đề cao những gì thuộc về vật chất. đồng thời sự giản dị giúp ta sống không theo kiểu chạy theo xu hướng, không quá a dua, đua đòi theo lối sống của người khác.
Có một nhà văn nào đó đã từng nói như này: Quần áo giản dị là y phục đúng kiểu của kẻ thô tục; chúng được may cho họ, và phù hợp hoàn toàn với tiêu chuẩn của họ, nhưng đối với những người đã đổ đầy cuộc đời mình với những hành động lớn lao thì chúng lại là đồ trang trí lộng lẫy. Tôi ví chúng như cái đẹp trong sự xuềnh xoàng, nhưng khiến người ta mê mẩn. Vậy thì thật đáng quý biết bao là cái đẹp giản dị, cái đẹp sang trọng trong những gì bình dị nhất.
Trong tất cả mọi thứ: trong tính cách, trong cung cách, trong phong cách, cái đẹp nhất là sự giản dị. Chính sự giản dị làm nên cái chuẩn mực và thanh tịnh cho tâm hồn, không để ta cứ luôn phải chạy theo những toan tính và tham vọng về vật chất để khoe mẽ và phơi bày cho thiên hạ trông thấy. Chính vì thế, giản dị cũng là một trong những đẹp thanh lịch và quý báu mà chúng ta cần phát huy.
Nghị luận về lối sống giản dị - Mẫu 7
Dân tộc ta từ xưa đến nay luôn đề cao đức tính giản dị của con người. Nó không những là một phẩm chất cao quý mà còn là lối sống, lối ứng xử in đậm trong văn hóa của người Việt.
Giản dị là một lối sống không trọng vật chất của con người. Giản dị biểu hiện ở lối sống đơn giản, không cầu kì, xa hoa, không phô trương hay lãng phí của cải vật chất. Giản dị còn thể hiện ở tinh thần yêu chuộng cuộc sống bình dị, gần gũi với thiên nhiên. Giản dị còn biểu hiện ở lời ăn tiếng nói hiền hòa, điềm đạm, có tình, có nghĩa của con người.
Người giản dị không những giản dị trong cách xây dựng không gian sống. Họ còn giản dị cả trong lời nói, ăn mặc, công việc và ứng xử. Người giản dị thường ăn nói điềm đạm, ứng xử lịch sự, nhã nhặn. Họ ít khi có lời gắt gỏng hay xung đột với ai. Họ lấy nghĩa tình làm nguyên tắc ứng xử của mình. Những bất đồng ít khi trở thành xung đột, dĩ hòa vi quý. Một người giản dị thường không khoa trương, không dùng lời lẽ xa hoa, bóng bẩy. Lời nói của họ đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, truyền đạt đúng và đầy đủ thông tin mà họ muốn nói. Trong ăn mặc, họ ít khi cầu kì. Cuộc sống giản đơn như đồng quê cây cỏ. Ăn uống đối với họ cũng hết sức đạm bạc. Họ cũng không thích những bộ trang phục lòe loẹt, kiểu cách. Trang phục của họ thường rất bình dị, hòa hợp với hoàn cảnh xung quanh. Trong công việc, họ cầu tiến nhưng không quá tham vọng. Họ sẵn sàng đối đầu với khó khăn thử thách để hoàn thành tốt công việc. Ít khi nào ta thấy họ bỏ cuộc hay chấp nhận thất bại một cách dễ dàng.
Đối với mọi người xung quanh, họ hết sức niềm nở, thân ái. Bởi người sống giản dị rất quý trọng tình nghĩa. Một người biết suy nghĩ những điều giản dị sẽ biết phải làm gì để có được điều đó, biết cách sống gần gũi với những người xung quanh. Đối với họ, sự hòa hợp của bản thân với xung quanh quan trọng hơn là nổi bậc.
Giản dị không chỉ là một cách sống, nó còn là một quan niệm sống. Từ xưa, lối sống “thanh bần lạc đạo” vốn được thực hành như một triết lí sống của con người. Nguyễn Bỉnh Khiêm xa rời vinh hoa quan trường về mở trường dạy học bên dòng sông Tuyết Giang (sông Hàn), sống an bần đến cuối đời. Nguyễn Khuyến cũng rời chốn phồn hoa về ẩn cư tại quê nhà, vui thú điền viên. Lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng là một tấm gương sáng ngời về lối sống giản dị, đáng để chúng ta kính trọng, học tập và làm theo.
Sống giản dị là một lối sống hết sức lành mạnh và tích. Một lối sống không trọng vật chất, thích những điều đơn giản sẽ mang lại cho con người sự trong sạch trong tinh thần. Lối sống giản dị mang lại cho con người một cuộc sống thanh bình, êm ả. Con người không bị ràng buộc bởi những tiện nghi. Tinh thần lúc nào cũng an nhàn, thoải mái. Tính giản dị rất cần thiết trong cuộc sống. Tính giản dị khiến ta tiết kiệm thời gian, không mất thời gian vào các việc vô bổ mà cầu kì. Tính giản dị khiến mọi người xung quanh tôn trọng ta. Sống giản dị giúp biết cách biết cách ứng xử hiền hòa trước cuộc sống. Ta trở nên gần gũi, chan hòa với cuộc sống, với mọi người xung quanh mình. Người có lối sống giản dị luôn được người khác yêu mến và kính trọng.
Sống giản dị là sống như cha ông ta đã từng sống. Đó không phải là cách ứng xử của con người khi nghèo khổ mà đó là cách sống cao cả, nhằm hướng đến xây dựng một lối sống thắm đượm nghĩa tình, thể hiện sự quý trọng của con người đối với vật chất và sức lao động con người.
Nghị luận về lối sống giản dị - Mẫu 8
Xã hội là tiền đề phát triển suy nghĩ nhận thức của mỗi người, rèn cho ta những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống. Một trong số đó con người ta đã và đang rèn luyện đức tính sống giản dị bởi sống giản dị là một lối sống đẹp của con người.
Vậy sống giản dị là gì? Là sống phù hợp với điều kiện với hoàn cảnh của bản thân gia đình và xã hội, không sống xa hoa lãng phí, không cầu kỳ kiểu cách, không chạy theo những nhu cầu về vật chất và hình thức bên ngoài.
Lối sống giản dị được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đó không chỉ thể hiện ở cách ăn mặc trong việc sinh hoạt hàng ngày mà còn thể hiện ở cả lời ăn tiếng nói, ở cả quan điểm sống, cách cư xử của con người trong mọi hoàn cảnh trước mọi vấn đề. Một người giản dị là một người ăn nói cẩn thận, không khoa trương, ăn nói ngắn gọn dễ hiểu. Hay là người luôn giải quyết mọi công việc một cách nhanh nhất nhưng vẫn phải đảm bảo tính hiệu quả của nó. Đó cũng là những người sống hòa đồng với tất cả mọi người không quá cầu kỳ trong cách cư xử. Hơn thế nữa những người sống giản dị là những người không lãng phí, sử dụng tiền đúng mục đích, không sử dụng vào những công việc vô bổ, biết nhìn nhận mọi vấn đề đúng với chuẩn mực và không làm quan trọng hóa vấn đề. Trong cách ăn mặc, họ không cần mặc những trang phục hàng hiệu mà chỉ cần những bộ quần áo giản đơn thôi nhưng họ cũng làm cho mình trở nên đẹp hơn lịch sự hơn. Tất cả những đặc điểm trên là biểu hiện của những người sống giản dị.
Quả thật sống giản dị là một lối sống đẹp vì nó không phải là lối sống đơn giản thô sơ mà là một phong cách sống cao đẹp. Không những thế mà lối sống giản dị còn giúp cho con người ta không bị lệ thuộc vào những ham muốn về mặt vật chất và tinh thần. Nó giúp ta biết tự điều hòa kiềm chế bản thân vượt qua những cám dỗ trong cuộc sống. Sống giản dị giúp ta tiết kiệm thời gian, không bị chi phối bởi những việc vô bổ, cũng giúp con người có khả năng hòa đồng với thiên nhiên, quan tâm tới mọi người xung quanh nhiều hơn. Nhờ có vậy mà con người được sống một cuộc sống vui vẻ bình yên hạnh phúc và thanh thản.
Từ xưa tới nay có rất nhiều tấm gương về đức tính giản dị mà chúng ta cần phải học tập. Đầu tiên là phải nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh người được cả thế giới khâm phục và ngưỡng mộ. Mặc dù là chủ tịch nước nhưng Người lại sống một cuộc sống hết sức giản dị chứ không như những vị chủ tịch khác. Trang phục thường ngày của Bác chỉ là bộ bà ba nâu đã phai màu, bộ kaki đã cũ và đôi dép lốp cao su. Nơi làm việc của Bác cũng chỉ là một ngôi nhà sàn nhỏ bé đơn sơ chỉ vỏn vẹn có hai phòng. Ngay cả trong cách ăn nói người cũng rất giản dị ngắn gọn và dễ hiểu như "ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, ốm đau được chữa bệnh
Chính vì thế nên để sống giản dị thì cần phải có bản lĩnh và trí tuệ để biết đủ biết dừng chứ không phải sống khổ hạnh hay ép mình. Là một học sinh em cần phải tu dưỡng đạo đức rèn luyện bản thân. Khi tới trường chỉ cần phải ăn mặc đúng đồng phục không cầu kỳ kiểu cách. Hơn thế nữa em sẽ tuyên truyền để bạn bè cùng hiểu rõ sự cần thiết và tác dụng của lối sống giản dị.
Quả thật sống giản dị giúp con người thanh thoát hơn không tiêu tốn tiền bạc của cải tạo cho xã hội sự hòa đồng bình đẳng thân ái. Chính vì vậy mà mỗi người chúng ta cần tạo cho mình một lối sống giản dị và lan tỏa lối sống giản dị đến những người xung quanh để cuộc sống luôn tươi đẹp và hài hòa.
Nghị luận về lối sống giản dị - Mẫu 9
Mỗi con người trong cuộc đời đều tìm cho mình một lối sống khác nhau, mưu cầu hạnh phúc khác nhau. Có người thì tìm kiếm sự giàu sang, thể diện bản thân. Cũng có những người muốn sống một cuộc sống hưởng thụ tất cả. Chọn cho mình lối sống như thế nào là việc tự bản thân chúng ta quyết định. Nhưng lối sống giản dị trong xã hội hiện đại mới là một điều khó.
Lối sống giản dị là lối sống không mưu cầu danh lợi, địa vị, là lối sống chấp nhận với hoàn cảnh, chấp nhận với những gì mình đạt được, không đòi hỏi quá xa vời, phi thực tế. Người giản dị là người có cách ứng xử với người khác vô cùng hòa nhã, có một phong thái hòa đồng, rất dễ dàng nhận biết.
Giản dị trong cách ăn mặc hàng ngày, những bộ quần áo chẳng có gì là mốt thời thượng, nhưng không hề bẩn thỉu. Giản dị trong cách ăn uống, thức ăn cũng rất bình thường, không hề tiêu pha bừa bãi. Giản dị trong sinh hoạt vật chất, những chi tiêu của người có lối sống giản dị hết sức hài hòa, không hề vượt quá một phạm vi nào lớn. Giản dị còn thể hiện không chỉ ở vẻ bề ngoài mà còn ở cái bên trong của mỗi người. Cử chỉ, lời nói của người có lối sống giản dị cũng hết sức đơn giản, thấu tình, đạt lí. Không có quanh co, hay có những lời nào thiếu suy nghĩ cả.
Một người, có thể xem là ví dụ tiêu biểu nhất của lối sống giản dị. Đó là chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta. Người giản dị từ lời ăn, tiếng nói tới hành động cử chỉ của mình. Kể cả khi đã làm chủ tịch của một nước, Người vẫn không hề sống một cuộc sống xa hoa. Người vẫn luôn giữ cho mình một đức tính giản dị. Người được rất nhiều người nể phục, tin tưởng, yêu thương. Sự giản dị của Người như là một chuẩn mực cho các thế hệ tiếp theo noi gương. Những đức tính giản dị của Người là một trong những di sản mà người để lại cho thế hệ sau này, một đức tính tuyệt vời từ một nhà lãnh đạo tối cao của dân tộc.
Nhiều người cho rằng, sống làm việc vất vả thì phải hưởng thụ. Đúng, chúng ta làm ra của cải vật chất để cho chúng ta có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn. Cũng chính vì vậy, nhiều người lệ thuộc vào đồng tiền, bán mạng vì đồng tiền, sống buông tha, vô trách nhiệm với cuộc đời.
Sống giản dị không hề khó, nó chẳng phải là thứ gì cao siêu. Nhưng con người, sống trong một xã hội đầy dục vọng. Có mấy ai hiểu được giá trị cốt lõi của cuộc sống cơ chứ. Có ai hiểu được cách sống giản dị là như thế nào. Chỉ đơn giản là sống một cuộc đời bình dị, hài hòa, làm những việc mà chúng ta cho là đúng chuẩn mực. Sống một cách có văn hóa, có trách nhiệm với người khác.
Nghị luận về lối sống giản dị - Mẫu 10
Xã hội là một môi trường để con người rèn luyện các đức tính tốt đẹp. Trong đó đức tính giản dị là một đức tính cao đẹp mà con người cần phải tôi luyện và học hỏi không ngừng.
Vậy giản dị là gì? Trong cuộc sống thì mỗi con người có một tính cách, một lối sống riêng. Có người ưa sự giàu sang, sang trọng, thích lộng lẫy nổi bật. Tuy vậy vẫn có những người chọn cho mình một lối sống giản dị bình thường. Và đức tính giản dị dù trong thời kì lịch sử giai đoạn nào của xã hội đều được con người đề cao và trân trọng. Giản dị được xem là một đức tính cao đẹp mà con người cần phải tôi luyện rèn giũa trong cuộc sống.
Đức tính giản dị là một đức tính tốt đẹp, là một cách sống tự nhiên trong lối sống không cầu kì phô trương. Đó là cách sống sử dụng các điều kiện vật chất phù hợp với điều kiện riêng của cá nhân, điều kiện chung của xã hội và điều kiện cụ thể của hoàn cảnh giao tiếp. Lối sống giản dị là biết chấp nhận cuộc sống hiện tại nhưng vẫn có những ước mơ. Ước mơ đó là những điều kiện mà khả năng chúng ta làm được. Trong cuộc sống ta luôn khiêm nhường hòa đồng với mọi người về phong cách sống và lối sống, không kiêu ngạo, bon chen hay tỵ nạnh, sống xa hoa đua đòi những thứ vật chất vô nghĩa. Lối sống giản dị là không nghĩ nhiều cho bản thân và sẵn sàng giúp đỡ người khác khi cần thiết.
Và không phải cứ tiết kiệm là giản dị. Chắc chúng ta vẫn chưa quên câu chuyện về một anh chàng có tính hà tiện. Khi đi thuyền trên sông anh tiết kiệm đủ đường rồi cuối cùng ngã xuống sông. Để cầu cứu người khác giúp đỡ anh đã mặc cả số tiền mà anh sẽ cho họ. Và chính sự tiết kiệm ấy đã khiến cho anh mất mạng bởi chẳng ai hà tiện đến mức mặc cả sự sống của mình. Nếu chúng ta quá tiết kiệm thì sẽ trở thành hà tiện và đó không được coi là giản dị. Nhưng theo quan điểm của tôi, sống giản dị không phải là lối sống theo kiểu lạc hậu, gò bó, khuôn mẫu do ai đó đặt ra. Bạn cũng như mọi người, không phải cứ nhốt mình vào một cái khuôn để rồi làm theo nó như một chú rô bốt. Trong khi chúng ta là con người, có cảm xúc và biết suy nghĩ cần làm gì và nên làm gì để bản thân trở nên hoàn thiện hơn. Cũng như mọi cái trong tự nhiên, tất cả đều phải bắt đầu từ từ. Mỗi chúng ta, đầu tiên phải giản dị ở cách ăn mặc. Bởi cái đập vào mắt của người đối diện bao giờ cũng là cách ăn mặc. Tiếp đến là lời nói, tác phong làm việc và mọi quan hệ xung quanh. Giản dị phải bắt nguồn từ tấm lòng, từ lối sống quen thuộc của mình mà ra. Không nên giản dị theo cách giả tạo để rồi chỉ để lại một chút gì đó thoáng qua và vội bay đi khi nó chưa kịp đọng lại.
Có rất nhiều tấm gương sáng mà chúng ta cần phải học tập về đức tính giản dị. Đầu tiên ta phải kể đến Bác Hồ đức tính giản dị của Bác được cả thế giới ngợi ca và khâm phục. Mặc dù là Chủ tịch nước, là nguyên thủ của một quốc gia nhưng Bác Hồ lại có một cuộc sống hết sức giản dị. Nơi làm việc của Người chỉ là một ngôi nhà sàn đơn sơ với các đồ đạc đủ dùng ở mức tối thiểu và cần thiết nhất. Còn nơi ở chỉ là một ngôi nhà cũ được sửa chữa lại, vỏn vẹn chỉ có hai phòng một phòng đủ để kê một chiếc giường đơn và một phòng đủ để kê một chiếc bàn làm việc và một tủ sách nhỏ. Hàng ngày, Người thường dùng bữa với vài ba món ăn dân dã, đơn giản. Trang phục Người thường mặc nhất là bộ bà ba nâu, bộ kaki vàng và đôi dép cao su… Sự giản dị của Người còn thể hiện ở trong từng lời nói luôn luôn ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ. Nói về chủ nghĩa xã hội, Người nói một cách thật dễ hiểu là “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, ốm đau được chữa bệnh…”.
Với người học sinh, việc luyện rèn lối sống giản dị rất quan trọng bởi từ đây chúng sẽ trở thành lối sống suốt đời thành nhân cách của con người. Vì vậy mỗi người học sinh phải ý thức sâu sắc việc rèn luyện này. Còn là học sinh chưa làm ra tiền, còn phải xin bố mẹ, chúng ta nên chi tiêu tiết kiệm, chỉ dùng tiền vào những việc cần thiết; trang phục, ăn uống phải đúng nơi, đúng lúc. Có những bạn mặc váy ngắn đi chùa, không mặc đồng phục khi đi học theo quy định của nhà trường vì chê “vừa xấu, vừa nóng, vừa nhà quê”… Như vậy là không nên. Giản dị giúp mỗi con người đẹp hơn, thanh thoát hơn, tích lũy được của cải làm giàu cho xã hội, tạo cho xã hội sự hòa đồng, bình đẳng, thân ái. Xây dựng lối sống giản dị là điều cần thiết đối với mọi người.
Nghị luận về lối sống giản dị - Mẫu 11
Đức tính giản dị là một đức tính có ý nghĩa quan trọng đối với con người, nó mang lại rất nhiều ý nghĩa to lớn và mang lại cuộc sống tràn đầy ý nghĩa. Đức tính giản dị đó là luôn luôn biết khiêm tốn, và một lối sống đơn giản, thông bạch và luôn luôn biết khiêm nhường không khoe khoang.
Đức tính này từ xưa đến nay đã được nhân dân ta đúc kết và lưu giữ thành kinh nghiệm sống để lại cho nhiều người, những điều đó để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm và bài học quý báu, những truyền thống đó luôn luôn được lưu giữ và trải nghiệm một cách thực tế và có nhiều ý nghĩa nhất.
Giản dị là một đức tính quan trọng, nó có ý nghĩa góp phần làm nên một con người giàu tình yêu thương và nhiều ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống, mỗi chúng ta đều có thể thấy đức tính giản dị là một phẩm chất vô cùng đáng khen ngợi. Và từ xưa đến nay chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói 5 điều mà Bác đúc kết thành 5 điều Bác Hồ dạy, những ý nghĩa đó tác động mạnh mẽ và vang vọng, có nhiều suy nghĩ to lớn đối với cuộc sống của mỗi con người.
Trong cuộc sống của chúng ta, những hình ảnh đó có tác động mạnh mẽ và nó vang vọng trong tâm hồn của mỗi người. Đức tính giản dị dạy con người chúng ta biết khiêm tốn, khiêm nhường và làm nên những điều có ý nghĩa, giá trị cho chính cuộc sống của mình, những điều đó có tác động mạnh mẽ và to lớn đối với cuộc sống cũng như đời thường của chúng ta. Học hỏi và phát huy được đức tính giản dị chúng ta sẽ cảm thấy cuộc đời của mình có nhiều ý nghĩa to lớn và mang lại nhiều giá trị cho chính bản thân mình, những điều đó không chỉ làm nên một cuộc sống ngập tràn sự sống mà nó còn đem lại được những ý nghĩa mạnh mẽ khi cuộc sống có nhiều điều vô cùng phức tạp, chính vì vậy nên giản dị, khiêm nhường để học hỏi và phát huy được nhiều kinh nghiệm sống cho chính cuộc sống của mình.
Sự giản dị có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó giúp chúng ta biết sống giản dị, tiết kiệm và có sự cư xử đúng đắn với mọi người xung quanh, những điều đó làm nên một cuộc sống nhiều ý nghĩa và đậm đà lòng tin đối với tất cả mọi người xung quanh, trong cuộc sống chúng ta đã thấy rất nhiều người cho dù có rất nhiều tiền bạc, và danh vọng lớn, nhưng họ không bao giờ khoa trương mà vô cùng giản dị, luôn biết yêu thương và luôn có những điều có giá trị và ý nghĩa nhất đối với chính họ, cảm xúc đó đang ngày càng dâng trào và làm nên những niềm tin to lớn đối với tất cả con người hôm nay và mai sau. Những cảm xúc đó đang dần lan tỏa trong cuộc sống này, nó vang vọng và để lại nhiều bài học có giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn đối với tất cả mọi người, giá trị đó không chỉ làm nên sự sống mãnh liệt mà nó còn có ý nghĩa tạo dựng nên sự sống và những tác phong cần thiết đối với tất cả con người.
Lời giải
Mẫu 1
Để có được nền độc lập tự do, đất nước thái bình như hiện nay mà chúng ta được hưởng là do sự hi sinh xương máu của bao thế hệ cha ông đi trước. Chính vì thế, chúng ta cần biết ơn những công lao đó và tiếp bước bằng lòng yêu nước. Lòng yêu nước là một tình cảm cao đẹp, là thứ tình cảm vô hình nhưng luôn tồn tại trong tim mỗi người, thôi thúc mỗi người cống hiến, đoàn kết cũng như tự hào dân tộc, sẵn sàng đứng lên đấu tranh chống lại mọi kẻ thù xâm lược. Lòng yêu nước chính là thước đo để đánh giá phẩm chất, đạo đức một con người đối công cuộc xây dựng đất nước. Trong thời chiến, biểu hiện của lòng yêu nước chính là sự dũng cảm, hy sinh, xả thân vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì bờ cõi lãnh thổ. Thời đại hiện nay, chúng ta được sống trong hòa bình và ấm no thì yêu nước và trách nhiệm chính là việc tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước cường thịnh, sánh vai cùng bè bạn năm châu bốn bể. Bên cạnh đó, lòng yêu nước còn là tinh thần đoàn kết, yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ, sẻ chia với mọi người xung quanh và với người có hoàn cảnh khó khăn; tuân thủ pháp luật, những nguyên tắc, quy định của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Là một học sinh trước hết chúng ta cần học tập thật tốt, nghe lời ông bà cha mẹ, lễ phép với thầy cô. Có nhận thức đúng đắn về việc giữ gìn và bảo vệ tổ quốc. Luôn biết yêu thương và giúp đỡ những người xung quanh, cố gắng trở thành một công dân tốt và cống hiến trọn vẹn cho nước nhà. Mỗi người chỉ có một quê hương đất nước, đất nước cũng là nơi chúng ta phát triển, nên người. Chính vì thế, bên cạnh việc cố gắng hoàn thiện bản thân thì chúng ta cần sống với lòng yêu nước, tinh thần sẵn sàng cống hiến, phát triển đất nước phồn thịnh để con cháu mai sau của ta có thể tự hào về những việc làm ngày hôm nay của ta.
Mẫu 2
Tình yêu đất nước là tình yêu muôn màu. Nó thường trực trong mỗi con người và không nhất thiết phải được bộc lộ, biểu hiện như nhau. Tình yêu đất nước tiềm chứa trong nó sức mạnh cực kỳ to lớn. Nó là bệ đỡ tinh thần cho mỗi người trong cuộc sống này. Tại sao “đất nước” vẫn là chủ đề bất tận để các nhạc sĩ, hoạ sĩ, các nhà thơ, nhà văn mọi thời đại, mọi thế hệ nối tiếp nhau sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật? Tại sao kiều bào Việt Nam sóng ở nước ngoài luôn hướng về đất nước? Tại sao những người con xa Tổ quốc đó, lúc về già luôn ao ước được yên nghỉ tại quê hương bản quán? Chính tình yêu đất nước đã nuôi dưỡng tâm hồn họ, dẫn bước cho họ vững vàng trong hành trình sống. Không chỉ nâng đỡ tinh thần con người, lòng yêu nước còn là đòn bẩy khiến mỗi chúng ta sống có trách nhiệm hơn với cộng đồng, với quê hương, dân tộc và với chính bản thân mình. Thực ra, ở mỗi người, khát vọng vinh danh cho quê hương đất nước không khi nào tách rời khát vọng vinh danh cho chính bản thân cá nhân. Chúng ta say mê học tập, lao động vì chính mình nhưng những thành quả mà ta đạt được sẽ điểm tô cho non sông đất nước. Học thức, tài năng của những sứ thần như Mạc Đỉnh Chi chẳng phải đã khiến vua quan Trung Quốc phải kinh ngạc, nể phục đó sao? Mỗi tấm bia khắc tên tuổi các vị trạng nguyên trong Văn Miếu Quốc Tử Giám đâu chỉ có ý nghĩa tôn vinh tài học của họ? Nguyên khí quốc gia là ở đó, Lòng yêu nước đã thôi thúc họ say mê học tập, thôi thúc họ làm rạng danh cho đất nước. Lòng yêu nước của người dân Việt Nam đã khiến các nước đế quốc phải chùn nhụt bước chân xâm lược. Nó là yếu tố cốt lõi nhất mang lại sự trường tồn vĩnh cửu cho giang sơn, tổ quốc này. Sức mạnh của tình yêu đất nước là vô biên, tuyệt đích, là bất khả xâm phạm. Nhận thức được điều đó, chúng ta càng nên gìn giữ, vun đắp để tình yêu đất nước mãi cháy sáng trong ta, để sức mạnh này càng nhân lên gấp bội trong cộng đồng dân tộc.
Mẫu 3
Một trong những truyền thống đáng tự hào của dân tộc Việt Nam là tinh thần yêu nước. Không chỉ trong quá khứ, mà ngay cả hiện tại, chúng ta vẫn phát huy được tinh thần đó. Lòng yêu nước của thế hệ trẻ hôm nay có thể được thể hiện qua những điều tưởng chừng như vô cùng đơn giản. Chúng ta yêu lời kể chuyện của bà, yêu tiếng hát ru của mẹ. Chúng ta yêu xóm làng thân thuộc, yêu cánh đồng lúa chín thơm. Hoặc cũng có thể là những hành động thật lớn lao như cố gắng học tập tốt để mai này trở về xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp. Ý chí bảo vệ và phát huy những nét văn hóa truyền thống của quê hương. Cả lòng quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước của mỗi con người trong những lúc gian nguy rình rập như chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh…. Dù là nhỏ bé hay lớn lao thì tình yêu đó tin chắc sẽ còn tồn tại mãi với thời gian. Bởi tình yêu đất nước là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Mẫu 4
Yêu nước - một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Thế trẻ hôm nay đã kế thừa ông cha đi trước, bảo vệ và phát huy truyền thống đó. Lòng yêu nước khi đất nước trong thời đại hòa bình đến từ những hành động rất đơn giản. Thế hệ trẻ khi tiếp thu văn minh hiện đại của nước ngoài dựa trên nguyên tắc “hòa nhập chứ không hòa tan”. Nhiều thanh niên tài năng với những phát minh khoa học được thế giới công nhận lại nguyện trở về Việt Nam xây dựng sự nghiệp. Nhiều sinh viên vừa mới tốt nghiệp, tình nguyện trở về quê hương để xây dựng cho quê hương mình. Vậy mà có nhiều bạn trẻ lại sẵn sàng chạy theo lối sống thực dụng, ăn chơi sa đọa, lãng phí, sống tự do, cá nhân, vô tổ chức… Họ quên đi nguồn cội của mình, rời bỏ quê hương hoặc thậm chí là tìm cách chống phá đất nước (để lộ bí mật quốc gia, hiện tượng chảy máu chất xám…). Đó là những hành vi đáng phê phán. Tóm lại, mỗi cá nhân hãy biết bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước và có những hành động cụ thể để bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước ngày một phát triển hơn.
Mẫu 5
Lòng yêu nước là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Lòng yêu nước là tình cảm yêu thương, gắn bó sâu nặng và tinh thần, trách nhiệm bảo vệ, dựng xây đất nước của con người trên đất nước đó. Đối với dân tộc Viêt Nam, lòng yêu nước tồn tại trong tất cả người dân như một lẽ dĩ nhiên bởi truyền thống yêu thương, giàu lòng nhân ái, đoàn kết và biết ơn. Lòng yêu nước của con người Việt Nam được thể hiện rõ qua những tấm gương của biết bao vị anh hùng, chiến sĩ, thậm chí là nông dân dũng cảm, can trường xả thân vì độc lập tự do của đất nước. Không chỉ vậy, lòng yêu nước còn được thể hiện ở những cố gắng cống hiến tri thức, tiền bạc để dựng xây và phát triển đất nước ngày một giàu đẹp. Ý nghĩa của lòng yêu nước đối với công cuộc bảo vệ và dựng xây xã hội chủ nghĩa được minh chứng bằng những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta trước giặc ngoại xâm, bằng những thành tựu khoa học công nghệ, giáo dục,… mà chúng ta đạt được từ xưa đến nay. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thức được giá trị của dân tộc và lòng yêu nước, bằng chứng là một bộ phận người dân vẫn tồn tại suy nghĩ phản động, ích kỉ, vô trách nhiệm, thậm chí còn tuyên truyền phản động, châm ngòi biểu tình nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước những hành vi đó, chúng ta cần có thái độ quyết liệt ngăn chặn, và có biện pháp khắc chế kịp thời để không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
Mẫu 6
Đất nước kết tinh, hóa thân trong mỗi con người. Con người phải có tinh thần cống hiến, hi sinh, có tinh thần trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương xứ sở. Đúng như Nguyễn Khoa Điềm đã viết “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi” – đó là lời thơ dung dị về tình yêu đất nước trong mỗi con người. Đất Nước là nơi ta sinh ra, nơi ta lớn lên, nơi ta được đến trường, được yêu thương và được làm người. Vì vậy, tình yêu đất nước là tình cảm thường trực trong mỗi con người chúng ta. Tôi còn nhớ đến một câu nói nổi tiếng của một cố tổng thống Mỹ “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn mà bạn phải hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc”. Đó là câu hỏi đặt ra với tất cả mọi người chúng ta. Đất nước – dân tộc là thiêng liêng là sự hòa kết giữa nhiều tế bào sống. Vì vậy, sự tồn tại của cá nhân chỉ có ý nghĩa khi hòa nhập vào cộng đồng. Có như vậy mới đem lại sự thành công trong sự nghiệp chung. Bên cạnh đó chúng ta cần phải phê phán những người có lối sống ích kỉ, chỉ nghĩ cho bản thân mình. Lòng yêu nước là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng, mỗi con người chúng ta cần nhận thức được tình cảm cao đẹp ấy để sống cho ra cuộc sống con người.
Mẫu 7
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm từng viết:
Em ơi em
Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời
Khi bàn về lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm. Lòng yêu nước là một trong những truyền thống quý báu của con người Việt Nam. Yêu nước luôn gắn với tinh thần trách nhiệm, yêu nước là cùng gánh vác nhiệm vụ của non sông, đất nước, yêu nước là hành động vì Tổ quốc, đất nước ấy. Trong thời chiến, biểu hiện của lòng yêu nước chính là sự dũng cảm, hi sinh, xả thân vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì bờ cõi lãnh thổ. Thời đại hiện nay, chúng ta được sống trong hoà bình và ấm no thì yêu nước và trách nhiệm chính là việc tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước cường thịnh, sánh vai cùng bè bạn năm châu bốn bể. Để phát huy được tinh thần trách nhiệm với đất nước, chúng ta cần học tập và rèn luyện tốt để cống hiến trí tuệ và sức lực, có lối sống lành mạnh sẵn sàng ra đi khi Tổ quốc cần. Lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm là cần thiết cho mọi thời đại chứ không phải một thời điểm hay khoảnh khắc, phát huy truyền thống yêu nước và tinh thần trách nhiệm là phát huy văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Mẫu 8
Lòng yêu nước chính là tình yêu quê hương đất tổ nơi mình sinh ra và lớn lên. Đó là yêu sông, yêu núi, yêu làng, yêu tất cả con người sống trên mảnh đất hình chữ S. Một người có lòng yêu nước sẽ luôn cống hiến hết mình cho sự phát triển của đất nước. Lòng yêu nước chính là thước đo để đánh giá phẩm chất, đạo đức một con người đối công cuộc xây dựng đất nước. Đôi khi lòng yêu nước chỉ là tình cảm đơn giản, bình dị nhưng lại mang một ý nghĩa rất lớn. Luôn cố gắng trong học tập, hay công việc để đất nước trở nên giàu mạnh hơn. Và luôn dang rộng vòng tay để yêu thương và kêu gọi xã hội bằng hành động thiết thực. Thế nhưng trong xã hội hiện nay vẫn còn một số bộ phận tiêu cực, phản động. Họ luôn có những hành động, thủ đoạn trái ngược với lợi ích của cộng đồng, xã hội. Những con người như vậy cần được răn đe và có hình thức xử lý đúng đắn và kịp thời. Như vậy lòng yêu nước thực sự rất cần thiết đối với mỗi người và toàn xã hội. Có thể nói lòng yêu nước là một truyền thống quý báu đáng tự hào của dân tộc ta. Vì một tương lai tươi sáng, xã hội văn minh chúng ta cần phát huy những truyền thống tốt đẹp.
Mẫu 9
Cũng như bao truyền thống khác, tinh thần yêu nước là một nét đặc sắc trong văn hóa lâu đời của nước ta, nó được thể hiện từ xưa đến nay và đi sâu vào từng hành động, ý nghĩ của mỗi con người. Lòng yêu nước là yêu tất cả những gì tốt đẹp, yêu thiên nhiên muôn hình vạn trạng, yêu bầu trời trong xanh, yêu đàn chim bay lượn, yêu cả những dòng sông thân thương hay gần gũi nữa là yêu những chiếc lá mỏng manh. Nói cho cùng thì tinh thần yêu nước nó xuất phát từ ý chí, sự quyết tâm phấn đấu, xây dựng Tổ quốc, tình yêu thương và cả niềm hi vọng. Tinh thần yêu nước bao gồm cả nhiều tình yêu khác: tình yêu gia đình, quê hương, tình yêu con người. Nó được bộc lộ ở mọi lúc mọi nơi, mọi cá nhân, bất cứ nơi nào có người dân Việt Nam sống thì đó sẽ mãi là mầm mống, là chồi non của tinh thần yêu nước Việt Nam. Và đó cũng sẽ không phải là lí tưởng của mình dân tộc Việt Nam mà còn rất nhiều nước khác, lí tưởng ấy luôn đi đầu.
Mẫu 10
Nhân dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn. từ già đến trẻ, tất cả đều sẵn sàng hy sinh vì đất nước Việt Nam. Những cô gái trẻ độ tuôi đôi mươi, cũng chấp nhận từ bỏ lứa tuổi đẹp nhất của đời người để ra trận. Những người mẹ tần tảo đã đau khổ biết mấy khi để những người con mà họ hết lòng yêu thương ra trận. Những người phụ nữ, bất chấp tất cả, cũng cùng các thanh niên trang bị cho cuộc chiến tranh sắp đến. Tất cả những công dân Việt Nam, họ biết họ đang đối mặt với sự sống và cái chết nhưng họ gạt bỏ tất cả nỗi sợ hãi bị tật nguyền, bị mất đi đôi chân hoặc cánh tay, tệ hơn nữa, họ sẽ chết chìm trong biển lửa tàn khốc của chiến tranh. Nhưng lý do gì đã không ngừng thôi thúc họ không được từ bỏ, rằng dù có bị tật nguyền cũng phải dũng cảm chiến đấu vì tương lai sau này? Đó là vì tinh thần yêu nước của nhân dân ta quá sâu đậm. Dường như trong dòng máu của mỗi công dân Việt Nam đều đã có sẵn tinh thần bất khuất ầy. Nó sẽ không bao giờ chịu khuất phục bởi chiến tranh, luôn sống mãi trong tim mỗi con người, mỗi công dân Việt Nam.
Lời giải
Dàn ý Bài văn nghị luận Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước
1. Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận: Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước?
2. Thân bài
a. Giải thích
- Lòng yêu nước là tình yêu đối với quê hương, đất nước, là hành động, là không ngừng nỗ lực để xây dựng và phát triển đất nước.
- Lòng yêu nước là một tình cảm thiêng liêng, cao quý của mỗi người dành cho đất nước mình.
- Yêu tiếng mẹ đẻ chính là sự tôn trọng ngôn ngữ tiếng Việt, sử dụng tiếng việt mộ t cách hợp lí, đúng đắn, không chêm xen quá nhiều ngôn ngữ khác khi giao tiếp, có ý thức giữ gìn và phát huy tiếng việt cũng như quảng bá đến bạn bè trên thế giới.
b. Phân tích
- Mỗi một quốc gia có một nền văn hóa, một ngôn ngữ khác nhau, là công dân của quốc gia, mỗi người có ý thức giữ gìn, phát huy cũng như truyền bá văn hóa, ngôn ngữ của mình.
- Chúng ta cần phải bảo vệ tiếng việt, giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt, không để người khác làm mai một, bão hòa ngôn ngữ riêng của mình với bất kì thứ ngôn ngữ nào khác.
- Tuy nhiên, giữ gìn tiếng mẹ đẻ không có nghĩa là bài trừ những ngôn ngữ khác mà cần sử dụng tiếng nước ngoài sao cho phù hợp, không được lạm dụng quá mức.
c. Chứng minh
Học sinh lấy dẫn chứng những tác phẩm tiếng việt nổi tiếng hoặc những con người, những hành động cao đẹp bảo vệ, quảng bá tiếng việt ra thế giới,… để làm ví dụ minh họa cho bài làm văn của mình.
d. Phản đề
Trong cuộc sống vẫn còn có nhiều trường hợp lạm dụng tiếng nước ngoài vào trong giao tiếp, cũng có những trường hợp sử dụng tiếng việt với mục đích xấu làm mất đi sự trong sáng của tiếng việt,… những hành động này cần ngăn ngừa.
3. Kết bài
Khái quát lại vấn đề cần nghị luận: tình yêu tiếng việt; đồng thời rút ra bài học và liên hệ bản thân.
Bài văn nghị luận Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước (mẫu 1)
Mỗi người sinh ra đều có quê hương, nơi chôn rau cắt rốn, có tiếng mẹ à ơi trong từng lời ru. Mỗi quốc gia đều có tiếng nói riêng, có ngôn ngữ riêng, Việt Nam cũng vậy. Nên chả có gì có thể ngăn cản tình yêu của chúng ta đối với tiếng Việt. Như vậy, liệu yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước?
Tiếng Việt của chúng ta vốn là một ngôn ngữ vô cùng đa dạng, phong phú. Trong tiếng Việt có rất nhiều cách nói đa thanh, đa nghĩa, chỉ cần trong câu văn đảo trật tự từ hoặc thay đổi cách ngắt nghỉ hay thêm bớt một từ thôi là nghĩa của câu có thể hoàn toàn thay đổi. Tiếng Việt cũng giống như linh hồn của đất nước vậy, nó là bản sắc, là hồn túy của dân tộc. Tiếng Việt chất chứa bề dày lịch sử, nét văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng truyền thống của dân tộc. Người Việt sử dụng tiếng Việt mới thẩm thấu được nhiều những lớp ý nghĩa trong cách nói năng của mọi người. Còn tiếng Việt là còn đất nước. Thế nhưng hiện nay, tiếng Việt lại ngày một trở nên mai một, biến chất. Con người sử dụng tiếng mẹ đẻ không còn khéo léo, phong phú như trước nữa. Nếu để ý, bạn sẽ thấy thế hệ cha ông chúng ta dùng nhiều những từ cổ, cách nói có nhiều ca dao tục ngữ, lời lẽ đa dạng, muốn bay bổng có bay bổng, muốn hài hước có hài hước, muốn bi thương có bi thương. Còn giới trẻ hiện nay, không những không nắm bắt được ngữ nghĩa của nhiều từ mà cách sử dụng tiếng mẹ đẻ cũng bó hẹp trong những từ thông dụng, căn bản, không thể hiện được sự đa dạng, nhiều sắc thái của tiếng Việt.
Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong đó có tiếng nước ngoài là rất tốt. Nhưng song song với đó, chúng ta phải có ý thức chủ động giữ gìn tiếng mẹ đẻ của mình bằng cách thường xuyên đọc sách, lắng nghe và sử dụng thường xuyên ngôn ngữ tiếng Việt một cách đa dạng, phong phú. Có như vậy chúng ta mới gìn giữ được những nét đẹp của ngôn ngữ dân tộc chúng ta.
Bài văn nghị luận Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước (mẫu 2)
Giữ gìn tiếng mẹ đẻ chính là tình yêu Tiếng Việt. Trong thời gian gần đây, việc một số bạn trẻ thích “sính ngoại”, sử dụng tiếng nước ngoài thay cho tiếng Việt đã gây ra nhiều tranh luận. Với tôi, tiếng mẹ đẻ vẫn là điều mà chúng ta phải gìn giữ, là di sản quý giá của dân tộc còn tiếng nước ngoài chỉ là một phương tiện để chúng ta giao lưu với thế giới. Hơn hết, “Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước”?
“Tiếng mẹ đẻ” là ngôn ngữ của dân tộc mình, là tiếng nói gốc của ông bà, cha mẹ,…từ ngàn đời xưa. “Tiếng nước ngoài” chỉ chung mọi ngôn ngữ khác không phải tiếng mẹ đẻ. Chúng ta cần thực hiện song song cả việc trau dồi tiếng mẹ đẻ và học tập tiếng nước ngoài. Bởi mỗi người sinh ra chính là từ văn hóa, truyền thống, bản sắc dân tộc. Ta được nuôi dưỡng từ những lời ru ầu ơ của bà của mẹ, trưởng thành từ chính thứ ngôn ngữ giản dị, mộc mạc mà sâu sắc ấy. Bên cạnh đó, ngoại ngữ cũng giúp chúng ta có thể hội nhập, mở mang tri thức… Giữ gìn tiếng mẹ đẻ không có nghĩa là bài trừ những ngôn ngữ khác mà cần sử dụng tiếng nước ngoài sao cho phù hợp, không được lạm dụng quá mức. Sử dụng tiếng nước ngoài một cách bừa bãi, thậm chí còn sai lệch, ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt không làm các bạn sang trọng hơn mà chỉ hạ thấp chính giá trị con người bạn. Rất nhiều những người thành công trên trường quốc tế như giáo sư Ngô Bảo Châu hay “thần đồng” Đỗ Nhật Nam nhưng họ vẫn dùng tiếng Việt trong giao tiếp hay các bài viết, tiếng nước ngoài chỉ xuất hiện khi thực sự cần thiết. Nhưng nhiều người quan niệm rằng công việc không cần đến ngoại ngữ thì không cần học. Đó là suy nghĩ không toàn diện bởi ngoại ngữ không chỉ là công cụ làm việc mà còn là con thuyền đưa ta khám phá với những quốc gia khác. Vì vậy, mỗi chúng ta bên cạnh việc gìn giữ những giá trị truyền thống của tiếng Việt còn phải không ngừng học hỏi thêm những ngôn ngữ mới, để cuộc sống thêm nhiều màu sắc hơn.
Với tôi, tiếng Việt giúp tâm hồn tôi trong sáng hơn, bình yên hơn còn những ngôn ngữ khác sẽ giúp trí tuệ tôi được mở mang, giàu có hơn. Hãy luôn để tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài là những chiếc chìa khóa đưa ta đến với thế giới.
Bài văn nghị luận Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước (mẫu 3)
Mỗi một người khi sinh ra đều có quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình, có tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ ta biết nói đầu tiên. Tiếng Việt là ngôn ngữ trong sáng, đa dạng, phong phú và mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Thế nhưng hiện nay việc giữ gìn tiếng mẹ đẻ lại trở thành một vấn đề tương đối phức tạp và khó khăn, vậy chúng ta tự đặt ra câu hỏi: “Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước?”
Tiếng Việt của chúng ta vốn là một ngôn ngữ vô cùng đa dạng, phong phú. Trong tiếng Việt có rất nhiều cách nói đa thanh, đa nghĩa, chỉ cần trong câu văn đảo trật tự từ hoặc thay đổi cách ngắt nghỉ hay thêm bớt một từ thôi là nghĩa của câu có thể hoàn toàn thay đổi. Tiếng Việt cũng giống như linh hồn của đất nước vậy, nó là bản sắc, là hồn túy của dân tộc. Tiếng Việt chất chứa bề dày lịch sử, nét văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng truyền thống của dân tộc. Người Việt sử dụng tiếng Việt mới thẩm thấu được nhiều những lớp ý nghĩa trong cách nói năng của mọi người. Còn tiếng Việt là còn đất nước. Thế nhưng hiện nay, tiếng Việt lại ngày một trở nên mai một, biến chất. Con người sử dụng tiếng mẹ đẻ không còn khéo léo, phong phú như trước nữa. Nếu để ý, bạn sẽ thấy thế hệ cha ông chúng ta dùng nhiều những từ cổ, cách nói có nhiều ca dao tục ngữ, lời lẽ đa dang, muốn bay bổng có bay bổng, muốn hài hước có hài hước, muốn bi thương có bi thương. Còn giới trẻ hiện nay, không những không nắm bắt được ngữ nghĩa của nhiều từ mà cách sử dụng tiếng mẹ đẻ cũng bó hẹp trong những từ thông dụng, căn bản, không thể hiện được sự đa dạng, nhiều sắc thái của tiếng Việt.
Thêm vào đó, việc sử dụng nhiều tiếng lóng, các từ ngữ nước ngoài, chữ cách tân khiến cho tiếng Việt bị biến chất. Việc học tập tiếng nước ngoài thì ngày càng trở nên phổ biến hơn, thông dụng hơn, dễ dàng hơn. Người Việt sử dụng tiếng Anh ngày càng nhiều và thông thạo. Không những thế tiếng tiếng Hàn, tiếng, Trung Quốc, tiếng Nhật Bản cũng ngày càng phố biến. Việc học tiếng nước ngoài và học tiếng Việt dường như tỉ lệ nghịch với nhau. Người Việt thì sử dụng tiếng nước ngoài ngày càng nhiều nhưng sử dụng tiếng Việt thì lại càng biến chất, nghèo nàn.
Có những thay đổi trên một phần là do sự phát triển của cuộc sống xã hội, sự hội nhập của nước ta với thế giới khiến cho các mặt của đời sống xã hội, kinh tế chính trị đều thay đổi trong đó có yếu tố văn hóa. Chúng ta đang đẩy mạnh giảng dạy tiếng nước ngoài trong giáo dục để phục vụ cho việc công tác sau khi ra trường. Các doanh nghiệp nước ngoài đang tràn vào Việt Nam ngày càng nhiều. Các bộ phim, chương trình truyền hình, làn sóng idol… đã khiến cho các bạn trẻ ngày càng sử dụng nhiều từ nước ngoài. Thay vào đó, việc vận dụng linh hoạt ngôn ngữ mẹ đẻ khá xa lạ và khó khăn với các bạn. Điều này dẫn đến tiếng Việt ngày càng bị mai một, biến chất, có nhiều từ ngữ thậm chí không còn được sử dụng trong giao tiếp, trong đời sống hàng ngày.
Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong đó có tiếng nước ngoài là rất tốt. Nhưng song song với đó, chúng ta phải có ý thức chủ động giữ gìn tiếng mẹ đẻ của mình bằng cách thường xuyên đọc sách, lắng nghe và sử dụng thường xuyên ngôn ngữ tiếng Việt một cách đa dạng, phong phú. Có như vậy chúng ta mới gìn giữ được những nét đẹp của ngôn ngữ dân tộc chúng ta, mới chính là yêu nước.
Bài văn nghị luận Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước (mẫu 4)
Ngôn ngữ mẹ đẻ của một quốc gia dân tộc là biểu hiện cho nền văn hóa của đất nước, là di sản vô cùng quý giá của dân tộc mà ông cha ta đúc kết, hoàn thiện suốt mấy ngàn năm văn hiến, đồng thời là một trong những yếu tố cấu thành đất nước. Ngày nay trong xu thế hội nhập toàn cầu, việc biết thêm một vài ngôn ngữ để nâng cao trình độ là hoàn toàn hợp lý và cần thiết, thế nhưng, không vì thế mà chúng ta bỏ quên không còn trân trọng tiếng mẹ đẻ, thay vào đó chúng ta phải hết sức giữ gìn và phát huy nó như một niềm tự hào của dân tộc.
Tiếng mẹ đẻ hiểu nôm na là thứ ngôn ngữ đầu tiên chúng ta được học và tiếp xúc từ thuở thơ ấu, từ khi chúng ta bắt đầu có nhận thức. Con người từ khi sinh ra đã được nghe những tiếng à ơi từ lời ru ngọt ngào của bà của mẹ, tiếng nói đầu đời chẳng phải chúng ta được học ở trường ở lớp mà do chính những người thân trong gia đình chỉ dạy. Nói như vậy để biết rằng tiếng mẹ đẻ gần như là một bản năng được xây dựng trong chính quá trình chúng ta sinh sống và phát triển, dù không được giảng dạy chính thức ở trường học thì bản thân mỗi con người vẫn có thể lĩnh hội được thông qua đời sống hằng ngày, thông qua giao tiếp với xã hội. Tiếng mẹ đẻ là một dạng ngôn ngữ mang tính truyền thống và kế thừa, cha mẹ truyền cho con cái của mình thông qua quá trình nuôi dạy, là cái gốc gác đã ăn sâu vào máu thịt vào tâm hồn của mỗi con người, trở thành nét đặc sắc riêng cho từng quốc gia, dân tộc, dùng để phân biệt giữa các dân tộc với nhau và thể hiện sự thống nhất của một cộng đồng người.
Tiếng nước ngoài hay còn gọi là ngoại ngữ, là một ngôn ngữ thứ hai, của một quốc gia dân tộc khác, việc học tập chúng khá khó khăn, bởi nó không mang tính truyền thống và kế thừa, cũng không phải được sử dụng phổ biến trong một cộng đồng người của một quốc gia. Việc tiếp xúc với chúng khá hạn chế, đặc biệt con người khó có thể nói một ngoại ngữ như tiếng mẹ đẻ bởi chất giọng và thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ từ thời ấu thơ. Ngoại ngữ là ngôn ngữ thứ hai chúng ta phải học tập tích cực và sử dụng thường xuyên thì mới có thể sử dụng tương đối thành thạo. Người ta có xu hướng quên đi những ngoại ngữ mà mình đã học tập, thậm chí là thành thạo, nếu không có sự củng cố thường xuyên bởi nó là dạng kiến thức tích cực rèn luyện, không phải là một thói quen như tiếng mẹ đẻ.
Đất nước đang trên đà hội nhập, mở cửa giao lưu với thế giới, nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự trao đổi giao lưu với người ngoại quốc ngày càng trở nên phổ biến và cực kỳ quan trọng trong công việc. Điều khuyến khích mỗi cá nhân cần ý thức tự trau dồi cho mình thêm một vài ngoại ngữ để phục vụ cho nhu cầu công việc và phát triển bản thân, nâng cao tầm tri thức. Đặc biệt trong các trường học đã bổ sung thêm môn ngoại ngữ, phổ biến nhất là tiếng Anh để phục vụ nhu cầu học tập của các em học sinh. Đó là một dấu hiệu tích cực, đánh dấu sự phát triển và quyết tâm đổi mới của đất nước của nhân dân ta, nhận thức của dân tộc đã ở một tầm cao mới, thật đáng mừng. Tuy nhiên, tích cực trau dồi ngoại ngữ nhưng chúng ta cũng phải chú ý phát triển và củng cố tiếng mẹ đẻ, trước khi học một ngôn ngữ khác thì chúng ta phải nắm cho tinh cho kỹ ngôn ngữ của dân tộc cái đã. Chứ đừng để kiểu nửa vời, tiếng nước họ thì bập bẹ tiếng mẹ đẻ cũng chẳng tinh thông, bởi ngay cả ngôn ngữ của nước mình mà cũng không rành thì mặt mũi nào trò chuyện với bạn bè quốc tế, nếu họ hỏi đến, đó là mất gốc, xấu hổ lắm. Chúng ta phải luôn luôn ý thức được rằng tiếng mẹ đẻ là di sản vô cùng quý giá của dân tộc mà cha ông ta đã mấy ngàn năm phấn đấu để giữ gìn, rồi truyền lại cho con cháu, là niềm tự hào của dân tộc. Đã là người Việt thì phải lấy tiếng Việt làm cái gốc, để dù đi tới đâu người ta cũng nhận ra: "A, anh là người Việt Nam!", không thể nhầm lẫn với bất kỳ một dân tộc nào khác.
Biết ngoại ngữ cũng là một niềm tự hào, là thứ để khẳng định sự nỗ lực của mỗi cá nhân trong quá trình hoàn thiện bản thân và chuẩn bị cho bước đường trong tương lai. Thế nhưng, chúng ta phải sử dụng ngoại ngữ sau cho đúng và hợp lý, lúc nào dùng lúc nào không, đừng lạm dụng quá mức mà trở thành người kém duyên, thiếu hiểu biết. Nhiều bạn trẻ, tiếng Anh biết được đôi ba chữ, chẳng lấy gì làm tinh thông, ấy thế mà lúc nói chuyện cứ phải chêm thêm mấy từ vào, cốt là để cho nó "sang", để khoe khoang với bạn bè rằng ta đây cũng biết ngoại ngữ. Nhưng làm thế để được gì khi trong mắt người đối diện bạn thật kệch cỡm và hài hước, phát âm không chuẩn, cấu trúc của tiếng mẹ đẻ thì bị làm cho rối tung rối mù cả lên, làm mất sự trong sáng của tiếng Việt? Và đặc biệt không phải trường hợp nào cũng dùng ngoại ngữ, bạn nghĩ sao về việc ông bà, họ hàng xưa nay chỉ nói tiếng mẹ đẻ, bạn lại nói chuyện với họ bằng tiếng Anh, thế không phải là tự tạo sự bất đồng ngôn ngữ và cực kỳ không tôn trọng người đối diện hay sao? Một quan điểm khác về việc học ngoại ngữ, có người nói rằng ngoại ngữ có hay không cũng chẳng sao, bởi tôi chẳng bao giờ dùng đến, cũng chẳng có cơ hội ra nước ngoài. Đó là một quan điểm hết sức sai lầm, đặc biệt là với các bạn trẻ, sao các bạn biết là không dùng đến, sao các bạn biết là không có cơ hội? Trong khi ngoài kia, các nhà tuyển dụng luôn yêu cầu trình độ ngoại ngữ các loại làm điều kiện ưu tiên, còn cơ hội ra nước ngoài là do bản thân bạn tự tạo ra chứ cớ sao nói là không có cơ hội. Chung quy lại cũng chỉ là do cái suy nghĩ lười biếng, không năng động, tính ì quá lớn của một bộ phận con người, nếu cứ thế mãi thì bao giờ bạn mới có thể thành công được đây.
Tóm lại, chúng ta phải có ý thức giữ gìn tôn trọng và phát huy tiếng mẹ đẻ, luôn tự hào về nền văn hiến 4000 năm của dân tộc, nó giúp tâm hồn chúng ta trở nên trong sáng, tìm về với những bình yên, những giá trị văn hóa tốt đẹp, trân quý của dân tộc. Song song với đó việc học tập ngoại ngữ là vô cùng cần thiết, giúp chúng ta mở mang đầu óc, tạo những cơ hội tốt đẹp cho cuộc sống trong tương lai. Đặc biệt đối với ngôn ngữ nào dù là tiếng mẹ đẻ hay ngoại ngữ chúng ta cũng cần phải có thái độ học tập thật nghiêm túc, tránh thái độ hời hợt "Nhất bên trọng, nhất bên khinh", hoặc bóp méo ngôn ngữ.
Bài văn nghị luận Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước (mẫu 5)
Trong thời gian gần đây, việc một số bạn trẻ thích “sinh ngoại”, sử dụng tiếng nước ngoài thay cho tiếng Việt đã gây ra nhiều tranh luận. Với tôi, tiếng mẹ đẻ vẫn là điều mà chúng ta phải gìn giữ, là di sản quý giá của dân tộc còn tiếng nước ngoài chỉ là một phương tiện để chúng ta giao lưu với thế giới. “Tiếng mẹ đẻ” là ngôn ngữ của dân tộc mình, là tiếng nói gốc của ông bà, cha mẹ,…từ ngàn đời xưa. “Tiếng nước ngoài” chỉ chung mọi ngôn ngữ khác không phải tiếng mẹ đẻ. Chúng ta cần thực hiện song song cả việc trau dồi tiếng mẹ đẻ và học tập tiếng nước ngoài. Bởi mỗi người sinh ra chính là từ văn hóa, truyền thống, bản sắc dân tộc. Ta được nuôi dưỡng từ những lời ru ầu ơ của bà của mẹ, trưởng thành từ chính thứ ngôn ngữ giản dị, mộc mạc mà sâu sắc ấy. Bên cạnh đó, ngoại ngữ cũng giúp chúng ta có thể hội nhập, mở mang tri thức…Giữ gìn tiếng mẹ đẻ không có nghĩa là bài trừ những ngôn ngữ khác mà cần sử dụng tiếng nước ngoài sao cho phù hợp, không được lạm dụng quá mức. Sử dụng tiếng nước ngoài một cách bừa bãi, thậm chí còn sai lệch, ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt không làm các bạn sang trọng hơn mà chỉ hạ thấp chính giá trị con người bạn. Rất nhiều những người thành công trên trường quốc tế như GS Ngô Bảo Châu hay “thần đồng” Đỗ Nhật Nam nhưng họ vẫn dùng tiếng Việt trong giao tiếp hay các bài viết, tiếng nước ngoài chỉ xuất hiện khi thực sự cần thiết. Nhưng nhiều người quan niệm rằng công việc không cần đến ngoại ngữ thì không cần học. Đó là suy nghĩ không toàn diện bởi ngoại ngữ không chỉ là công cụ làm việc mà còn là con thuyền đưa ta khám phá với những quốc gia khác. Vì vậy, mỗi chúng ta bên cạnh việc gìn giữ những giá trị truyền thống của tiếng Việt còn phải không ngừng học hỏi thêm những ngôn ngữ mới, để cuộc sống thêm nhiều màu sắc hơn. Với tôi, tiếng Việt giúp tâm hồn tôi trong sáng hơn, bình yên hơn còn những ngôn ngữ khác sẽ giúp trí tuệ tôi được mở mang, giàu có hơn. Hãy luôn để tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài là những chiếc chìa khóa đưa ta đến với thế giới
Bài văn nghị luận Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước (mẫu 6)
Mọi người đều biết đặc điểm nổi bật nhất để phân biệt vùng này vùng khác, tộc người này và tộc người khác không phải là quyền thế, không phải là vũ khí mà là ngôn ngữ, kể từ khi biết nói đến lúc chết đi chúng ta không thể tách rời khỏi tiếng mẹ đẻ.
Trước đây tôi không hiểu sao cộng đồng nói tiếng Anh lại chia thành hai loại: một là cộng đồng nói tiếng Anh kiểu Mỹ và cộng đồng nói tiếng Anh kiểu Anh. Tại sao đều dùng chung một thứ tiếng lại phải phân thành hai loại như thế để sự giao tiếp thêm khó khăn? Đến khi lớn lên tôi mới bắt đầu hiểu vấn đề này. Thử nghĩ xem, bất luận về phương diện nào Mỹ cũng đứng đầu thế giới, đã thế thì cớ gì phải dùng tiếng Anh kiểu Anh? Nhưng tôi cho rằng, Mỹ giàu nhưng cũng rất nghèo nàn! Nói quá lên rằng, ngoài tiền bạc ra, Mỹ nghèo đến nỗi chẳng có gì khác nữa. Thiếu bề dày văn hóa, không có ngôn ngữ riêng, tuy lớn mạnh nhưng không có lịch sử. Nói đến đây có lẽ bạn đã hiểu tại sao Mỹ lại phải dùng tiếng Anh kiểu Mỹ rồi!
Đúng thế, đó là vì Mỹ không có ngôn ngữ riêng, đối với những người Anh di cư đến Mỹ họ sớm đã không phải là người Anh nữa, đương nhiên họ cũng không thể nói tiếng Anh thuần túy, vì thế họ chọn cách nói tiếng Anh kiểu Mỹ. Độc lập không chỉ là một chiến thắng quân sự, không chỉ là đọc tuyên ngôn độc lập mà độc lập là một dấu hiệu, một kí hiệu, một thứ ngôn ngữ. Vì thế, theo tôi nước Mỹ giành độc lập thực sự kể từ khi dùng tiếng Anh theo kiểu Mỹ.
Theo cách nhìn của tôi thì văn hóa luôn là một khái niệm mơ hồ, chúng ta thường kêu gọi “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”. Giữ gìn bản sắc văn hóa mấy nghìn năm của dân tộc nhưng phải giữ thế nào, giữ bằng cách nào đây? Còn nhớ năm trước có một cô gái Việt kiều trạc tuổi tôi về nước, vốn là anh em họ với nhau nhưng cô gái đó chẳng mở miệng lấy một câu; một lần tình cờ tôi nghe hai bố con họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh chuẩn như người Anh thực sự, lúc đó tôi vô cùng ngưỡng mộ nên nói với bố: “Bố ơi, con thích học tiếng Anh, chị Việt kiều nói tiếng Anh rất chuẩn!”. Bất ngờ bố nói như nước lạnh dội vào đầu tôi rằng “Họ không phải là người Việt”, lúc đó tôi hoàn toàn không hiểu ngụ ý trong lời nói của bố. Mãi đến giờ tôi mới ngộ ra rằng, một con người không nói được tiếng mẹ đẻ thì mãi mãi là những người con du đãng không thể trở về đất mẹ quê hương, dù có đi khắp bốn phương trời cũng không thể nào tìm được cảm giác tự hào dân tộc, không tìm lại được sự nhớ nhung cái gì đó thiêng liêng… thật đáng thương!
Tiếng mẹ đẻ là suối nguồn văn hóa dân tộc, là gốc rễ đất nước, là miền đất cuối cùng có thể giữ gìn được sự trong sáng để nuôi dưỡng nền văn hóa, chúng ta có thể quên cách chúng ta cầm đũa để ăn nhưng không thể quên tiếng Việt và hãy gìn giữ cho miền đất văn hóa này ngày càng trong sáng.
Bài văn nghị luận Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước (mẫu 7)
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên thế giới phân biệt với nhau là nhờ các yếu tố: lãnh thổ, chế độ chính trị, văn hóa,… Trong đó yếu tố đóng vai trò quan trọng không kém các yếu tố chủ yếu khác như lãnh thổ hay văn hóa chính là ngôn ngữ, là tiếng mẹ đẻ. Trong những ngôn ngữ trên thế giới, tiếng Việt có lẽ là thứ ngôn ngữ phong phú nhất, trong sáng nhất. Tuy nhiên hiện nay vẻ trong sáng ấy của tiếng Việt đang dần bị đánh mất từng ngày.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục nhân dân phải làm cho tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại… Theo dòng cuốn của quá trình hội nhập thế giới, sự giao thoa văn hóa, xã hội đòi hỏi ngôn ngữ phải có những thay đổi để đáp ứng các nhu cầu giao tiếp mới. Vì thế từ khi nước ta bắt đầu hội nhập thì ngôn ngữ cũng dần dần xuất hiện những hiện tượng mới mẻ. Những từ ngữ mới, cách diễn đạt mới được hình thành để thêm vào những khái niệm, ngữ nghĩa mà trong vốn tiếng Việt trước đấy còn thiếu vắng, chẳng hạn trong lĩnh vực tin học, kỹ thuật số, sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường v.v… Cùng với mặt tích cực ấy, mặt tiêu cực cũng biểu hiện với không ít các cách nói, cách viết “khác lạ” làm mất đi hoàn toàn bản sắc vốn có của tiếng Việt.
Thực tế cho thấy, tiếng Việt hiện nay đang dần dần bị sử dụng sai về mọi mặt một cách cố ý. Từng chữ, từng âm, cách viết, cách đọc, chính tả… tất cả đều bị thay đổi một cách kì lạ mà các bạn trẻ vẫn biện minh theo suy nghĩ của chính mình là đa dạng hóa tiếng Việt, “dễ thương hóa” hay “teen hóa” tiếng Việt. Điều này rất dễ kiểm chứng, hãy thử lướt một vòng vào các diễn đàn (forum), các trang nhật ký các nhân (blog) hay đơn giản là tán gẫu hàng ngày (chat) xem, ta có thể thấy có bao nhiêu phần trăm là tiếng Việt, bao nhiêu phần trăm là tiếng gì đó (không thể định nghĩa được đó là thứ ngôn ngữ gì, nhiều bạn trẻ gọi là ngôn ngữ teen, ngôn ngữ 9X). Vào một diễn đàn của những “9X” nói trên, những cửa sổ chat, ta dễ dàng bắt gặp thứ ngôn ngữ ấy. Có rất nhiều quy tắc của ngôn ngữ 9X như: chữ c thay bằng k, gì thay bằng j, không thay bằng ko, rồi thay bằng ùi, oài, rùi, biết thay bằng pít, pk … rất nhiều quy tắc. Ngoài sự tự thay đổi cấu trúc tiếng Việt nói trên, còn là việc lạm dụng từ nước ngoài quá mức cần thiết. Điển hình như hiện tượng các phương tiện truyền thông thường xuyên dùng từ nước ngoài (hầu hết là tiếng Anh) trong khi tiếng Việt vẫn có đủ những từ diễn đạt được như: show (biểu diễn), live show (biểu diễn trực tiếp), nhạc classic (nhạc cổ điển), nhạc country (nhạc đồng quê), nhạc dance (nhạc nhảy), các fan (người hâm mộ)…
Ngoài nguyên nhân khách quan là do sự giao thoa văn hóa đã nêu trên, thì nguyên nhân chính vẫn là tâm lý “thích sành điệu, thích được xem là dân chơi” của đa phần giới trẻ. Cho dù có giỏi ngoại ngữ đến đâu mà không biết thể hiện đúng và nhuần nhị tiếng mẹ đẻ thì đã là điều đáng buồn rồi, huống chi, những bạn mới có chút ít vốn liếng ngoại ngữ đã tỏ ra ta đây, nói một câu tiếng Việt phải chêm vào vài tiếng Anh cho “oai”. Có người biện minh, đổ thừa tiếng Việt không đủ sức diễn đạt ngữ cảnh của lời nói, đó là một lời biện minh không thể chấp nhận. Bằng chứng là từ mấy trăm năm trước, tiếng Việt đã đủ tinh tế để làm nên tác phẩm bất hủ Truyện Kiều. Ngày nay, tiếng Việt đã đủ phong phú đến mức mọi giáo trình bậc đại học cũng như mọi công trình nghiên cứu đều có thể viết bằng tiếng Việt. Cũng có ý kiến nói đó là một cách thực hành ngoại ngữ, điều cần thiết của quá trình hội nhập. Nhưng đâu phải chúng ta không có điều kiện thực hành ngoại ngữ đến nỗi phải như vậy, ở những đô thị chúng ta có những lớp học ngoại ngữ, những cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài để rèn luyện ngoại ngữ một cách đúng chuẩn.
Nếu chỉ mải mê học ngoại ngữ và dùng ngoại ngữ mà coi nhẹ việc giữ gìn bản sắc và trau dồi tiếng Việt thì có thể đến một lúc nào đó, tiếng Việt không còn là niềm đáng tự hào về sự phong phú, tinh tế và sự trong sáng vốn có từ xưa. Cha ông ta đã hy sinh xương máu qua các cuộc chiến tranh để giành độc lập cho dân tộc, một phần xương máu ấy đã đổ xuống để giữ lấy sự độc lập, bản sắc nền văn hóa, trong đó có cả sự độc lập của tiếng Việt. Sử dụng tiếng Việt một cách không đúng đắn chính là thái độ vô ơn, vô cảm trước những hi sinh mất mát ấy. Vì thế, ngay từ bây giờ cần có ngay những biện pháp để giữ những phẩm chất đẹp của tiếng Việt. Trước hết là Nhà nước nên có quy định chặt chẽ và Viện Ngôn ngữ học phải có trách nhiệm đề xuất, xây dựng quy định chuẩn về việc dùng tiếng nước ngoài trong các văn bản, nhất là văn bản chính thức của nhà nước. Các trường học phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Các bạn trẻ cần phải tự nhận thức được niềm tự hào và ý thức dân tộc trong việc sử dụng tiếng Việt để tiếng Việt vẫn mãi đẹp, vẫn mãi phong phú, tinh tế, trong sáng như bản sắc vốn có từ lâu.
Tiếng Mẹ đẻ vốn là một đặc trưng sống còn của một dân tộc. Qua hàng mấy nghìn năm hình thành và phát triển, chúng ta có thể tự hào về sự phong phú và tinh tế của Tiếng Việt. Sử dụng đúng cách, giữ gìn bản sắc của tiếng Việt và góp phần làm cho nó ngày càng phong phú hơn là trách nhiệm nhưng cũng là điều tự hào của công dân Việt Nam, nhất là giới trẻ. Những người Việt Nam không biết trân trọng nó đã biến nó thành những ký hiệu, con số.
Chúng ta phải tự hào rằng tiếng Việt chính là thứ tiếng thiêng liêng đẹp đẽ nhất, và nó là nguồn gốc để khai sinh ra đất nước Việt Nam này. Chính vì thế, chúng ta hãy sử dụng tiếng Việt thật đúng ý nghĩa. Và đừng bao giờ đánh mất thứ tiếng đẹp đẽ đó. Xin trích dẫn bài thơ Tiếng Việt của nhà thơ Lưu Quang Vũ, để cùng cảm nhận tiếng Việt của ta thân thương đến nhường nào.
Bài văn nghị luận Yêu tiếng mẹ đẻ có phải là yêu nước (mẫu 8)
Như chúng ta đã biết, nước Việt Nam là một đất nước có truyền thống lịch sử rất lâu đời với hơn 4000 năm văn hiến. Cùng với các chặng đường phát triển của lịch sử, người Việt Nam đã tạo ra một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Và càng đáng tự hào hơn khi chúng ta có một vốn từ ngữ cho riêng mình. Như nhiều ngôn ngữ trên thế giới, trải qua quá trình gọt giũa tiếng Việt đã đạt được phẩm chất trong sáng, vì thế những yêu cầu giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cần phải được quan tâm thực hiện. Thế nhưng hiện nay, một số người đặc biệt là giới trẻ - thanh niên học sinh đã lạm dụng ngôn ngữ nước ngoài như một thói quen, một lối sống thời thượng.
Cùng với quá trình phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập các tổ chức quốc tế thì việc sử dụng ngoại ngữ (tiếng Anh) là rất quan trọng và cần thiết. Không ai có thể phủ nhận lợi ích vô cùng to lớn mà tiếng nước ngoài mang lại cho chúng ta. Bởi nó là phương tiện giúp chúng ta có thể hội nhập và phát triển với thế giới. Nhờ nó mà chúng ta dễ dàng trao đổi với người nước ngoài khi họ vào Việt Nam làm việc, kinh doanh,… Tuy nhiên nếu chúng ta sử dụng tiếng nước ngoài không đúng mục đích, không đúng hoàn cảnh thì chắc chắn sẽ gây tổn hại đối với tiếng mẹ đẻ của chúng ta.
Tiếng Việt có một hệ thống chuẩn mực, quy tắc chung về phát âm và chữ viết, cách dùng từ, đặt cậu,.. Nói hoặc viết đúng chuẩn mực, đúng quy tắc của tiếng Việt sẽ đảm bảo được sự trong sáng của lời nói. Sự trong sáng của tiếng Việt không cho phép dung nạp tạp chất. Do đó, tiếng Việt không cho phép pha tạp, lai căng, những yếu tố khác. Vậy mà thực tế hiện nay, ta có thể dễ dàng bắt gặp giới trẻ kết hợp cách nói hay viết giữa tiếng ta với tiếng nước ngoài theo kiểu “nửa nạc nửa mỡ”, họ sử dụng tiếng nước ngoài một cách tuỳ tiện, thiếu ý thức, trong một câu tiếng Việt thường chêm vào một vài từ nước ngoài. Chẳng hạn: “Trông con bé đó kute quá”, “Điện thoại sắp hết tiền rồi làm sao gọi cho honey đây”, “Anh ấy handsome thật!”, “Các superstar thích xài mobile loại xịn”, “Idol của tao kìa”, rồi nào là hotboy, hotgirl, …
Nếu tình trạng này không được ngăn chặn kịp thời thì sẽ dễ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Dễ thấy nhất là sự phong phú của tiếng Việt sẽ mất dần mà thay vào đó là sự nghèo nàn về phát âm, chữ viết, dùng từ, đặt câu, không chỉ có vậy nó còn phá vỡ luôn hệ thống chuẩn mực, quy tắc của tiếng Việt. Hãy thử hình dung đến một lúc nào đó, người Việt Nam sẽ xa rời chính tiếng mẹ đẻ của mình, làm cho nó bị pha tạp, lai căng làm mất đi bản sắc vốn có của tiếng Việt. Đó quả là một sự thật đáng buồn!
Chúng ta không thể hoàn toàn phủ nhận tiếng nước ngoài là sai. Trong cuốn Sửa đổi lề lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tiếng ta còn thiếu, nên nhiều lúc phải mượn tiếng nước khác, nhất là tiếng Trung Quốc nhưng phải có chừng mực. Tiếng nào ta sẵn có thì dùng tiếng ta”. Có nghĩa là chúng ta phải biết sử dụng tiếng nước ngoài cho phù hợp, đúng lúc, đúng nơi, đúng hoàn cảnh giao tiếp.
Chính vì vậy việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đang là công việc của tất cả mọi người đặc biệt là giới trẻ hiện nay. Chúng ta phải biết rằng tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của mình, vì vậy phải làm cho nó ngày càng phong phú, giàu đẹp hơn, phải biết phát huy tính văn hoá của dân tộc không nên làm mất đi vẻ đẹp và sự trong sáng của tiếng Việt, không nên quá lạm dụng tiếng nước ngoài nhưng vẫn cần tiếp nhận những yếu tố tích cực của tiếng nước ngoài. Đồng thời mỗi người cũng cần tránh những cách nói thô tục, kệch cỡm để cho lời nói đạt đến mức độ “lời hay, ý đẹp” và có văn hoá.
Mọi người đều biết đặc điểm nổi bật nhất để phân biệt vùng này vùng khác, tộc người này và tộc người khác không phải là quyền thế, không phải là vũ khí mà là ngôn ngữ, kể từ khi biết nói đến lúc chết đi chúng ta không thể tách rời khỏi tiếng mẹ đẻ.
Lời giải
Mẫu 1
Dân tộc Việt Nam có nhiều truyền thống tốt đẹp được gửi gắm qua những câu ca dao, tục ngữ. Một trong số đó là câu: “Uống nước nhớ nguồn” nhắc nhở con người về tấm lòng biết ơn trong cuộc sống. Câu tục ngữ được hiểu theo hai nét nghĩa. Với nghĩa đen, “uống nước” là thưởng thức dòng nước mát. Còn “nguồn” chính là nơi khởi đầu của dòng nước. “Uống nước nhớ nguồn” được hiểu là khi hưởng dòng nước mát thì hãy nhớ tới nơi khởi đầu đã cho ta dòng nước đó. Về nghĩa bóng “uống nước” được hiểu là hưởng những thành quả, thành tựu mà người khác tạo ra và “nhớ nguồn” chính nhớ tới những người đã tạo ra thành quả đó. Bất kì thành quả nào chúng ta được hưởng ngày hôm nay đều được tạo ra từ công sức của rất nhiều người. Bởi vậy mà chúng ta cần phải biết trân trọng, ghi nhớ công lao của họ. Dân tộc Việt Nam vốn trọng ơn nghĩa. Để tưởng nhớ về các thế hệ đi trước đã ngã xuống ta có ngày Thương binh liệt sĩ, tổ chức dâng hoa lên các nghĩa trang liệt sĩ để tưởng nhớ về những người có công với đất nước, thăm hỏi và tặng quà các gia đình chính sách, việc làm này cũng giúp phần nào họ nguôi ngoai đi nỗi đau mất mát người thân. Những thương binh, bệnh binh mất một phần hoặc toàn bộ sức lao động cũng được hưởng những chế độ ưu tiên đặc biệt, được Nhà nước chu cấp một phần về kinh tế, còn đối với gia đình liệt sĩ thì thân nhân của những liệt sĩ đó được hưởng chế độ này. Nhưng hiện nay, không ít người, đặc biệt là những bạn trẻ có lối sống vô ơn. Điều đó thật sự đáng lên án, tránh xa. Đối với học sinh cần – chủ nhân của đất nước hôm nay cần phải ghi nhớ câu tục ngữ trên. Chúng ta cần biết ơn ông bà, cha mẹ, thầy cô… – những người đã có công sinh thành, nuôi dưỡng hay dạy dỗ trong cuộc đời. Có thể khẳng định câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn” là một lời khuyên quý giá dành cho mỗi người. Tấm lòng biết ơn, nhớ về cội nguồn sẽ giúp chúng ta sống có ý nghĩa hơn.
Mẫu 2
Tục ngữ là một bộ phận trong kho tàng văn học dân gian, được xem là túi khôn của nhân loại, bời vì đó là những bài học trí tuệ sâu sắc của người xưa được đúc kết bằng những câu nói ngắn gọn, điển hình là câu tục ngữ: Uống nước nhớ nguồn. "Nguồn" là nơi xuất phát của dòng nước, mạch nước từ núi, từ rừng ra suối, ra sông rồi đổ ra biển cả mênh mông, không bao giờ cạn. "Nguồn" còn có thể hiểu là những người đã tạo ra thành quả về vật chất, tinh thần cho xã hội. Còn "uống nước" đó chính là sử dụng, đón nhận thành quả ấy. Câu tục ngữ nhằm khuyên nhủ chúng ta phải biết ơn những người đã tạo dựng thành quả cho mình trong cuộc sống. Thật vậy, trong cuộc sống, không có thành quả nào mà không có công lao của một ai đó tạo nên. Mặt khác, người tạo ra thành quả phải đổ mồ hôi công sức, thậm chí phải chịu phần mất mát hi sinh. Trong khi đó người thụ hưởng thì không bỏ ra công sức nào cả, vì lẽ đó chúng ta phải biết ơn họ. Đó là sự công bằng trong xã hội. Hơn nữa, lòng biết ơn sẽ giúp ta gắn bó với cha anh, với tập thể tạo ra một xã hội thân ái, kết đoàn. Cuộc sống sẽ tốt đẹp biết bao nêu truyền thống ấy được lưu giữ và xem trọng. Con người sống ân nghĩa sẽ được người khác quý trọng, được xã hội tôn vinh. Thật đáng chê trách cho những ai còn đi ngược lại với lẽ sống cao thượng ấy. Họ sống lạnh lùng, thờ ơ và vô ơn đối với những gì bản thân đang được hưởng, họ coi đó là những điều có sẵn, chỉ việc hưởng thụ. Lại có những người chạy theo lối sống phương Tây mà bỏ quên đi những truyền thống văn hóa dân tộc,… những người này đáng bị phê phán và chỉ trích. Qua việc sử dụng câu tục ngữ ngắn gọn, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh cụ thể mà ý nghĩa thật vô cùng sâu sắc, người xưa đã khuyên nhủ thế hệ đi sau phải biết nhớ ơn những ai đã tạo dựng thành quả cho mình trong cuộc sống. Mặc dù trải qua bao thăng trầm của thời đại, ý nghĩa câu tục ngữ trên vẫn sống mãi với thời gian.
Mẫu 3
Kho tàng văn học dân gian của ông cha ta để lại vô cùng phong phú và đa dạng. Một trong số những câu tục ngữ gây ấn tượng nhất mà người Việt Nam ta ai ai cũng biết đó là “uống nước nhớ nguồn”. Nguồn nghĩa đen là thượng nguồn, nơi bắt đầu của dòng sông, nghĩa bóng ở đây là cội nguồn, là tổ tiên, thế hệ đi trước của con người. Câu tục ngữ khuyên nhủ con người sống trong thời buổi hiện nay được hưởng nền độc lập, thành tựu thì phải luôn nhớ về và biết ơn thế hệ đi trước đồng thời có những hành động đền ơn đáp nghĩa, xây dựng xã hội phát triển hơn để thế hệ mai sau có điều kiện phát triển. Không có đất nước nào tự nhiên giàu đẹp, có sẵn những giá trị cốt lõi, tất cả là công sức lao động, sáng tạo của bao thế hệ đi trước, chúng ta phải biết ơn, trân trọng những thành tựu đó bằng những tình cảm tốt đẹp nhất và cố gắng học tập, lao động để xây dựng đất nước phát triển văn minh hơn. Tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” khơi gợi lòng biết ơn trong mỗi con người và lan tỏa tình cảm đó ra cộng đồng; tạo nên những thông điệp tích cực và truyền thống biết ơn giúp cho con người trong đất nước thêm đoàn kết, gắn bó với nhau hơn. Một đất nước mà con người hiểu, biết ơn những giá trị mà bản thân mình được hưởng sẽ là một đất nước phát triển bền vững trên cơ sở của lòng biết ơn, tinh thần đoàn kết. Bên cạnh đó vẫn còn có nhiều người sống vô ơn, người chạy theo lối sống phương Tây mà bỏ quên đi những truyền thống văn hóa dân tộc. Lại có những người coi những gì đất nước mình đang có là những điều có sẵn không cần phải cố gắng gây dựng, bảo vệ,… đây là những suy nghĩ lệch lạc mà chúng ta cần bài trừ. Mỗi người hãy là một công dân có ích cho xã hội và lan tỏa truyền thống uống nước nhớ nguồn ra bốn bể năm châu để cuộc sống này thêm tươi đẹp hơn.
Mẫu 4
Từ xa xưa, lòng biết ơn luôn được cha ông ta đề cao, phát huy như một truyền thống quý báu. Cùng với quan niệm trên, tục ngữ có câu “Uống nước nhớ nguồn”. Nghĩa hàm ẩn là khi chúng ta hưởng thụ bất cứ thành quả nào, dù là vật chất hay tinh thần, cũng phải nhớ đến công ơn người đã làm ra chúng. Ăn một bữa cơm no đủ phải nhớ đến người làm ra hạt gạo; mặc một chiếc áo ấm áp phải biết ơn người đã thêu dệt nên. Câu tục ngữ như một lời răn rất triết lý, rất nhân sinh, hướng con người trở nên hoàn thiện hơn. Bởi, lòng biết ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp nhất của con người. Người có lòng biết ơn sẽ luôn được yêu quý, trân trọng, họ sẽ nhận được sự giúp đỡ nồng nhiệt bất cứ khi nào họ gặp khó khăn. Người được biết ơn cũng sẽ cảm thấy vui vẻ, nhiệt tình hơn khi giúp đỡ, từ đó, các mối quan hệ giữa người và người cũng phát triển và ngày một khăng khít hơn. Khi chúng ta biết ơn quá khứ, trân trọng giá trị nguồn cội cũng là khi chúng ta đang làm giàu vốn văn hoá cho bản thân và góp phần bảo vệ văn hoá truyền thống của đất nước. Tuy nhiên với sự phát triển hiện đại như hiện nay, những giá trị truyền thống đang ngày càng mai một, một bộ phận giới trẻ ngày nay đang quay lưng với truyền thống, sống ích kỷ, chỉ biết cho riêng mình. Chính vào lúc này đây, truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” - truyền thống biết ơn cần phải được đề cao hơn nữa. Bởi không có những bài học quá khứ làm sao có được thành công trong hiện tại và tương lai? Vậy nên, hãy chắt chiu những giá trị tốt đẹp từ quá khứ bằng lòng biết ơn, nhưng cũng vừa nhìn vào tương lai một cách đầy tích cực và chiến đấu với thực tại thật nhiệt huyết.
Mẫu 5
“Uống nước nhớ nguồn” – câu tục ngữ tuy ngắn gọn, súc tích nhưng lại ẩn chứa một nét đẹp văn hóa quý báu của dân tộc. Thông qua các hình ảnh ẩn dụ: “nước, nguồn”, cha ông ta dặn dò con cháu phải trân trọng, biết ơn những người đã giúp đỡ hay tạo dựng thành quả để thế hệ trẻ hôm nay được hưởng thụ. Đây là một đạo lí hoàn toàn đúng đắn đối với mỗi con người bởi không gì tự nhiên mà có. Nhỏ bé như cây kim, viên thuốc hay lớn lao như nền hòa bình, độc lập ta đang tận hưởng, tất cả đều là bắt nguồn từ một quá trình lao động miệt mài và thậm chí là có cả sự hi sinh máu xương, tính mạng của thế hệ đi trước. Hiểu được điều này, xuyên suốt mạch nguồn bốn nghìn năm lịch sử, nhân dân ta đã sống trọn với đạo lí tốt đẹp của dân tộc. Bằng chứng là hiện nay, trên bước đường hội nhập quốc tế, những lễ hội có từ khi vua Hùng dựng nước vẫn được bảo tồn, những trang sử vàng son thời trung đại chưa bao giờ bị lãng quên, những gia đình chính sách, người có công với cách mạng luôn luôn nhận được sự quan tâm từ cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên vẫn còn đâu đó một số cá nhân có lối sống ích kỉ, chỉ biết hưởng thụ mà quên mất nguồn cội. Những người như vậy đáng bị lên án và phê phán. Như vậy tư tưởng “uống nước nhớ nguồn” mãi mãi là đạo lí mãi cuộn chảy trong trái tim các thế hệ người Việt hôm nay và mai sau. Bởi đó là kết kinh của đạo lí thủy chung, của tinh thần cộng đồng và cũng là nguồn gốc của sức mạnh dân tộc.
Mẫu 6
Lối sống uống nước nhớ nguồn là một lối sống đẹp mà chúng ta cần gìn giữ, phát huy. Đó là câu nói khuyên nhủ con người cần biết đến cội nguồn, cần trân trọng và biết ơn những người đã giúp đỡ mình. Đó là thái độ sống đúng đắn, tốt đẹp. Có thể nói, nó được biểu hiện qua từng hành động, việc làm nhỏ như sự ghi ơn công lao của cha mẹ, thầy cô, những anh hùng đã hi sinh, đã dâng hiến tuổi xuân để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc mình. Lối sống uống nước nhớ nguồn đơn giản chỉ là một lời cảm ơn chân thành, một sự ghi tạc công lao sâu sắc mà ai ai trong chúng ta cũng có thể khắc ghi. Chính truyền thống đạo lí tốt đẹp này đã giúp cá nhân thêm hoàn thiện mình, thêm nhận thức và phát triển bản thân một cách toàn diện hơn. Thông qua sự gắn kết giữa người với người ấy mà xã hội của chúng ta là xã hội của lòng biết ơn và trắc ẩn. Tình yêu thương trở thành sợi dây gắn kết con người và con người trong xã hội. Tuy vậy thực tế cuộc sống không phải ai cũng giữ được truyền thống đạo lí tốt đẹp này mà họ thường vô ơn, sống thiếu nghĩa tình phản bội lại quá khứ đẹp tươi. Con người sẽ không bao giờ có thể hoàn thiện mình nếu cứ sống đầy vô tâm như thế! Uống nước nhớ nguồn, bạn và tôi ,chúng ta hãy cùng phát huy và nỗ lực nhé!
Mẫu 7
Lối sống " uống nước nhớ nguồn" chính là đạo lí của dân tộc ta từ lâu đời. Mượn hình ảnh ẩn dụ, câu tục ngữ đã gợi lên cho người đọc về lối sống biết ơn, thủy chung, có trước có sau. Lòng biết ơn là ghi nhớ công lao của người có công với mình, giúp đỡ mình, làm ra thành quả cho mình hưởng thụ. Cần phải có lòng biết ơn vì không có cái gì tự nhiên mà có: biết ơn cha mẹ, thầy cô, người có công với nước, người làm ra sản phẩm cho ta hưởng thụ. Phải biết biểu hiện lòng biết ơn ra bên ngoài bởi lẽ đôi khi người giúp đỡ ta không mong nhận lại sự đền đáp nhưng có lẽ sâu trong tâm hồn họ vẫn muốn chúng ta ý thức được điều đó. Trước hết sự biết ơn được thể hiện qua lời nói. Một lời cảm ơn chân thành rất nhẹ nhàng nhưng cũng đủ để lại ấn tượng sâu sắc. Không những thế, biết ơn còn thể hiện qua các hành động, qua tư tưởng, tình cảm, qua các hành vi đền đáp. Sự đền đáp dẫu đến bằng vật chất hay tinh thần đều chứng tỏ rằng người được giúp luôn ghi nhớ công lao của người đã giúp đỡ mình. Trong cuộc sống ngày nay, sự biết ơn cha mẹ có thể biểu hiện các hành động chăm sóc, hỏi han sức khỏe. Sự biết ơn với dân tộc có thể được thể hiện thông qua các hành động đền ơn đáp nghĩa vào các ngày 27/7, chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đồng thời là luôn có ý thức giữ gìn và bảo vệ độc lập dân tộc. Lối sống biết ơn nên được thể hiện qua cả hành động và lời nói.
Mẫu 8
Người Việt Nam ta từ xưa đến nay được biết đến với nhiều phẩm chất, đức tính tốt đẹp khác nhau, trong đó phải kể đến truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. “Nguồn” được hiểu là thượng nguồn, nơi bắt đầu của dòng sông, nghĩa bóng ở đây là cội nguồn, là tổ tiên, thế hệ đi trước của con người. Câu nói mang ý nghĩa khuyên nhủ con người được hưởng nền độc lập, những thành tựu bây giờ thì phải luôn nhớ về và biết ơn thế hệ đi trước đồng thời có những hành động đền ơn đáp nghĩa, xây dựng xã hội phát triển hơn để thế hệ mai sau có điều kiện phát triển. Việc “nhớ nguồn” được biểu hiện ở sự biết ơn, trân trọng những thành tựu của thế hệ trước để lại cho mình bằng những tình cảm tốt đẹp nhất. Bên cạnh đó là tinh thần cố gắng học tập, lao động để có cuộc sống tốt đẹp và xây dựng đất nước phát triển văn minh hơn; gây dựng một tương lai tươi sáng cho thế hệ mai sau. Việc nhớ đến công lao của người đi trước mang đến cho cuộc sống con người nhiều ý nghĩa quan trọng: khơi gợi lòng biết ơn trong mỗi con người và lan tỏa tình cảm đó ra cộng đồng; tạo nên những thông điệp tích cực và truyền thống biết ơn. Nó giúp cho con người trong đất nước thêm đoàn kết, gắn bó với nhau hơn; đồng thời góp phần xây dựng cho con người những đức tính quý báu. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện nay vẫn còn có nhiều người sống lạnh lùng, thờ ơ và vô ơn đối với những gì bản thân đang được hưởng, họ coi đó là những điều có sẵn, lại có những người chạy theo lối sống phương Tây mà bỏ quên đi những truyền thống văn hóa dân tộc,… những người này đáng bị phê phán và chỉ trích. Là một con dân Việt Nam, mỗi chúng ta cần có trách nhiệm giữ gìn và phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc đồng thời khắc ghi phẩm chất “Uống nước nhớ nguồn”.
Mẫu 9
Đất nước chúng ta có một kho tàng văn học, trong đó tục ngữ là những bài học trí tuệ sâu sắc được đúc kết từ những kinh nghiệm sống của ông cha ta. Lời khuyên nhủ ấy được thể hiện trong câu tục ngữ đơn giản nhưng giàu ý nghĩa: “Uống nước nhớ nguồn.” Câu tục ngữ này là một lời nói ẩn dụ mà tổ tiên đã để lại nhằm khuyên nhủ chúng ta phải biết ơn đến những công lao mà người khác đã bỏ sức ra để cho mình có cuộc sống ấm no hôm nay. Trong xã hội, lòng biết ơn được biểu hiện bằng những việc cao đẹp như tục thờ cúng ông bà tổ tiên thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của con cháu đối với các bậc sinh thành đã có công dưỡng dục chúng ta nên người. Ngoài ra trong cuộc sống còn có những người sống cá nhân, ích kỉ, chỉ biết nhận lấy mà không biết ơn, họ tự tách mình ra khỏi các quy luật của đời sống, tách biệt với cộng đồng. Thậm chí là chà đạp lên các thành quả lao động do người khác để lại. Những người như thế thật đáng phê phán và chê trách. Là học sinh, em sẽ cố gắng phấn đấu học tập để không phụ lòng ba mẹ và thầy cô đã dạy dỗ. Là thế hệ sau của đất nước, em sẽ cố gắng giữ gìn đức tính này để nó phát triển ngày càng lớn hơn nữa.
Mẫu 10
''Uống nước nhớ nguồn'' là câu tục ngữ đã được cha ông ta nói để cho thế hệ con cháu như chúng ta bây giờ có thể trở thành một người con một người công dân tốt, một phần là do đức tính nhớ ơn đó. ''Uống nước nhớ nguồn'' theo tôi nghĩ thì nó có nghĩa là chúng ta là thế hệ con cháu thì cháu phải biết ơn những thành phẩm mọi thứ ở hiện tại như: chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp là một người tốt cho xã hội là nhờ công ơn của cha mẹ chúng ta đã dưỡng dục chúng ta nên người; có một thế giới hòa bình như bây giờ là nhờ sự hi sinh của các chiến sĩ đã anh dũng sông pha lên chiến trường để diệt các thành phần ác độc đã tàn phá sự sống, làm cho cuộc sống trở nên khắc nghiệt: và nhiều việc khác mà các cha ông đi trước đã để lại cho chúng ta. Vì thế sự biết ơn các thành quả của người khác cho mình là vô cùng quan trọng, ngày nay thế hệ con cháu chúng ta đang biết ơn bằng các hành động tốt đẹp và nó đã trở thành truyền thống của chúng ta như việc chúng ta thắp hương để tưởng nhớ ông bà, các chiến sĩ. Nhưng ở hiện tại vẫn có một số thành phần đang ''Ăn cháo đá bát'' những người đó chỉ hưởng thụ những thứ mà những người đi trước để lại, họ đã phải bỏ biết bao mồ hôi và công sức của họ cho chúng ta mà những thành phần đó đã không biết ơn lại còn không coi trọng các của cải ấy. Nên bây giờ chúng ta cần khuyên ngăn và phê phán những hành động xấu đó.
Ông cha ta có câu “Uống nước nhớ nguồn” nói đến bài học về lòng biết ơn. Xét về nghĩa đen, “uống nước” là uống, thưởng thức dòng nước mát; còn “nguồn” chính là nơi khởi đầu của dòng nước. Xét về nghĩa bóng, “uống nước” là hưởng những thành quả, thành tựu mà người khác tạo ra và “nhớ nguồn” là biết ơn, nhớ tới những người đã tạo ra thành quả đó. Từ đó, câu tục ngữ nhằm khuyên nhủ con người sống cần có lòng biết ơn, trọng tình nghĩa. Chúng ta cần hiểu rằng mọi thành quả mà con người được hưởng đều được tạo ra từ mồ hôi, công sức lao động. Bởi vậy mà con người cần sống có lòng biết ơn. Và nhờ có lòng biết ơn, con người cũng biết trân trọng mọi thứ trong cuộc sống hơn. Từ đó, bản thân luôn cố gắng phấn đấu để trở thành một người có ích cho xã hội. Đồng thời, mọi người sẽ cảm thấy yêu mến, trân trọng bạn nhiều hơn. Có thể thấy, những câu tục ngữ tuy ngắn gọn, nhưng lại chứa đựng lời khuyên sâu sắc, giá trị.
Lời giải
Dàn ý nghị luận Cần biết sống vì người khác
I. Mở bài:
Giới thiệu vấn đề: Bàn về hạnh phúc, có ý kiến cho rằng: “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý”.
II. Thân bài:
– Cắt nghĩa:
· “Cuộc sống” là toàn bộ quá trình sống, nơi con người tham gia gây dựng và phát triển bản thân mình.
· “Cuộc sống vì người khác” nhấn mạnh đến mục đích sống cao đẹp khi hướng đến sự sẻ chia, giúp đỡ, làm những điều tốt đẹp cho người khác.
· “Đáng quý” là sự trân trọng, đề cao của những người xung quanh với những hành động vì người khác.
–> Câu nói “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý” đã khẳng định giá trị đích thực của cuộc sống, ngọn nguồn của hạnh phúc lớn lao, đó là cuộc sống không chỉ cho mình mà còn vì người khác.
– Trong cuộc sống, con người cần biết sẻ chia, sống cho người khác để mang đến cuộc sống hạnh phúc không chỉ cho mình mà còn cho những người xung quanh.
– Nếu chỉ biết sống cho mình mà không quan tâm đến những người xung quanh, con người sẽ bị biệt lập, ngăn cách với xã hội.
– Sống là cho đi, khi chúng ta có ý thức sẻ chia chúng ta không chỉ giúp đỡ được những người xung quanh mà còn làm cho mối quan hệ trở nên khăng khít.
– Khi sống vì người khác, con người trở nên bao dung, vị tha hơn.
– Sống vì người khác không chỉ mang đến những điều tốt đẹp cho bản thân mà còn mang đến hạnh phúc cho người khác.
III. Kết bài:
- Để cùng gây dựng lên một xã hội vững mạnh, để tìm được hạnh phúc, cảm nhận được ý nghĩa đích thực của cuộc sống, hãy sống yêu thương, hãy “để gió cuốn đi” những tình cảm chân thành, nhân ái để gieo lên những sự sống, hy vọng cho những người khó khăn, bất hạnh.
Bài văn mẫu số 1
Mỗi người sinh ra trên đời đều có một sứ mệnh được thượng đế định sẵn được mang tên là số phận. Con người luôn tự hỏi làm sao để hoàn thành tốt sứ mệnh đó trong kiếp phù dung ấy, làm sao để họ có một cuộc sống ý nghĩa và tốt đẹp hơn? Có lẽ câu trả lời ở ngay trước mắt ta thôi: "Chỉ có sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý".
Ta biết rằng tạo hóa luôn có sự quân bình, vạn vật đều có một sự sống, giống như con người được sinh ra và họ tự chọn một cuộc sống cho riêng mình. Có người muốn cuộc sống giàu sang, có người muốn một cuộc sống đầy những phiêu lưu và có người lại chỉ muốn sống một cuộc sống vị tha, lương thiên, một cuộc sống giản dị mà đáng quý. Vì sao người ta lại nói rằng sống vì người khác là một cuộc sống đáng quý? Bởi lẽ, trong sâu thẳm mỗi con người đều có một chữ thiện, chữ thiện dẫn dắt chúng ta làm những điều tốt đẹp trong cuộc sống, khiến ta biết yêu thương đồng loại, sẻ chia và giúp đỡ những người khó khăn. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người dù bị che mắt bởi những bức màn đen tốt thì cái thiện trong họ vẫn tồn tại mà không bị mất đi. Và lẽ dĩ nhiên, khi con người sống luôn vì người khác với đức hy sinh cao cả thì cuộc sống của họ luôn được xã hội trân trọng.
Ta vốn biết rằng, một quần thể xã hội được tạo nên bởi nhiều cá nhân, một các nhân không thể nào thay thế cho cả một tập thể. Mà một tập thể được gắn kết rất chặt chẽ giữa con người và con người. Khi một cá nhân gặp vấn đề nào đó, thì lẽ dĩ nhiên, cả quần thể sẽ bị ảnh hưởng. Nếu mỗi chúng ta cứ sống vị kỷ, sống chỉ riêng bản thân mình thì mối liên kết chặt chẽ bao đời ấy sẽ bị tan rã tức khắc, xã hội sẽ trở nên rời rạc và kém phát triển hơn. Vả lại sống một cuộc sống vì người khác sẽ mang lại nhiều ích lợi cho bản thân và cả mọi người. vforum.vn Khi sống vì những người xung quanh, lương tâm của bản thân sẽ ngày càng được rèn luyện và trở nên trong sáng, dần dần sẽ tước bỏ những nhỏ nhen và ích kỉ tiềm tàng sâu trong nội tâm. Mang lại niềm vui cho người khác cũng chính là mang lại sự hạnh phúc và giá trị cho cuộc sống của mình. Đối với những người xung quanh, khi nhận được sự quan tâm sẽ chia một cách chân thành, họ sẽ giải quyết được những khó khăn trước mắt và có thêm niềm tin vào con người và cuộc sống. Chỉ khi ấy, xã hội mới trở nên tốt đẹp, bền vững và phát triển không ngừng.
Vậy chúng ta phải làm gì để có một cuộc sống đáng quý? Trước hết bản thân mỗi người hãy tự tu dưỡng đạo đức và tâm hồn của mình. Hướng cho tâm mình đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất như: giúp đỡ một bà cụ qua đường, chỉ đường cho em nhỏ lạc đường, hãy nhặt những chiếc lon bỏ lại nơi công cộng để giúp cô lao công bớt đi phần nào mệt nhọc, chỉ vậy thôi, có lẽ cuộc sống của chúng ta đã trở nên ý nghĩa hơn từ những điều nhỏ nhất.
Ngược lại trong xã hội hiện nay có những kẻ luôn có lối sống vị kỷ, nhỏ nhen, những kẻ có thể vì lợi ích của các nhân mà chà đạp lên giá trị của người khác, khiến người khác đau khổ. Những kẻ như vậy chúng ta cần phải lên án gay gắt và giải quyết triệt để hơn. Suy cho cùng, mỗi người nên có ý thức, tấm lòng và niềm tin, tin rằng khi ta sống vì người thì sẽ có người khác sống vì mình, chỉ khi ấy cuộc sống mới đáng quý, đáng được trân trọng.
Tóm lại, giá trị của cuộc sống mỗi người được tạo ra bởi nhiều cách khác nhau, mỗi cuộc sống là một sắc màu. Chỉ có bạn mới tạo ra những màu sắc tươi sáng cho chính cuộc sống của bạn.
Bài văn mẫu số 2
Con người sinh ra trên cuộc đời này không phải chỉ là những thực thể tồn tại mà là những cá thể “sống”. Nhưng câu hỏi đặt ra muôn thuở cho sự sống ấy của con người đó là sống thế nào để đáng quý nhất và câu trả lời đó chính là “Chỉ có sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý".
Nếu coi thế giới là một dạng vật chất thì mỗi con người là một hạt phân tử bé nhỏ tồn tại thống nhất và hỗ trợ lẫn nhau trong sự tồn tại của vật chất to lớn ấy. Con người từ khi sinh ra đã có những ràng buộc nhất định về mối quan hệ với những người xung quanh. Chúng ta không độc lập riêng rẽ mà tồn tại, chúng ta sống và dung hòa trong các mối quan hệ ấy. Và vì vậy, từ khi sinh ra con người đã định là không thể sống như cách loài thú sống theo bản năng, hành động vì mục đích sinh tồn của bản thân mình. Con người không thể sống chỉ vì bản thân mình mà còn sống vì người khác. Nếu sống cho riêng mình tức là vì mục đích của một cuộc đời riêng tư, muốn thỏa mãn nhu cầu riêng của bản thân mình và không hề nghĩ đến người khác. Đó là lối sống ích kỉ, sống chỉ biết ôm khư khư lấy quyền lợi về bản thân mình hay sống một cách buông thả chỉ để thỏa mãn bản thân mình. Một cuộc sống như vậy không bao giờ có thể tạo ra những giá trị quý giá cho con người, cho xã hội, không thể khiến cho xã hội phát triển, con người sống tốt đẹp hơn. Một cuộc sống ích kỉ như vậy thì không phải là một cuộc sống đáng trân trọng. vforum.vn Cuộc sống đáng trân trọng phải là cuộc sống vì người khác, hướng tới những giá trị xã hội nhân văn tốt đẹp, một cuộc sống quan tâm đến hạnh phúc của mọi người, sống không chỉ để cho mình mà còn là cho người, làm nên những giá trị tốt đẹp cho người khác. Và đây là cuộc sống mà xã hội đáng giá cao bởi không phải ai cũng có đủ tấm lòng để có thể sống vì người khác, gạt bỏ những vị kỷ cá nhân để tạo nên những giá trị tốt đẹp cho con người, cho xã hội.
Sống vì người khác thực ra không phải là điều gì quá cao xa với khả năng của mỗi chúng ta. Mỗi chúng ta đều có thể giúp đỡ một người nào đó theo khả năng của mình, đem những giá trị tốt đẹp đến cho xã hội bằng cách sống có ích, sống tử tế trong cuộc đời này. Những điều ấy góp phần làm cho xã hội tốt đẹp hơn đồng thời cũng làm cho bản thân mình sống hạnh phúc hơn.
Thử tưởng tượng nếu xung quanh ta toàn là những con người ích kỷ, chỉ biết sống vì mình, không bao giờ chú ý hay coi trọng thái độ hay hạnh phúc của những người xung quanh thì cuộc sống quanh ta sẽ ngột ngạt, chán ngán bao nhiêu? Và nếu thế giới chỉ toàn là những con người như vậy thì có lẽ sẽ chẳng bao giờ có khái niệm về tình yêu thương ra đời và khi ấy, trên thế giới hoàn toàn mất đi gắn kết vì mỗi người chỉ lo cuộc sống riêng của mình và không bao giờ chịu hy sinh hay sống vì người khác. Một thế giới như vậy thật tù đọng, thiếu tình người. Đã từng có một câu nói: “Người hạnh phúc nhất là người mang lại hạnh phúc cho nhiều người nhất”, phải chăng cuộc sống mà khiến cho con người cảm thấy thỏa mãn nhất không phải là cuộc sống chạy theo nhu cầu cá nhân mình mà là một cuộc sống có thể đem lại những giá trị tốt đẹp cho người khác? Tuy nhiên, con người chúng ta cũng là một bản thể riêng biệt, mỗi người đều có những sứ mệnh và hành trình cuộc đời riêng, không thể lúc nào cũng mãi sống vì người khác mà có đôi khi cần sống cho chính bản thân mình nữa.
Ngay hôm nay, hãy khiến cho cuộc sống của mình đáng quý bằng cách gạt bỏ lòng vị kỷ và sống vì người khác. Và một ngày kia ta sẽ nhận ra ta đã sống những ngày tháng thật đáng trân trọng và sẽ chẳng bao giờ hối hận vì mình đã từng sống vị tha.
Bài văn mẫu số 3
Không phải tất cả chúng ta đều có thể làm được những điều vĩ đại. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể làm những điều nhỏ nhặt với tình yêu vĩ đại. Đó là biết sống vì người khác. Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác, nhưng nó cũng trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn. Cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý, đáng trân trọng và tôn vinh.
Cuộc sống là tổng thể nói chung những hoạt động trong đời sống của một con người hay một xã hội. Cuộc sống vì người khác là cuộc sống mà ở đó con người dành nhiều sự quan tâm, tình cảm, những chăm lo về vật chất, tinh thần cho người khác, biết chấp nhận cả những thiệt thòi, thua kém để người khác có được niềm vui, hạnh phúc, thành công. Cuộc sống đáng quý là cuộc sống tốt đẹp, được đánh giá cao, được ngưỡng mộ, tôn vinh bởi những giá trị, lợi ích mà nó đem lại. Câu nói đề cao và khẳng định giá trị của cách sống, lối sống “vì mọi người”, biết quan tâm, chăm lo, chia sẻ với người khác.
Người biết sống vì người khác là người luôn tỏ rõ sự quan tâm, chăm lo đến cuộc sống của người khác, cả vật chất lẫn tinh thần. Họ luôn sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ, động viên, chia sẻ. Họ cũng là người có tấm lòng vị tha, độ lượng, bao dung mỗi khi người đó mắc lỗi. Người sống vì người khác không bao giờ tranh đoạt, hơn thua, họ sẵn sàng chấp nhận những thiệt thòi, thua thiệt của bản thân vì quyền lợi, niềm vui, hạnh phúc của người khác.
Thông thường ta sống vì những niềm vui, hạnh phúc, quyền lợi mà người ta có được. Tức là vì bản thân mình. Ta cũng sống vì những trách nhiệm, nghĩa vụ mà mỗi người phải thực hiện trong cuộc đời. Tức là sống vì người thân, vì cộng đồng, quê hương, dân tộc, tổ quốc.
Thế giới này được tạo nên bằng sự gắn kết của các cá nhân trong các quan hệ và bằng những ràng buộc. Người ta sinh ra đã có sợi dây gắn kết và ràng buộc với những người thân trong gia đình. Tham gia vào các tổ chức, con người lại có thêm các quan hệ chi phối qua lại khác nữa. Và dù ý thức hay không ý thức, dù muốn hay không muốn, một khi đã là thành viên của xã hội, anh không thể tách rời các mối liên kết cộng đồng.
Tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau là phẩm đức cao quý trong truyền thống của dân tộc ta. Tinh thần ấy giúp chúng ta mở rộng tầm nhìn với tình nhân ái. Thay vì chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ vì bản thân mình mà hướng đến và biết sống vì người khác.
Thế giới này được tạo nên từ sự gắn kết của các cá nhân trong các quan hệ và bằng những ràng buộc. Mỗi cá nhân chỉ có thể sống tốt nhất khi có sự ủng hộ và giúp đỡ, chia sẻ của những cá nhân khác và ngược lại. Khi sống vì người khác thì nhân cách cá nhân hoàn thiện hơn. Nếu sống chỉ biết lo nghĩ cho bản thân, không vì người khác thì sẽ bị mọi người khinh bỉ, coi thường.
Cuộc sống vì người khác sẽ đem lại những điều tốt đẹp cho bản thân, người khác và xã hội. Với bản thân: Có được niềm vui, niềm hạnh phúc chân chính. Với người khác: Cuộc sống của họ sẽ trở nên tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Với xã hội: Tạo nên một môi trường tốt đẹp, nhân ái.
Cuộc sống rất cần phải nương tựa vào nhau và luôn luôn chia sẻ bởi không phải ai cũng mạnh mẽ và không phải lúc nào cuộc sống cũng thuận lợi. Tinh thần giúp đỡ người khác là phẩm chất tốt đẹp và cần biến thành hành động. Giúp đỡ người khác là biết cho đi, biết đặt lợi ích của người khác, của tập thể cao hơn lợi ích cá nhân. Khi bạn giúp đỡ người khác, giá trị cuộc sống của bạn sẽ được nâng lên rất nhiều.
Để sống vì người khác, mỗi cá nhân cần quan tâm đến những cá nhân khác để có thể chia sẻ, giúp đỡ, đem lại niềm vui cho họ. Vì người khác không có nghĩa là đáp ứng đòi hỏi vô lý của người khác. Nên biết rằng cho đi là mãi mãi. Khi gieo mầm thiện nhất định sẽ có được quả lành. Những gì ta đã cho đi nhất định sẽ mang về một giá trị cho ta ở tương lai.
Ở thời đại nào cũng thế, mỗi cá nhân đều không thể đơn độc tồn tại. Một người thường chỉ có thể có được cuộc sống tốt nhất khi có sự giúp đỡ, ủng hộ, chia sẻ từ các cá nhân khác. Hơn thế nữa, giữa một thế giới đầy biến động, phức tạp và khó lường như ngày nay, với những hiểm họa từ thiên nhiên và từ chính đời sống xã hội, việc một ai đó sống đơn độc còn đồng nghĩa với tự diệt.
Khi sống vì người khác ta sẽ trở nên vị tha hơn, nhân ái, độ lượng hơn… qua đó tự hoàn thiện bản thân để trở thành người tốt. Khi sống vì người khác tức là ta đã giúp họ trở nên hạnh phúc hơn, cuộc sống của họ tốt đẹp hơn. Khi ấy ta cũng thấy hạnh phúc (“Người hạnh phúc nhất là người đem lại nhiều hạnh phúc cho người khác” – Mác) và thấy rằng cuộc sống của ta thật có ý nghĩa.
Khi sống vì người khác tức là ta đã góp phần tạo nên một môi trường sống tốt đẹp, tràn đầy tinh thần nhân văn, nhân ái. Cuộc sống chung sẽ trở nên tươi đẹp và đáng quý trọng hơn. Cuộc sống vì người khác là một cuộc sống cao cả, cao thượng, nhiều khi đòi hỏi con người phải chịu thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần, hi sinh những lợi ích của bản thân để đem lại niềm vui, hạnh phúc cho người khác. Điều này không phải ai cũng có thể làm được.
Câu nói là một lời khuyên sâu sắc bởi nó hướng con người tới lẽ sống cao đẹp, có ý nghĩa nhân văn; giáo dục con người ta sống có trách nhiệm, có lương tâm, rời xa lối sống ích kỷ, thói vô cảm; nói cổ vũ, đề cao tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình, tạo nên sợi dây gắn kết bền chặt giữa con người với con người trong xã hội.
Đạo lí ấy phù hợp với truyền thống đạo lý của người Việt Nam xưa cũng như nay: máu chảy ruột mềm, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách, bầu ơi thương lấy bí cùng, nhiều điều phủ lấy giá gương…
Tuy nhiên, sống vì người khác phải xuất phát từ trái tim chân thành, tấm lòng tự nguyện, nhu cầu thực sự chứ không nên theo kiểu giúp đỡ – trả ơn hay tỏ ra ban phát, bố thí. Vì người khác không có nghĩa là đáp ứng những đòi hỏi vô lý của người khác. Những việc làm vì người khác phải chính đáng, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng.
Cần điều chỉnh để tạo nên sự cân bằng giữa việc vì mình và vì người khác. Nếu chỉ vì mình, con người sẽ trở nên ích kỷ, nhỏ nhen, tầm thường. Nhưng nếu chỉ vì người khác, cuộc sống sẽ trở nên lệch lạc, mất thăng bằng. Bởi thế, cần quan tâm đến người khác nhưng cũng không nên quên bản thân. Đó là chưa kể sống có trách nhiệm với bản thân, chăm lo cho bản thân ngày một tốt đẹp cũng là một cách “sống vì người khác”.
“Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Có như vậy, cuộc sống mới yên bình, nghĩa tình và hạnh phúc. Phê phán những người sống hẹp hòi, ích kỷ, vô cảm. Luôn điều chỉnh để tạo sự cân bằng giữa cuộc. Cần vì mọi người song không có nghĩa là quên bản thân.
“Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý”. Người có bản lĩnh sẽ không bao giờ chọn lối sống ích kỷ, nhỏ nhen mà sẽ chọn lối sống có ý nghĩa hơn đó là biết vì người khác, vì cộng đồng. Sự giúp đỡ giữa người với người là điều then chốt giúp mỗi thanh niên tiến tới con đường thành công. Chỉ cần chúng ta có đủ nhiệt huyết, với trái tim bao dung chắc chắn cuộc sống quanh ta sẽ tốt lên từng ngày. Hãy yêu thương nhiều hơn, hãy trao đi nhiều hơn, bởi cho đi chính là làm giàu cho tâm hồn và khiến cuộc sống của mình trở nên ý nghĩa.
Bài văn mẫu số 4
Hạnh phúc không chỉ đến khi chúng ta được thỏa mãn những mơ ước, nhu cầu của bản thân mà hạnh phúc còn thêm ý nghĩa khi chúng ta biết cho đi, biết sống cho người khác. Bàn về hạnh phúc, có ý kiến cho rằng: “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý”.
“Cuộc sống” là toàn bộ quá trình sống, nơi con người tham gia gây dựng và phát triển bản thân mình. “Cuộc sống vì người khác” nhấn mạnh đến mục đích sống cao đẹp khi hướng đến sự sẻ chia, giúp đỡ, làm những điều tốt đẹp cho người khác. “Đáng quý” là sự trân trọng, đề cao của những người xung quanh với những hành động vì người khác. Câu nói “ Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý” đã khẳng định giá trị đích thực của cuộc sống, ngọn nguồn của hạnh phúc lớn lao, đó là cuộc sống không chỉ cho mình mà còn vì người khác.
Trong cuộc sống, con người cần biết sẻ chia, sống cho người khác để mang đến cuộc sống hạnh phúc không chỉ cho mình mà còn cho những người xung quanh. Cuộc sống xã hội là tổng hòa những mối quan hệ xã hội, trong đó con người không thể sống đơn độc mà được ràng buộc trong những mối quan hệ. Nếu chỉ biết sống cho mình mà không quan tâm đến những người xung quanh, con người sẽ bị biệt lập, ngăn cách với xã hội, khi ấy dù có giàu có, thành công con người cũng sẽ không cảm nhận được hạnh phúc, ý nghĩa đích thực của đời sống.
Sống là cho đi, khi chúng ta có ý thức sẻ chia chúng ta không chỉ giúp đỡ được những người xung quanh mà còn làm cho mối quan hệ trở nên khăng khít. Và hãy học cách cho đi, khi cho đi chúng ta sẽ nhận lại được những giá trị xứng đáng, đó có thể là tình cảm biết ơn, kính trọng, sự gắn bó, và sự giúp đỡ chân thành, thật tâm khi chúng ta cần sự giúp đỡ.
Khi sống vì người khác, con người trở nên bao dung, vị tha hơn. Phẩm chất và nhân cách con người cũng sẽ được hoàn thiện theo hướng tốt đẹp, chúng ta sẽ sống trong tình yêu thương, sự gắn bó, cuộc sống như vậy chẳng phải ý nghĩa lắm sao.
Nếu con người chỉ biết sống cho bản thân, vô cảm trước cuộc sống và sự khó khăn của người khác họ không chỉ trở nên ích kỷ, đáng coi thường mà mọi người xung quanh cũng sẽ coi thường và không ai muốn bắt đầu mối quan hệ gắn bó với người chỉ biết nghĩ đến mình.
Sống vì người khác không chỉ mang đến những điều tốt đẹp cho bản thân mà còn mang đến hạnh phúc cho người khác. Đối với bản thân, khi giúp đỡ người khác chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc chân chính, cảm nhận được giá trị đích thực của sự sống. Với những người nhận được sự giúp đỡ, cuộc sống của họ sẽ trở nên tốt đẹp hơn, đồng thời lòng tốt của chúng ta sẽ tiếp thêm sức mạnh tinh thần để họ mạnh mẽ vượt qua hoàn cảnh khó khăn, hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Nếu ai cũng có ý thức giúp đỡ, sẻ chia với người khác chúng ta sẽ cùng nhau gây dựng lên một xã hội vững mạnh, xã hội được gắn kết bằng tình thương, sự nhân ái.
Trong cuộc sống hiện đại, vẫn có rất nhiều người chỉ biết sống ích kỷ cho bản thân, thậm chí vì lợi ích của mình mà chà đạp lên người khác. Cũng có những người dửng dưng, vô cảm trước những số phận bất hạnh, những người kém may mắn đang cần được giúp đỡ.
Để cùng gây dựng lên một xã hội vững mạnh, để tìm được hạnh phúc, cảm nhận được ý nghĩa đích thực của cuộc sống, hãy sống yêu thương, hãy “để gió cuốn đi” những tình cảm chân thành, nhân ái để gieo lên những sự sống, hy vọng cho những người khó khăn, bất hạnh.
Bài văn mẫu số 5
Có ai đó nói rằng: “Người hạnh phúc nhất là người mang lại hạnh phúc cho nhiều người nhất”. Phải chăng câu nói ấy chính là một cách ngầm khẳng định rằng “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý”. Vậy chúng ta cần hiểu câu nói này như thế nào?
Trước tiên, ta cần giải nghĩa được “Cuộc sống” là toàn bộ quá trình sống với tổng thể các hoạt động của một con người. “Cuộc sống vì người khác” là cách sống của bản thân mình luôn hướng tới, làm những điều tốt đẹp cho người khác. “Cuộc sống đáng quý” là cuộc sống được mọi người, xã hội đánh giá cao. Từ đó, rút ra được ý nghĩa của câu nói: Cuộc sống có ý nghĩa, có giá trị là cuộc sống biết sống vì người khác.
Vậy vì sao cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý? Vì thế giới này được tạo nên từ sự gắn kết của các cá nhân trong các quan hệ và bằng những ràng buộc. Mỗi cá nhân không thể đơn độc tồn tại vì đơn độc đồng nghĩa với tự diệt, nhất là khi cuộc sống trở nên bất ổn với nhiều hiểm họa từ thiên nhiên cũng như đời sống xã hội. Mỗi cá nhân chỉ có thể sống tốt nhất khi có sự ủng hộ và giúp đỡ, chia sẻ của những cá nhân khác và ngược lại. Khi sống vì người khác thì cá nhân trở nên vị tha, nhân ái, có trách nhiệm, lương tâm hơn, tức là tự hoàn thiện nhân cách, đồng thời tạo nên những mối liên hệ tình cảm tốt đẹp với những cá nhân khác. Nếu sống chỉ biết lo nghĩ cho bản thân, không vì người khác thì sẽ bị mọi người khinh bỉ, coi thường, thậm chí không được ai quan tâm lại.
Cuộc sống vì người khác sẽ đem lại những điều tốt đẹp cho bản thân, người khác và xã hội. Với bản thân, có được niềm vui, niềm hạnh phúc chân chính vì tạo ra niềm vui niềm hạnh phúc cho người khác cũng là khẳng định giá trị sự sống của chính mình.Với người khác thì cuộc sống của họ sẽ trở nên tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, bớt khó khăn, đau khổ và cô đơn, có thêm niềm tin vào con người và cuộc sống. Với xã hội sẽ tạo nên một môi trường tốt đẹp, nhân ái để phát huy những giá trị người trong con người.
Để sống vì người khác, mỗi cá nhân cần quan tâm đến những cá nhân khác để có thể chia sẻ, giúp đỡ, đem lại niềm vui cho họ. Sự quan tâm cần được xuất phát từ trái tim chân thành, tấm lòng tự nguyện và nhu cầu thực sự, chứ không thể hiện như một sự ban ơn n bố thí. Nhưng vì người khác không có nghĩa là đáp ứng đòi hỏi vô lý của người khác. Những việc làm cho người khác phải đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng mới thực sự có ý nghĩa. Phê phán những người sống hẹp hòi, ích kỷ, vô cảm, chỉ biết bản thân mà không quan tâm, chia sẻ với đồng loại. Tuy nhiên cần điều chỉnh để tạo sự cân bằng giữa cuộc sống vì mình và cuộc sống vì người khác. Cần vì mọi người song không có nghĩa là quên bản thân. Nếu chỉ vì mình, con người sẽ trở nên ích kỷ, nhỏ nhen, tầm thường. Nếu chỉ vì người khác, cuộc sống sẽ trở nên mất cân bằng, lệch lạc. Cần vì mọi người song cũng cần có trách nhiệm với bản thân. Vì có trách nhiệm với bản thân và làm cho cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp cũng là đem lại niềm vui cho người khác.
Qua đây, ta nhận thức được vai trò quan trọng và ý nghĩa của cách sống vì người khác. Câu nói hướng người ta đến lẽ sống cao đẹp, có ý nghĩa nhân văn và lối sống vị tha, nhân hậu bởi lẽ nó cổ vũ, đề cao tư tưởng mình vì mọi người, nó giáo dục con người biết sống có trách nhiệm, có lương tâm. Bên cạnh đó, mỗi các nhân cần có những hành động đúng đắn, phù hợp, luôn quan tâm giúp đỡ bạn bè trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, giúp đỡ trong khả năng của bản thân; đồng cảm chia sẻ với những cảnh ngộ éo le trong cuộc sống.
Ở thời đại nào, con người cũng được cần quan tâm chia sẻ và yêu thương. Đó là nét đẹp truyền thống đạo lí của con người Việt Nam vốn luôn coi trọng chữ tình trong ứng xử. Hãy yêu thương nhiều hơn, hãy trao đi nhiều hơn, bởi cho đi chính là làm giàu cho tâm hồn và khiến cuộc sống của mình trở nên ý nghĩa. Bởi: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình".
Chúng ta biết nỗ lực hết mình để hoàn thiện bản thân là một điều rất tốt nhưng sẽ tuyệt vời hơn khi ta biết sống vì người khác dù chỉ là một chút. Sống vì người khác là cách sống yêu thương, chan hòa, biết sẻ chia, giúp đỡ những người xung quanh, những người gặp hoàn cảnh khó khăn. Sống vì người khác cũng là cách sống mà ta bỏ qua cái tôi của bản thân để vì lợi ích chung của cộng đồng. Sống vì người khác là một lối sống tích cực, tốt đẹp mà mỗi chúng ta cần học tập và rèn luyện. Trong xã hội có rất nhiều mảnh đời chịu bất hạnh, đau thương, khổ cực, việc chúng ta sống vì người khác sẽ thôi thúc ta có những hành động thiết thực để giúp đỡ, đùm bọc họ giúp cho cuộc sống của họ tốt đẹp hơn cũng như xã hội phát triển bền vững hơn, con người thêm gắn kết hơn, yêu thương hơn. Khi ta biết sống vì người khác là khi ta biết cho đi, người biết cho đi là người biết bỏ qua cái tôi nhỏ nhen của bản thân, những lợi ích cá nhân để hướng đến khối sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đây là nền tảng để giúp nước nhà thêm vững chắc hơn. Người sống vì người khác là những người luôn luôn giúp đỡ, muốn giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình; đồng thời sống yêu thương, chan hòa với những người xung quanh, không tính toán nhỏ nhen và luôn tìm cách lan tỏa những thông điệp tốt đẹp đến với mọi người. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay vẫn còn có nhiều người sống vì lợi ích cá nhâm vì tư lợi cá nhân sẵn sàng làm mọi việc để trục lợi. Lại có những người lạnh lùng vô cảm, lãnh đạm trước hoàn cảnh của người khác, của cuộc đời,… Những trường hợp này đều đáng chê trách và cần thay đổi bản thân mình, sống rộng lượng hơn và biết vì người khác hơn. Đất nước Việt Nam ta từ xưa đến nay luôn được biết đến với truyền thống yêu thương, giúp đỡ, đoàn kết. Là thế hệ tiếp bước những truyền thống đó, ngay từ bây giờ chúng ta hãy biết sống vì người khác để cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Mẫu 6
Giữa cuộc sống bộn bề lo âu, chúng ta rất cần nhưng yêu thương và sẻ chia, dù nó bình dị, nhỏ nhoi nhưng đó là một tấm lòng đáng trân trọng. Trao đi yêu thương để nhận lại yêu thương vốn dĩ là một quy luật trong cuộc sống. Đó vẫn là một mối quan hệ nhân quả mà bản thân mỗi người đều nhận ra.
Cho và nhận vừa hữu hình vừa vô hình, đó là một mối quan hệ cần phải trân trọng và gìn giữ. Chúng ta sẽ nhận lại được gì từ sự cho đi đó.
Vậy cho là gì và nhận là gì? Cho chính là sự san sẻ, giúp đỡ, yêu thương xuất phát từ tâm, từ tim của một người. Dù “cho” rất nhỏ, nhất đời thường nhưng đó là cả một tấm lòng đáng quý. Nhận chính là được đáp trả, được đền ơn. Cho và nhận là một mối quan hệ nhân quả nhưng ẩn chứa trong đó rất nhiều mối quan hệ tương trợ, bổ sung cho nhau.
Nếu ai nghe nhạc Trịnh chắc chắn sẽ nhớ câu “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi”. Đây là một triết lý mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, một tấm lòng đáng kính trong thiên hạ.
Biểu hiện của cho đi và nhận lại trong cuộc sống thực sự không hiếm. Mỗi người chúng ta hằng ngày đang cho đi nhiều thứ và nhận lại nhiều thứ mà đôi khi chính bản thân mình cũng không nhận ra được. Đó chính là điều kỳ diệu của cuộc sống này. Khi mỗi người sống tốt, sống có ích thì sẽ nhận lại được một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc. Đó chính là cho và nhận.
Ở xung quanh chúng ta luôn có rất nhiều mảnh đời cần sự sẻ chia, giúp đỡ, bao dung, rộng lượng. Họ cần chúng ta, cần sự san sẻ, sự chia ngọt sẻ bùi. Một miếng khi đói bằng một gói khi no là bởi vậy. Chúng ta trao đi yêu thương chúng ta sẽ nhận lại sự thanh thản và niềm vui trong tâm hồn. Dù cái chúng ta nhận lại không phải là vật chất, là những thứ hiển hiện, chỉ là niềm vui, là sự an nhiên mà thôi. Như thế là quá đủ rồi phải không.
Thực sự khi chúng ta trao đi hạnh phúc cho người khác, chúng ta mới cảm thấy rằng cuộc sống của mình thực đáng sống và đáng trân trọng. Có nhiều người làm từ thiện cả một đời, luôn luôn quan tâm đến những người nghèo khổ, mang những miếng cơm, những tấm áo chẳng còn lành lặn với một tấm lòng thực tâm. Họ có một chữ tâm rất lớn, họ trao đi tin yêu rất nhiều mà chẳng mong nhận lại điều gì. Nhưng bạn biết không hằng ngày họ vẫn đang nhận lại cái mà họ đã trao đi đó. Cuộc sống họ là một chữ "thiện” ở trong tim, họ thấy lòng mình thanh thản và bình an khi được làm những việc đó.
Bởi vậy những người đang cho đi, đôi khi sự nhận lại không phải trong phút chốc, cũng không hẳn nó sẽ hiển hiện ngay trước mắt. Điều bạn nhận lại có khi là cả một quá trình, sau này bạn mới nhận ra mình được đáp trả nhiều hơn cái cho đi đó.
Tuy nhiên bên cạnh những người luôn biết cho đi thì còn tồn tại rất nhiều người chỉ mong nhận lại, giữ khư khư những gì mình có mà không chịu cho đi. Đây là một thực tế rất đáng buồn. Lối sống này cần phải lên án, vì nó sẽ khiến cho bản thân họ trở nên ích kỷ và đáng ghét. Sự tính toán hơn thua, được mất của họ sẽ khiến cho họ càng ngày càng đánh mất đi chính bản thân mình.
Cho đi là điều mà chúng ta nên làm trong cuộc sống hằng ngày để nhận lại rất nhiều thứ về sau. Bạn sẽ thấy được điều kỳ diệu từ sự cho đi và nhận lại đó. Mỗi người, mỗi ngày hãy là một người biết san sẻ, biết giúp đỡ người khác để nhận lại sự tĩnh lặng và niềm vui trong cuộc sống.
Trong cuộc sống bộn bề lo âu, chúng ta phải luôn chia ngọt sẻ bùi để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Cuộc sống là sự sẻ chia giữa người với người. Nhất là trong cuộc sống ngày càng hiện đại, con người ta càng ngày càng ít quan tâm đến những người xung quanh, điều này lại càng quan trọng hơn. Trao yêu thương để nhận lại yêu thương là một quy luật tất yếu trong cuộc sống, phải cho đi để được nhận lại và nếu được nhận từ người khác thì phải biết cho đi. Đó là luật nhân quả giữa” cho và nhận” trong cuộc sống.
Vậy “cho và nhận” là hành động như thế nào. Đó là sự cho và nhận về vật chất chăng. Thực ra cũng không hẳn là thế. Chúng ta có rất nhiều thứ để cho và nhận cùng với những người xung quanh. Mọi người vẫn thường nói rằng “cho và nhận”, chứ không phải ”nhận và cho”. Cho được đề cập đến trước nhận, bởi việc cho được tất cả mọi người đánh giá cao hơn. Cho thật ra không phải là việc gì to tát, phải những con người vĩ đại, có tài sản vật chất mới có thể cho đi. Ai ai cũng có thể cho đi từ những thứ nhỏ nhất. Cho, có thể là cho đứa bạn đi nhờ xe. Cho, có thể là một chút tiền đặt vào thùng quyên góp cho người nghèo. Cho có thể là cho đi một cái ôm ai ủi khi người bên cạnh bạn tổn thương, đau khổ. Cho là rất nhiều điều trong cuộc sống này. Tuy rằng trong cuộc sống hiện đại nhiều bon chen, thế nhưng cũng có rất nhiều những nghĩa cử cao đẹp, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Hằng năm, mỗi khi mùa đông đến, các anh chị sinh viên tình nguyện lại gom áo ấm đem lên vùng cao tặng các em ở vùng núi khó khăn. Hay mỗi khi có lũ lụt thiên tai, cả nước lại cùng tay góp tiền để cứu giúp đồng bào chịu thiệt hại nặng nề. Tất nhiên, không phải khi nào sự sẻ chia cũng chỉ là những giá trị về vật chất. Đã từng có một câu chuyện rằng, khi một cô gái đang đi trên đường, gặp một người ăn xin. Cô lục lọi khắp người mà không tìm thấy gì để có thể cho ông lão. Cô lại gần và cầm tay ông lão giữa ngày đông giá rét, xin lỗi ông vì không có gì cho ông. Nhưng ông cụ đã nói rằng: "Cháu đã cho ông rất nhiều rồi”. Và cái cô gái cho ông lão, có lẽ ai cũng hiểu, đó là hơi ấm của tình người. Mỗi người trong chúng ta nhiều khi không thể lựa chọn số phận cũng như cuộc sống của mình. Vì vậy, sự sẻ chia là vô cùng cần thiết. Nó làm cho chúng ta cảm thấy ấm áp hơn, làm cho người với người gần nhau hơn. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta nên biết quan tâm, chia sẻ với những người xung quanh mình. Khi bạn bè có chuyện buồn, chúng ta nên hỏi thăm, động viên để bạn bớt buồn, cũng như cố gắng phấn đấu trong tương lai.
Cho và nhận phải luôn song hành với nhau trong cuộc sống, ta cho đi và ta cũng có quyền nhận lại. Cuộc sống luôn công bằng với tất cả chúng ta, ta cho đi tiền bạc ta nhận lại lòng kính trọng và biết ơn, ta cho đi nụ cười ta nhận lại nụ cười, ta cho đi lòng yêu thương ta nhận lại ấm áp. Cho đi không phải là khó nhưng cho đi phải thật lòng khi đó người nhận mới cảm thấy vui và thoải mái. Mọi người thường nói: cho đi là nhận lại gấp trăm lần bởi khi cho đi thì hạnh phúc và niềm vui của người ấy sẽ khiến mình vui lây và cảm thấy mọi thứ trở nên tươi đẹp hơn khi tạo ra sắc hồng cho cuộc sống. Cho và nhận trước hết là những cử chỉ cao đẹp của con người với con người. Cho và nhận khiến cuộc sống ấm áp hơn. Đối với những người ăn xin, một vài nghìn tiền lẻ cũng là một điều gì đó vô cùng to tát. Hay một nụ cười thân thiện với một con người đang rơi vào hoàn cảnh lạc lỏng là một hơi ấm sưởi ấm những trái tim cô đơn. Cuộc sống là vậy, cho đi thật ra vô cùng đơn giản, chẳng cần toan tính gì cứ thế cho đi đó chính là những điều chân thành nhất.
Trong cuộc sống của chúng ta, vẫn tồn tại những tấm lòng cao cả chỉ biết cho đi và không cần nhận lại một điều gì. Đó là các Mạnh Thường Quân gửi tiền quyên góp nhưng không để lại tên tuổi, đó là những người ngã xuống hi sinh thầm lặng để bảo vệ tổ quốc… Tuy nhiên, cũng có rất nhiều sống theo một lối sống ích kỉ, chỉ biết nhận mà không muốn cho. Họ không quan tâm đến chuyện gì, cũng như không quan tâm đến những người xung quanh. Trong cuộc sống, nếu con người ta cạnh tranh để sống thì cho đi không được hiểu theo cái nghĩa đơn thuần nữa mà nó giống như một sự trao đổi. Cho đi thì ít nhưng muốn nhận lại thật nhiều. Vì danh lợi, vì tiền tài, vì những thứ vật chất tầm thường mà họ bóp méo hai chữ cho và nhận theo đúng nghĩa của nó. Mỗi chúng ta phải biết cho đi như chính cái nghĩa của chúng, luôn phải xuất phát từ tấm lòng, từ tình thương.
Trong cuộc sống này, không phải ai cũng may mắn, vì vậy ai ai trong chúng ta cũng phải biết cho đi, hãy cho rồi hãy nghĩ đến việc nhận. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết: “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì, em biết không? Để gió cuốn đi…”. Sống trong cuộc sống này, mỗi người chúng ta cần phải biết quan tâm, giúp đỡ những người xung quanh. Phải cho đi rồi mới nghĩ đến chuyện nhận lại, trao yêu thương để nhận lại yêu thương sẽ làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Hãy cho đi rồi sẽ được nhận lại, không nhận gì thì cũng đã được cho.
Mỗi người sinh ra trên đời đều có một sứ mệnh được thượng đế định sẵn được mang tên là số phận. Con người luôn tự hỏi làm sao để hoàn thành tốt sứ mệnh đó trong kiếp phù dung ấy, làm sao để họ có một cuộc sống ý nghĩa và tốt đẹp hơn? Có lẽ câu trả lời ở ngay trước mắt ta thôi: “Chỉ có sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý”.
Ta biết rằng tạo hóa luôn có sự quân bình, vạn vật đều có một sự sống, giống như con người được sinh ra và họ tự chọn một cuộc sống cho riêng mình. Có người muốn cuộc sống giàu sang, có người muốn một cuộc sống đầy những phiêu lưu và có người lại chỉ muốn sống một cuộc sống vị tha, lương thiên, một cuộc sống giản dị mà đáng quý. Vì sao người ta lại nói rằng sống vì người khác là một cuộc sống đáng quý? Bởi lẽ, trong sâu thẳm mỗi con người đều có một chữ thiện, chữ thiện dẫn dắt chúng ta làm những điều tốt đẹp trong cuộc sống, khiến ta biết yêu thương đồng loại, sẻ chia và giúp đỡ những người khó khăn. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người dù bị che mắt bởi những bức màn đen tốt thì cái thiện trong họ vẫn tồn tại mà không bị mất đi. Và lẽ dĩ nhiên, khi con người sống luôn vì người khác với đức hy sinh cao cả thì cuộc sống của họ luôn được xã hội trân trọng.
Nếu coi thế giới là một dạng vật chất thì mỗi con người là một hạt phân tử bé nhỏ tồn tại thống nhất và hỗ trợ lẫn nhau trong sự tồn tại của vật chất to lớn ấy. Con người từ khi sinh ra đã có những ràng buộc nhất định về mối quan hệ với những người xung quanh. Chúng ta không độc lập riêng rẽ mà tồn tại, chúng ta sống và dung hòa trong các mối quan hệ ấy. Và vì vậy, từ khi sinh ra con người đã định là không thể sống như cách loài thú sống theo bản năng, hành động vì mục đích sinh tồn của bản thân mình. Con người không thể sống chỉ vì bản thân mình mà còn sống vì người khác. Nếu sống cho riêng mình tức là vì mục đích của một cuộc đời riêng tư, muốn thỏa mãn nhu cầu riêng của bản thân mình và không hề nghĩ đến người khác. Đó là lối sống ích kỉ, sống chỉ biết ôm khư khư lấy quyền lợi về bản thân mình hay sống một cách buông thả chỉ để thỏa mãn bản thân mình. Một cuộc sống như vậy không bao giờ có thể tạo ra những giá trị quý giá cho con người, cho xã hội, không thể khiến cho xã hội phát triển, con người sống tốt đẹp hơn. Một cuộc sống ích kỉ như vậy thì không phải là một cuộc sống đáng trân trọng. Cuộc sống đáng trân trọng phải là cuộc sống vì người khác, hướng tới những giá trị xã hội nhân văn tốt đẹp, một cuộc sống quan tâm đến hạnh phúc của mọi người, sống không chỉ để cho mình mà còn là cho người, làm nên những giá trị tốt đẹp cho người khác. Và đây là cuộc sống mà xã hội đáng giá cao bởi không phải ai cũng có đủ tấm lòng để có thể sống vì người khác, gạt bỏ những vị kỷ cá nhân để tạo nên những giá trị tốt đẹp cho con người, cho xã hội.
Sống vì người khác thực ra không phải là điều gì quá cao xa với khả năng của mỗi chúng ta. Mỗi chúng ta đều có thể giúp đỡ một người nào đó theo khả năng của mình, đem những giá trị tốt đẹp đến cho xã hội bằng cách sống có ích, sống tử tế trong cuộc đời này. Những điều ấy góp phần làm cho xã hội tốt đẹp hơn đồng thời cũng làm cho bản thân mình sống hạnh phúc hơn.
Vậy chúng ta phải làm gì để có một cuộc sống đáng quý? Trước hết bản thân mỗi người hãy tự tu dưỡng đạo đức và tâm hồn của mình. Hướng cho tâm mình đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất như: giúp đỡ một bà cụ qua đường, chỉ đường cho em nhỏ lạc đường, hãy nhặt những chiếc lon bỏ lại nơi công cộng để giúp cô lao công bớt đi phần nào mệt nhọc, chỉ vậy thôi, có lẽ cuộc sống của chúng ta đã trở nên ý nghĩa hơn từ những điều nhỏ nhất.
Ngược lại trong xã hội hiện nay có những kẻ luôn có lối sống vị kỷ, nhỏ nhen, những kẻ có thể vì lợi ích của các nhân mà chà đạp lên giá trị của người khác, khiến người khác đau khổ. Những kẻ như vậy chúng ta cần phải lên án gay gắt và giải quyết triệt để hơn. Suy cho cùng, mỗi người nên có ý thức, tấm lòng và niềm tin, tin rằng khi ta sống vì người thì sẽ có người khác sống vì mình, chỉ khi ấy cuộc sống mới đáng quý, đáng được trân trọng.
Thử tưởng tượng nếu xung quanh ta toàn là những con người ích kỷ, chỉ biết sống vì mình, không bao giờ chú ý hay coi trọng thái độ hay hạnh phúc của những người xung quanh thì cuộc sống quanh ta sẽ ngột ngạt, chán ngán bao nhiêu? Và nếu thế giới chỉ toàn là những con người như vậy thì có lẽ sẽ chẳng bao giờ có khái niệm về tình yêu thương ra đời và khi ấy, trên thế giới hoàn toàn mất đi gắn kết vì mỗi người chỉ lo cuộc sống riêng của mình và không bao giờ chịu hy sinh hay sống vì người khác. Một thế giới như vậy thật tù đọng, thiếu tình người. Đã từng có một câu nói: “Người hạnh phúc nhất là người mang lại hạnh phúc cho nhiều người nhất”, phải chăng cuộc sống mà khiến cho con người cảm thấy thỏa mãn nhất không phải là cuộc sống chạy theo nhu cầu cá nhân mình mà là một cuộc sống có thể đem lại những giá trị tốt đẹp cho người khác? Tuy nhiên, con người chúng ta cũng là một bản thể riêng biệt, mỗi người đều có những sứ mệnh và hành trình cuộc đời riêng, không thể lúc nào cũng mãi sống vì người khác mà có đôi khi cần sống cho chính bản thân mình nữa.
Ngay hôm nay, hãy khiến cho cuộc sống của mình đáng quý bằng cách gạt bỏ lòng vị kỷ và sống vì người khác. Và một ngày kia ta sẽ nhận ra ta đã sống những ngày tháng thật đáng trân trọng và sẽ chẳng bao giờ hối hận vì mình đã từng sống vị tha.
Mẫu 9
Trong cuộc sống bộn bề lo âu, chúng ta phải luôn chia ngọt sẻ bùi để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Cuộc sống là sự sẻ chia giữa người với người. Nhất là trong cuộc sống ngày càng hiện đại, con người ta càng ngày càng ít quan tâm đến những người xung quanh, điều này lại càng quan trọng hơn. Trao yêu thương để nhận lại yêu thương là một quy luật tất yếu trong cuộc sống, phải cho đi để được nhận lại và nếu được nhận từ người khác thì phải biết cho đi. Đó là luật nhân quả giữa” cho và nhận” trong cuộc sống.
Vậy “cho và nhận” là hành động như thế nào. Đó là sự cho và nhận về vật chất chăng. Thực ra cũng không hẳn là thế. Chúng ta có rất nhiều thứ để cho và nhận cùng với những người xung quanh. Mọi người vẫn thường nói rằng “cho và nhận”, chứ không phải ”nhận và cho”. Cho được đề cập đến trước nhận, bởi việc cho được tất cả mọi người đánh giá cao hơn. Cho thật ra không phải là việc gì to tát, phải những con người vĩ đại, có tài sản vật chất mới có thể cho đi. Ai ai cũng có thể cho đi từ những thứ nhỏ nhất. Cho, có thể là cho đứa bạn đi nhờ xe. Cho, có thể là một chút tiền đặt vào thùng quyên góp cho người nghèo. Cho có thể là cho đi một cái ôm ai ủi khi người bên cạnh bạn tổn thương, đau khổ. Cho là rất nhiều điều trong cuộc sống này. Tuy rằng trong cuộc sống hiện đại nhiều bon chen, thế nhưng cũng có rất nhiều những nghĩa cử cao đẹp, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Hằng năm, mỗi khi mùa đông đến, các anh chị sinh viên tình nguyện lại gom áo ấm đem lên vùng cao tặng các em ở vùng núi khó khăn. Hay mỗi khi có lũ lụt thiên tai, cả nước lại cùng tay góp tiền để cứu giúp đồng bào chịu thiệt hại nặng nề. Tất nhiên, không phải khi nào sự sẻ chia cũng chỉ là những giá trị về vật chất. Đã từng có một câu chuyện rằng, khi một cô gái đang đi trên đường, gặp một người ăn xin. Cô lục lọi khắp người mà không tìm thấy gì để có thể cho ông lão. Cô lại gần và cầm tay ông lão giữa ngày đông giá rét, xin lỗi ông vì không có gì cho ông. Nhưng ông cụ đã nói rằng: "Cháu đã cho ông rất nhiều rồi”. Và cái cô gái cho ông lão, có lẽ ai cũng hiểu, đó là hơi ấm của tình người. Mỗi người trong chúng ta nhiều khi không thể lựa chọn số phận cũng như cuộc sống của mình. Vì vậy, sự sẻ chia là vô cùng cần thiết. Nó làm cho chúng ta cảm thấy ấm áp hơn, làm cho người với người gần nhau hơn. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta nên biết quan tâm, chia sẻ với những người xung quanh mình. Khi bạn bè có chuyện buồn, chúng ta nên hỏi thăm, động viên để bạn bớt buồn, cũng như cố gắng phấn đấu trong tương lai.
Cho và nhận phải luôn song hành với nhau trong cuộc sống, ta cho đi và ta cũng có quyền nhận lại. Cuộc sống luôn công bằng với tất cả chúng ta, ta cho đi tiền bạc ta nhận lại lòng kính trọng và biết ơn, ta cho đi nụ cười ta nhận lại nụ cười, ta cho đi lòng yêu thương ta nhận lại ấm áp. Cho đi không phải là khó nhưng cho đi phải thật lòng khi đó người nhận mới cảm thấy vui và thoải mái. Mọi người thường nói: cho đi là nhận lại gấp trăm lần bởi khi cho đi thì hạnh phúc và niềm vui của người ấy sẽ khiến mình vui lây và cảm thấy mọi thứ trở nên tươi đẹp hơn khi tạo ra sắc hồng cho cuộc sống. Cho và nhận trước hết là những cử chỉ cao đẹp của con người với con người. Cho và nhận khiến cuộc sống ấm áp hơn. Đối với những người ăn xin, một vài nghìn tiền lẻ cũng là một điều gì đó vô cùng to tát. Hay một nụ cười thân thiện với một con người đang rơi vào hoàn cảnh lạc lỏng là một hơi ấm sưởi ấm những trái tim cô đơn. Cuộc sống là vậy, cho đi thật ra vô cùng đơn giản, chẳng cần toan tính gì cứ thế cho đi đó chính là những điều chân thành nhất.
Trong cuộc sống của chúng ta, vẫn tồn tại những tấm lòng cao cả chỉ biết cho đi và không cần nhận lại một điều gì. Đó là các Mạnh Thường Quân gửi tiền quyên góp nhưng không để lại tên tuổi, đó là những người ngã xuống hi sinh thầm lặng để bảo vệ tổ quốc… Tuy nhiên, cũng có rất nhiều sống theo một lối sống ích kỉ, chỉ biết nhận mà không muốn cho. Họ không quan tâm đến chuyện gì, cũng như không quan tâm đến những người xung quanh. Trong cuộc sống, nếu con người ta cạnh tranh để sống thì cho đi không được hiểu theo cái nghĩa đơn thuần nữa mà nó giống như một sự trao đổi. Cho đi thì ít nhưng muốn nhận lại thật nhiều. Vì danh lợi, vì tiền tài, vì những thứ vật chất tầm thường mà họ bóp méo hai chữ cho và nhận theo đúng nghĩa của nó. Mỗi chúng ta phải biết cho đi như chính cái nghĩa của chúng, luôn phải xuất phát từ tấm lòng, từ tình thương.
Trong cuộc sống này, không phải ai cũng may mắn, vì vậy ai ai trong chúng ta cũng phải biết cho đi, hãy cho rồi hãy nghĩ đến việc nhận. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết: “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì, em biết không? Để gió cuốn đi…”. Sống trong cuộc sống này, mỗi người chúng ta cần phải biết quan tâm, giúp đỡ những người xung quanh. Phải cho đi rồi mới nghĩ đến chuyện nhận lại, trao yêu thương để nhận lại yêu thương sẽ làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Hãy cho đi rồi sẽ được nhận lại, không nhận gì thì cũng đã được cho.
Mẫu 10
Mỗi người sinh ra trên đời đều có một sứ mệnh được thượng đế định sẵn được mang tên là số phận. Con người luôn tự hỏi làm sao để hoàn thành tốt sứ mệnh đó trong kiếp phù dung ấy, làm sao để họ có một cuộc sống ý nghĩa và tốt đẹp hơn? Có lẽ câu trả lời ở ngay trước mắt ta thôi: “Chỉ có sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý”.
Ta biết rằng tạo hóa luôn có sự quân bình, vạn vật đều có một sự sống, giống như con người được sinh ra và họ tự chọn một cuộc sống cho riêng mình. Có người muốn cuộc sống giàu sang, có người muốn một cuộc sống đầy những phiêu lưu và có người lại chỉ muốn sống một cuộc sống vị tha, lương thiên, một cuộc sống giản dị mà đáng quý. Vì sao người ta lại nói rằng sống vì người khác là một cuộc sống đáng quý? Bởi lẽ, trong sâu thẳm mỗi con người đều có một chữ thiện, chữ thiện dẫn dắt chúng ta làm những điều tốt đẹp trong cuộc sống, khiến ta biết yêu thương đồng loại, sẻ chia và giúp đỡ những người khó khăn. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người dù bị che mắt bởi những bức màn đen tốt thì cái thiện trong họ vẫn tồn tại mà không bị mất đi. Và lẽ dĩ nhiên, khi con người sống luôn vì người khác với đức hy sinh cao cả thì cuộc sống của họ luôn được xã hội trân trọng.
Nếu coi thế giới là một dạng vật chất thì mỗi con người là một hạt phân tử bé nhỏ tồn tại thống nhất và hỗ trợ lẫn nhau trong sự tồn tại của vật chất to lớn ấy. Con người từ khi sinh ra đã có những ràng buộc nhất định về mối quan hệ với những người xung quanh. Chúng ta không độc lập riêng rẽ mà tồn tại, chúng ta sống và dung hòa trong các mối quan hệ ấy. Và vì vậy, từ khi sinh ra con người đã định là không thể sống như cách loài thú sống theo bản năng, hành động vì mục đích sinh tồn của bản thân mình. Con người không thể sống chỉ vì bản thân mình mà còn sống vì người khác. Nếu sống cho riêng mình tức là vì mục đích của một cuộc đời riêng tư, muốn thỏa mãn nhu cầu riêng của bản thân mình và không hề nghĩ đến người khác. Đó là lối sống ích kỉ, sống chỉ biết ôm khư khư lấy quyền lợi về bản thân mình hay sống một cách buông thả chỉ để thỏa mãn bản thân mình. Một cuộc sống như vậy không bao giờ có thể tạo ra những giá trị quý giá cho con người, cho xã hội, không thể khiến cho xã hội phát triển, con người sống tốt đẹp hơn. Một cuộc sống ích kỉ như vậy thì không phải là một cuộc sống đáng trân trọng. Cuộc sống đáng trân trọng phải là cuộc sống vì người khác, hướng tới những giá trị xã hội nhân văn tốt đẹp, một cuộc sống quan tâm đến hạnh phúc của mọi người, sống không chỉ để cho mình mà còn là cho người, làm nên những giá trị tốt đẹp cho người khác. Và đây là cuộc sống mà xã hội đáng giá cao bởi không phải ai cũng có đủ tấm lòng để có thể sống vì người khác, gạt bỏ những vị kỷ cá nhân để tạo nên những giá trị tốt đẹp cho con người, cho xã hội.
Sống vì người khác thực ra không phải là điều gì quá cao xa với khả năng của mỗi chúng ta. Mỗi chúng ta đều có thể giúp đỡ một người nào đó theo khả năng của mình, đem những giá trị tốt đẹp đến cho xã hội bằng cách sống có ích, sống tử tế trong cuộc đời này. Những điều ấy góp phần làm cho xã hội tốt đẹp hơn đồng thời cũng làm cho bản thân mình sống hạnh phúc hơn.
Vậy chúng ta phải làm gì để có một cuộc sống đáng quý? Trước hết bản thân mỗi người hãy tự tu dưỡng đạo đức và tâm hồn của mình. Hướng cho tâm mình đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất như: giúp đỡ một bà cụ qua đường, chỉ đường cho em nhỏ lạc đường, hãy nhặt những chiếc lon bỏ lại nơi công cộng để giúp cô lao công bớt đi phần nào mệt nhọc, chỉ vậy thôi, có lẽ cuộc sống của chúng ta đã trở nên ý nghĩa hơn từ những điều nhỏ nhất.
Ngược lại trong xã hội hiện nay có những kẻ luôn có lối sống vị kỷ, nhỏ nhen, những kẻ có thể vì lợi ích của các nhân mà chà đạp lên giá trị của người khác, khiến người khác đau khổ. Những kẻ như vậy chúng ta cần phải lên án gay gắt và giải quyết triệt để hơn. Suy cho cùng, mỗi người nên có ý thức, tấm lòng và niềm tin, tin rằng khi ta sống vì người thì sẽ có người khác sống vì mình, chỉ khi ấy cuộc sống mới đáng quý, đáng được trân trọng.
Thử tưởng tượng nếu xung quanh ta toàn là những con người ích kỷ, chỉ biết sống vì mình, không bao giờ chú ý hay coi trọng thái độ hay hạnh phúc của những người xung quanh thì cuộc sống quanh ta sẽ ngột ngạt, chán ngán bao nhiêu? Và nếu thế giới chỉ toàn là những con người như vậy thì có lẽ sẽ chẳng bao giờ có khái niệm về tình yêu thương ra đời và khi ấy, trên thế giới hoàn toàn mất đi gắn kết vì mỗi người chỉ lo cuộc sống riêng của mình và không bao giờ chịu hy sinh hay sống vì người khác. Một thế giới như vậy thật tù đọng, thiếu tình người. Đã từng có một câu nói: “Người hạnh phúc nhất là người mang lại hạnh phúc cho nhiều người nhất”, phải chăng cuộc sống mà khiến cho con người cảm thấy thỏa mãn nhất không phải là cuộc sống chạy theo nhu cầu cá nhân mình mà là một cuộc sống có thể đem lại những giá trị tốt đẹp cho người khác? Tuy nhiên, con người chúng ta cũng là một bản thể riêng biệt, mỗi người đều có những sứ mệnh và hành trình cuộc đời riêng, không thể lúc nào cũng mãi sống vì người khác mà có đôi khi cần sống cho chính bản thân mình nữa.
Ngay hôm nay, hãy khiến cho cuộc sống của mình đáng quý bằng cách gạt bỏ lòng vị kỷ và sống vì người khác. Và một ngày kia ta sẽ nhận ra ta đã sống những ngày tháng thật đáng trân trọng và sẽ chẳng bao giờ hối hận vì mình đã từng sống vị tha.
180 Đánh giá
50%
40%
0%
0%
0%