Bài tập Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ có đáp án

26 người thi tuần này 4.0 1.1 K lượt thi 6 câu hỏi

🔥 Đề thi HOT:

10034 người thi tuần này

Đề kiểm tra Học kì 1 Văn 7 Cánh diều có đáp án (đề 4)

38.8 K lượt thi 11 câu hỏi
5081 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 5)

27.1 K lượt thi 11 câu hỏi
4838 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 2)

37.5 K lượt thi 6 câu hỏi
3653 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 5)

36.3 K lượt thi 5 câu hỏi
2669 người thi tuần này

Đề thi cuối học kì 1 Văn 7 CTST có đáp án (đề 6)

22.4 K lượt thi 11 câu hỏi
2612 người thi tuần này

Đề kiểm tra Học kì 1 Văn 7 Cánh diều có đáp án (đề 2)

31.3 K lượt thi 10 câu hỏi
2095 người thi tuần này

Đề kiểm tra giữa kì 2 Văn 7 Cánh diều có đáp án (Đề 8)

12 K lượt thi 11 câu hỏi
1652 người thi tuần này

Đề kiểm tra học kì 2 Văn 7 Kết nối tri thức có đáp án (Đề 4)

34.3 K lượt thi 11 câu hỏi

Nội dung liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Lời giải

Trả lời:

- Tác giả đã sử dụng ngôi thứ nhất để chia sẻ cảm xúc: Xưng tôi

- Cảm xúc của tác giả với bài thơ là “rất thích”

- Nội dung của câu mở đoạn là giới thiệu nhan đề bài thơ, tên tác giả và cảm xúc chung với bài thơ

- Phần thân đoạn gồm các câu 2,3,4,5 đã trình bày những chi tiết, hình ảnh đặc sắc, ấn tượng được trích ra từ bài thơ nhằm chứng minh, làm rõ, lí giải cho cảm xúc của tác giả với bài thơ

- Nội dung của câu kết đoạn là khẳng định lại nội dung của bài thơ và cảm xúc của tác giả dành cho bài thơ cũng như ý nghĩa của nó đối với tác giả.

Lời giải

Bước 1: Chuẩn bị trước khi viết

Xác định đề tài

Hãy đọc kĩ đề bài và xác định:

- Đề bài yêu cầu viết về vấn đề gì?

→ Viết về cảm xúc của mình với một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em đã đọc được và thấy rất hay.

- Kiểu bài nào? Độ dài của đoạn văn là bao nhiêu?

→ Kiểu bài đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ. Độ dài đoạn văn khoảng 200 chữ.

Thu thập tư liệu

Để viết được đoạn văn đáp ứng yêu cầu của đề bài, em hãy tự hỏi:

- Cần tìm những thông tin nào?

→ Thông tin chung về bài thơ: nhan đề bài thơ, tên tác giả, hoàn cảnh sáng tác

- Tìm những thông tin ấy ở đâu?

→ Tìm thông tin từ nguồn trích, nguồn mà em đọc được hoặc tìm kiếm từ các trang mạng xã hội em có thể dùng.

- Em xác định:

+ Mục đích viết bài này là gì?

→ Viết bài đăng lên bản tin Học tập Ngữ văn của trường để chia sẻ cảm xúc về bài thơ bốn hoặc năm chữ mà em cảm thấy hay với các bạn.

+ Người đọc bài này có thể là ai?

→ Các bạn học trong lớp, trong trường, các thầy cô giáo

+ Nội dung và cách viết như thế nào?

→ Nội dung: Những cảm xúc của mình với bài thơ: yêu thích, đồng cảm với những cảm xúc của nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm

→ Cách viết: Viết đoạn văn khoảng 200 chữ đúng yêu cầu đề bài ra và đảm bảo các quy định về hình thức đoạn văn.

Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý

Tìm ý

Em hãy:

- Đọc diễn cảm bài thơ vài lần để cảm nhận âm thanh, vần, nhịp điệu của thơ bốn chữ hoặc năm chữ và hiểu cảm xúc, ý tưởng của tác giả.

- Tìm và xác định ý nghĩa của những từ ngữ, hình ảnh độc đáo, giọng điệu và các biện pháp tu từ mà nhà thơ đã sử dụng để thể hiện cảm xúc và ý tưởng.

- Xác định chủ đề bài thơ.

- Xác định những cảm xúc mà bài thơ đã gợi cho em và lí giải vì sao em có cảm xúc đó.

- Liệt kê những ý tưởng nảy sinh trong đầu bằng một vài cụm từ.

Lập dàn ý

Hãy sắp xếp các ý đã có thành dàn ý của đoạn văn theo gợi ý sau:

- Mở đoạn giới thiệu nhan đề bài thơ, tên tác giả và nêu cảm xúc chung về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em đã chọn.

- Thân đoạn: trình bày chi tiết các ý thể hiện cảm xúc của em về bài thơ.

- Kết đoạn: khẳng định lại cảm xúc về bài thơ và ý nghĩa của nó đối với bản thân. Bước 3: Viết đoạn

Dựa vào dàn ý đã lập, viết một đoạn văn hoàn chỉnh. Khi viết, cần đảm bảo yêu cầu đối với đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ.

Mẫu 1

Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947, khi quân và dân ta đang thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc. Sông Lô, Đoan Hùng đã đi vào lịch sử bằng những nét vàng chói lọi đầu tiên của ta trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc. Cùng với các bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc của Bác trong một đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc. Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Nếu giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, thì tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác.

Mẫu 2

“Sang thu” của Hữu Thỉnh là một bài thơ vô cùng hấp dẫn viết về chủ đề thiên nhiên đất trời vào thu. Nét độc đáo của bài thơ này không chỉ là những dòng thơ hay mà còn thể hiện qua những cảm nhận tinh tế bằng nhiều giác quan, nhiều góc độ, nhiều hình ảnh mới lạ như “hương ổi, gió se, sương, dòng sông” hay như những đám mây trời vắt nửa mình sang thu. Đây cũng là những hình ảnh gợi lên bài thơ sang thu một nét độc đáo. Không những thế, tác giả còn cảm nhận thu bằng đầy đủ các giác quan như: thính giác, khứu giác, thị giác. Đặc biệt, nhà thơ còn cảm nhận mùa thu từ xa (hương ổi) đến gần (sương) từ cáI vô hình (gió se, hương ổi) đến cái hữu hình (dòng sông). Thật biết ơn nhà thơ đã mang đến cho chúng ta một bài thơ khác lạ so với những bài thơ thu trước đó.

Mẫu 3

Bài thơ "Con chim chiền chiện" được nhà thơ Huy Cận viết vào năm 1967, in trong tập "Hai bàn tay em". Khung cảnh thiên thiên bao la, tươi đẹp là tấm nền để cánh chim bay cao vút trong không gian, cất cao tiếng hót ngọt ngào. Chiền chiện là cánh chim của bầu trời cao xanh, là chim của đồng quê mang tình thương mến, chim càng bay cao tiếng hót càng trong veo. Cánh chim chiền chiện tung bay là cánh chim tự do trên bầu trời quê hương đất nước. Hình ảnh con chim chiền chiện tự do bay lượn giữa không gian cao rộng được vẽ lên qua những từ ngữ, hình ảnh đầy ấn tượng: "Bay vút, vút cao", "Cánh đập trời xanh - Cao hoài, cao vợi", "Chim bay, chim sà", "Bay cao, cao vút - Chim biến mất rồi"... Tiếng hót của chim chiền chiện đã mở ra một khung cảnh bình yên, tươi đẹp cho đất nước, làm say mê lòng người đọc. Bài thơ không chỉ là miêu tả khung cảnh quê hương, đất nước tươi đẹp dưới tiếng hót, dưới cánh chim chiền chiện mà qua đó còn bộc lộ tình yêu đất nước, yêu thiên của tác giả, là khao khát về một cuộc sống tự do, hòa bình.

Mẫu 4

Bài thơ “Một mùa xuân nho nhỏ” đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng em. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ Thanh Hải. Không chỉ vậy, bài thơ còn được sáng tác trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là khi tác giả đang nằm trên giường bệnh, một tháng trước khi qua đời. Có lẽ bởi vì vậy mà tình yêu cuộc sống, yêu quê hương, đất nước mới dâng trào một cách mạnh mẽ, cháy bỏng trong lòng nhà thơ. Tình yêu quê hương, đất nước đó như được truyền tải qua từng lời thơ đi sâu vào lòng người. Tất cả được thể hiện thông qua bức tranh thiên nhiên của xứ Huế đẹp, thơ mộng và đầy trữ tình. Nó như chạm đến trái tim của từng người con đất Việt, thôi thúc họ thêm yêu và tự hào về đất nước mình hơn. Để rồi khi đọc xong bài thơ, trong đầu em vẫn văng vẳng lời thơ như tiếng hát:

                                          “Một mùa xuân nho nhỏ

                                            Lặng lẽ dâng cho đời

                                            Dù là tuổi hai mươi

                                            Dù là khi tóc bạc…”

Mẫu 5

 Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là một bài thơ ngũ ngôn bình dị mà cô đọng, đầy gợi cảm. Trong bài thơ, tôi ấn tượng nhất với hình ảnh: "Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu". Khi đọc hai câu thơ này, người ta dễ dàng nhận thấy ở đây có sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa. Vì giấy, mực nghiên là những vật vô tri, vô giác giờ đây lại cũng biết buồn. Vậy là những vật dụng liên quan đến thư pháp, liên quan đến một vẻ đẹp truyền thống của ông cha đã trở thành một điều gì đó thiêng liêng, tinh túy, vì chúng có "hồn". Đấy có lẽ là một trong những nét nghĩa đầu tiên của hai câu thơ này. Vậy còn nét nghĩa thứ hai? Nếu để ý, ta sẽ thấy hai câu thơ chỉ thuần tả cảnh mà không tả người. Cảnh vật ở đây có hồn, như nhuốm màu tâm trạng. Không có một từ ngữ nào nói về con người và trạng thái tâm lí của họ, nhưng "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"! Chính là vì thế, vì người không vui nên cảnh mới buồn. Nói cách khác, bóc lớp nghĩa sử dụng biện pháp nhân hóa, ta sẽ thấy được nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Vậy là chỉ hai câu thơ tưởng như đơn giản, mà có tới hai tầng ý nghĩa. Điều đó đã cho thấy sự cô đọng, gợi cảm trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên.

Mẫu 6

Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh giúp người đọc thấy được sự biến chuyển đầy tinh tế của cảnh vật trong không gian cuối hạ đầu thu. Mùa thu được nhà thơ cảm nhận qua từng giác quan như khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương chùng chình). Từ đó, những tín hiệu đặc trưng nhất của mùa thu cũng lần lượt xuất hiện. Dưới mặt đất, dòng chảy của con sông trở nên chậm hơn, không cuồn cuộn như lúc hè về. Trên bầu trời, từng đàn chim sải cánh bay bắt đầu trở nên vội vã, âu lo tìm về phương nam tránh cái lạnh. Đám mây của mùa hạ nay đã “vắt nửa mình sang thu”, nửa nghiêng về mùa hạ, nửa lại nghiêng về mùa thu. Dường như, những sự vật thiên nhiên trong bài thơ đã được tác giả thổi vào đó những hành động của con người. Ở hai khổ thơ đầu, tác giả bộc lộ cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên. Thì đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc ấy chuyển sang suy tư, triết lý. Những hiện tượng thiên nhiên như “nắng”, “mưa”, “sấm” là biểu tượng cho những biến cố xảy đến với con người trong cuộc sống. Còn “hàng cây đứng tuổi” chính là hình ảnh của những con người đã từng trải, đã bước qua thời tuổi trẻ. Triết lí mà nhà thơ muốn gửi gắm là những con người từng trải khi gặp phải sóng gió sẽ biết cách đối diện, đương đầu một cách bình thản, trưởng thành hơn. Như vậy, bài thơ đã gợi lên những cảm nhận tinh tế về sự chuyển biến của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Và từ những tín hiệu của mùa thu đến khung cảnh thiên nhiên lúc vào thu, tác giả đã có những suy tư sâu sắc về cuộc đời.

Mẫu 7

Bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận đã đem đến cho tôi nhiều cảm nhận. Hình ảnh trung tâm của bài thơ - con chim chiền chiện được nhà thơ khắc họa thật chân thực và sống động. Cánh chim bay vút trên trời, với tiếng hót long lanh giống như cành sương chói, hình ảnh so sánh kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng hót giờ đây không chỉ được cảm nhận bằng thính giác mà còn có thể nhìn thấy bằng thị giác - đầy long lanh, giống như hình ảnh giọt sương trên cành cây được nắng chiếu sáng. Những câu thơ tiếp theo khiến chúng ta có cảm thấy dường như chim chiền chiện đang trò chuyện với con người. Chúng đang làm tốt nhiệm vụ của mình, gieo những niềm vui đến với thế gian, cánh chim bay mãi đến trời xanh dường như không biết mệt mỏi. Với những dòng thơ trong trẻo, đẹp đẽ của mình, nhà thơ cũng muốn gửi gắm một bức thông điệp ý nghĩa rằng con người cần có giao hòa, gắn bó với thiên nhiên để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đồng thời thêm yêu mến, trân trọng thiên nhiên.

Mẫu 8

Nếu thơ của Xuân Diệu mang trong mình giọng điệu say đắm, rạo rực; thơ Hàn Mặc Tử lại có chút gì đó điên loạn; Huy Cận có nỗi buồn ảo não và thơ Vũ Đình Liên lại có chút giọng điệu hoài cổ về thời kì xưa cũ. Thấy rằng mỗi nhà thơ đều có giọng thơ, phong cách, nỗi niềm tâm tư khác nhau nên không thể nào đem ra cân đo đong đếm được thơ của vị này hơn vị kia nên chỉ có thể nói về ấn tượng riêng của người đọc kia nói đến về thơ của một nhà thơ nào đó. Nói đến Vũ Đình Liên người đọc nhớ đến nhà thơ có gia tài sáng tác không nhiều nhưng trong đó có tác phẩm mang lại giá trị cho nền văn học Việt Nam. Đó chính là bài thơ "Ông đồ"

Bài thơ "Ông đồ" được đăng trên tạp chí "Tinh hoa" năm 1936. Những năm trước khi ra đời bài thơ, nền văn hóa phương Tây dần xâm nhập vào nước ta, bởi vì thế mà nền văn hóa Hán học dần mất đi vị thế của mình. Những ông đồ viết chữ nho nay cũng chẳng còn vị thế như trước nữa, thậm chí là còn bị lãng quên đi. "Ông đồ" là một nhan đề đọc lên đủ để cho người ta thấy một nền văn hóa tinh thần của dân tộc ở trước mắt, bao nét đẹp của văn hóa đi theo ông đồ như vậy mà dẫn chìm vào dĩ vãng, một sự tiếc thương vô cùng cũng là lí do và mục đích khiến tác giả đã sáng tác nên bài thơ này.

"Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già"

Hoa đào tượng trưng cho mùa Tết đến, mỗi mùa Tết đến người ta lại thấy những ông đồ - những người thầy dạy chữ Nho bày ra những "tàu giấy đỏ" bên những con phố đông đúc người qua lại, viết nên những câu đối đỏ.

"Bày tàu mực giấy đỏ
Bên phố đông người qua"

Vào thời đắc ý, hay còn gọi là thời vàng son của ông đồ hình ảnh mực tàu, giấy đỏ cùng ông đồ được bày biện bên cạnh những con phố chẳng lấy gì là xa lạ, nó giống như một điều tất yếu mỗi khi Tết gần về. Như một sự tuần hoàn có chu kỳ của thời gian, dịp chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, những cánh hoa đào tươi khoe sắc thắm thì ông đồ xuất hiện. Thử hình dung một chút thôi, thời tiết gần Tết có chút se lạnh, bên góc đường đang nhộn nhịp với các gánh hàng mua bán hoa đào thì có nơi yên tĩnh đến lạ thường, những ông đồ tỉ mỉ, cẩn thận, chăm chút thể hiện những nét chữ uyên bác. Nghĩ đến đây thôi cũng đủ thấy một bức tranh tươi vui và tràn ngập không khí Tết về. "Mỗi" hay "lại" đều giúp người đọc hiểu được cái nhịp điệu đều đặn ấy. Xuân đến, Tết về hình ảnh ông đồ và hoa đào song hành cùng với nhau để tạo thêm vẻ đẹp cho ngày Tết.

"Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay"

Ở thời kì này có biết bao lời khen, thán phục được dành cho ông đồ? Có lẽ chẳng đếm xuể. "Tấm tắc", "hoa tay", "phượng múa rồng bay", tất cả đều là những lời có cánh mang ý nghĩa tốt đẹp được trao cho vị ông đồ này. Những người thuê ông viết chữ không chỉ quý trọng nét chữ mà còn có một lòng kính trọng dành cho ông. Tài năng của ông đồ được phô diễn qua các câu đối đỏ, người thuê cũng nhận thực được phải là những người am hiểu về Hán học, hiểu biết chữ Nho thì mới có thể viết ra được những nét chữ tài hoa như vậy. Tác giả sử dụng phép tu từ so sánh "Như phượng múa rồng bay" để thể hiện cái lòng ngưỡng mộ, sự tôn trọng đến ông đồ. Qua đây ta cũng có thể thấy được sự trân trọng giá trị truyền thống xưa cũ của tác giả Vũ Đình Liên.

Thời này ông đông khách vô cùng, người thuê ông viết chữ đều thán phục những nét chữ phóng khoáng mà đầy ý nghĩa được tạo ra từ bàn tay của ông. Thấy được rằng cả người viết cùng người chơi chữ đều có mối đồng cảm sâu sắc với nhau, bởi vì họ đều là những người viết yêu và biết thưởng thức cái đẹp chăng?

Vạn vật đều có thời kì đỉnh cao và thời kì đi xuống, ông đồ cũng vậy, thời thế thay đổi ông đồ không còn được trọng vọng và ngưỡng mộ như trước nữa.

"Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu..."

Mọi thứ đều ảm đạm. Ông độ tự nhận thức được người thuê viết mỗi năm càng vắng đi nhưng ông vẫn thắc mắc những người thuê viết trước đây đã đâu mất rồi? Những người thuê ông viết chữ vẫn ở đó, họ vẫn sống một cuộc sống thường ngày nhưng nền văn hóa phương Tây đã dần thay đổi họ, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc cũng vậy mà dần bị mai một. Vũ Đình Liên miêu tả khung cảnh vắng vẻ qua chính "mực tàu" và "giấy đỏ". Đến nay giấy đỏ buồn còn chẳng đủ thắm, người đến thuê chữ ít đi nên khiên cho mực đọng trong nghiên, mọi vật xung quanh trở nên "sầu" hơn bao giờ hết.

Biện pháp nhân hóa ví những vật vô tri vô giác có cảm xúc giống như một con người thể hiện nên tâm trạng u uất của ông đồ, đồng thời cũng thể hiện sự xót xa, thương cảm của nhà thơ khi đứng trước thời thế này.

Tuy nền Hán học đã suy tàn nhưng:

"Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay"

Mặc cho người thuê viết chữ đã thay đổi, ông đồ vẫn kiên trì ngồi đó, ngồi bên hè phố như bao mùa hoa đào trước đây. Nhưng tiếc rằng sự xuất hiện của ông không còn được mọi người mà cụ thể là người thuê ông viết chữ chú ý hay quan tâm như thời vàng son nữa. Cứ như vậy mà bóng dáng của ông đồ dần chìm bên đường, lặng lẽ bên phố mà chẳng ai biết ai hay. Lần này thực sự ông đồ đã bị quên lãng, thật vô tình.

"Lá vàng" thể hiện cho sự phai tàn, úa rụng. Mọi người nay đã gạt ông đồ ra khỏi trí nhớ và kí ức của họ, sự xuất hiện của ông đồ giống như người vô hình trong xã hội bấy giờ.

"Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?"

Tết đến, hoa đào vẫn nở. Bên góc phố người bán người mua hoa vẫn tấp nập nhưng sao tác giả thấy trống vắng như vậy. Phải chăng vì ông đồ không còn ở đó nữa?

Đúng vậy, sau bao nỗ lực kiên trì ngồi bên góc phố đợi người viết thuê thì nay ông đồ không còn xuất hiện nữa. Đến đây ta thấy được sự vắng bóng của cả một giá trị tinh thần của dân tộc chứ không đơn giản là sự vắng bóng của một cá nhân là ông đồ. Những người mua năm trước nay đã thay đổi, họ bận thay đổi, thích nghi với nền văn hóa mới của phương Tây, họ không còn chỗ trống cho những sự tinh túy của nền văn hóa truyền thống nữa.

"Hồn ở đâu bây giờ?". Câu hỏi tu từ vang lên nhưng một tiếng thương xót của tác giả, bao cảm xúc hối tiếc, cảm thương đều được đọng lại ở cuối bài thơ.

Tác giả Vũ Đình Liên sử dụng hình ảnh hoa đào, ông đồ ở đầu và cuối bài thơ để nhằm khắc họa nên hình ảnh trái ngược của ông đồ ở hai thời kì là vàng son và ở thời kì thất thế. Những câu thơ năm chữ đã giúp cho nhà thơ bày tỏ được cảm xúc một cách dễ dàng hơn và sâu sắc hơn, thể hiện được cái sự hoài niệm về một giá trị tinh thần xưa cũ cùng với niềm cảm thương sâu sắc của tác giả. Qua đây ta thấy được ở nhà thơ Vũ Đình Liên một lòng thương người, tấm lòng nhân ái và điều đặc biệt là luôn ân nghĩa thủy chung với giá trị văn hóa của dân tộc.

Mẫu 9

Theo dòng thời gian bất tận, mọi thứ sẽ lùi vào dĩ vãng mịt mờ, để lại cho con người bao niềm tiếc nuối. Nhất là khi những vẻ đẹp tài hoa một thời nay chỉ còn vang bóng. Bắt nguồn từ cảm hứng ấy, bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên thể hiện nỗi day dứt, thương cảm cho một giá trị tinh thần sắp tàn lụi đã gây ám ảnh cho biết bao thế hệ bạn đọc.

Ra đời trong phong trào thơ Mới nhưng bài thơ “Ông đồ” không xoay quang trục cảm xúc thông thường của các nhà thơ lãng mạn khi “thoát lên tiên” để tìm cái tôi riêng mình, để đắm đuối trong tình yêu và bàn đèn, thuốc phiện. Vũ Đình Liên hướng lòng mình về quá khứ để nhận ra “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”. Sự trượt dốc của Nho học kéo theo một lớp người nạn nhân đau khổ. Và ông đồ là một nhân chứng.

Ông đồ là lớp nhà Nho không đỗ đạt, mở lớp dạy học ở quê nhà. Khi chế độ khoa cử bị bãi bỏ, ông chỉ còn xuất hiện vào những ngày giáp tết với những câu đối, cho những ai còn yêu lối chữ tượng hình. Thời gian trôi, sự vật đỏi thay, ông đồ cũng vắng bóng dần…

Mở đầu bài thơ là hình ảnh ông đồ trong những mùa xuân đông khách:

“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”

Ông đồ xuất hiện vào mỗi dịp tết đến xuân về. Cụm từ “mỗi năm ... lại thấy” thể hiện sự xuất hiện của ông đồ gắn liền với hình ảnh hoa đào đã trở thành một quy luật bất biến của tự nhiên. Ông đồ xuất hiện trong không khí vui tươi, tấp nập của phố phường, trong sự rực rỡ của hoa đào. Ông góp thêm vào sự đông vui náo nhiệt, trở thành trung tâm của bức tranh ngày tết: “bao nhiêu người thuê viết”. Điều đó có nghĩa là ông rất đắt hàng và có dịp để khoe tài. Nghệ thuật so sánh “hoa tay thảo những nét- như phượng múa rồng bay” đã ca ngợi nét chữ ông đồ: mềm mại, uyển chuyển, phóng khoáng, sang trọng. Vì thế mà mọi người tấm tắc ngợi khen ông. Ông được trân trọng, yêu quý và ngưỡng mộ. Cùng với mực tàu, giấy đỏ, thú chơi câu đố đã tạo nên một nét rất riêng, rất cổ kính trong văn hóa dân tộc. Qua đó, có thể thấy sự trân trọng, tự hào và yêu kính của tác giả dành cho ông đồ- người đã giữ gìn văn hóa thanh cao lâu đời cho dân tộc. Nhưng ẩn đằng sau những câu thơ vui, đã có dấu hiệu của sự héo tàn. Nơi của ông đồ không phải là cửa thánh hiền dạy chữ cho bọn trẻ, chữ Nho không phải đẻ tặng, để biếu mà trở thành hàng hóa, ông đồ xuất hiện bên lề đường, chật vật trong công cuộc mưu sinh với đời. Hình ảnh của ông đồ trong hai khổ thơ đầu như ánh nắng cuối ngày rực rỡ trước khi lụi tàn, báo hiệu sự lụi tàn của nền Nho học.

Những câu thơ tiếp theo là hình ảnh ông đồ trong những mùa xuân vắng khách:

“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?”

Mỗi năm mỗi vắng là nhịp thời gian khắc khoải đau lòng, đánh dấu lớp suy tàn quanh việc mua bán của ông đồ. Tác giả đã đặt cái sinh sôi: “hoa đào nở” bên cái lụi tàn “ông đồ già”, đặt hoa tay thư pháp “như phượng múa rồng bay” bên cái bất hạnh: “Người thuê viết nay đâu?”, đặt cái cô độc: “ông đồ vẫn ngồi đấy” bên cái tấp nập dửng dưng “qua đường không ai hay”. Không miêu tả tâm trạng ông đồ, chỉ miêu tả giấy mực mà qua đó thấy được cả tâm trạng và cảnh ngộ đáng thương của ông đồ:

“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”

Với bút pháp nhân hóa, bút nghiên, giấy mực cũng thấm đẫm nỗi buồn sầu tủi trước cảnh vắng khách của ông đồ. Giấy đỏ cả ngày, cả tuần phơi trên hè phố mà chẳng một lần được nhận lấy nét chữ tung hoành nên cũng phai nhạt dần đi, không còn thắm tươi như trước. Mực mài sẵn đã lâu không được động bút vào nên kết thành từng mảng, từng khối trong nghiên. Giấy và mực là duyên nợ của nhà Nho, là một mảnh tâm hồn của nhà Nho. Cách nhân hóa ấy khiến cho giấy, mực như có tâm hồn, thấu hiểu nỗi lòng chủ. Hay chính nỗi lòng tê tái của ông đồ đã tràn sang cả giấy mực? Hai câu thơ chỉ nói “mực đọng”, “nghiên sầu” mà giúp ta thấy được cả nỗi lòng buồn thương của con người trước sự vô thường của thời gian và con người.

“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”

Từ “vẫn” như một chút sinh lực cuối cùng ông đồ mang ra góp mặt với đời. Bằng sự gắng gượng trong miếng cơm manh áo, ông vẫn ngồi đấy. Lúc này, phố vẫn đông người, chỉ khác là không ai nhận ra sự hiện diện của ông giữa cuộc đời. Ông đồ rơi vào tình cảnh một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc:

“Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình”

Nghệ thuật đối lập tài tình: một bên là sự đơn chiếc lẻ loi, một bên là cuộc sống xô bồ hiện đại; một bên là cái dáng ngồi bó gối bất động, một bên là không khí tưng bừng náo nhiệt khi tết đến xuân về; một bên là thái độ cố gắng níu kéo, một bên là sự thờ ơ lãng quên. Chữ Nho, bút nghiên, giấy mực đều trở nên cũ kỹ, lạc lõng giữa phố phường hiện đại. Ông đồ trở thành một di tích, một phế tích không hợp thời, lạc lõng, chơ vơ giữa thời đại ông đang sống.

Nơi ông đồ ngồi là “lá vàng mưa bụi”. Những chiếc lá vàng phủ kín trang giấy, nhạt nhòa vì thời gian, vì ế ẩm. Làn mưa bụi mịt mờ đất trời, lã chã rơi trên áo the, khăn xếp, trên nét mặt già nua mỏi mệt của ông đồ. Một khung cảnh buồn bã. Con người như bị nhòe lẫn trong cái tái tê của cảnh. Đây chính là hai câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong bài. “Lá vàng, mưa bụi” hay chính là tâm trạng của ông đồ? Những chiếc là vàng chen ngang khung cảnh mùa xuân tràn đầy sức sống, phải chăng là một điều không hợp lí? Hình ảnh lá vàng trở về với đất mẹ hay chính là hình ảnh héo tàn, rơi rụng của ông đồ trước một xã hội mới đang sinh sôi. Hạt mưa bụi kia là mưa của đất trời hay mưa của lòng người, của thời gian, của quên lãng? Thời thế, con người đều lạnh lùng từ chối ông đồ già, từ chối những giá trị được coi là xưa cũ. Lá rơi không nghe tiếng, mưa bụi chẳng làm ướt ai nhưng người đọc hơn nửa thế kỉ qua vẫn còn nhỏ lệ trước tình cảnh đáng thương của ông đồ...

Những câu thơ kết lại là sự vắng bóng của ông đồ và niềm thương cảm của tác giả:

“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”

Thời gian cứ lặng lẽ trôi. Hoa đào kia vẫn nở, mùa xuân vẫn đến nhưng không còn thấy bóng dáng ông đồ đâu nữa. “Ông đồ già đã trở thành “ông đồ xưa”, trở thành người thiên cổ, chỉ còn là cái bóng mờ mờ trong tâm trí của những người hiện đại. Bóng dáng ông lẫn vào những nghiên, những bút rất xa xưa trong lịch sử. Câu hỏi “những người muôn năm cũ” là những người một thời rất trọng chữ Nho hay những người như ông đò- người xưa, người cũ đã ra đi viễn viễn không bao giờ còn thấy nữa. Câu thơ hiện lên một nỗi niềm day dứt ngậm ngùi. Ta đã lãng quên quá khứ, quên những con người tài năng, tâm huyết với đời, quên những nét đẹp truyền thống dân tộc. Câu thơ như lời tự vấn, ân hận và niềm thương cảm của tác giả dành cho những nhà Nho danh giá một thời.

Bài thơ khép lại thành kính như một nén tâm hương, thắp lên tưởng niệm những người đã khuất, lại có khả năng đồng cảm với bao thế hệ sau.

Như vậy, với thể thơ ngũ ngôn ngắn gọn, xúc tích, giàu tình tự sự kết hợp với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, Vũ Đình Liên đã vẽ lên cả một cuộc đời buồn đau, đáng thương của ông đồ thời thất thế. Cảnh không nhiều mà đầy sức ám ảnh. Nếu nói rằng sức mạnh của câu thơ ở chỗ không lời thì “Ông đồ” đã phát huy tối đa sức mạnh ấy. Một ngày, người ta chỉ nhớ đến ông đồ trong quá khứ, là một thời vàng son một đi không trở lại:

“Một thầy khóa gò lưng trên tấm phản
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân”
(“Chợ tết”- Đoàn Văn Cừ)

Dòng thời gian chảy vào biến thiên bất tận, mỗi con người chỉ là hữu hạn trong cuộc đời. Bởi thế, đối với những người chưa từng thấy ông đồ, bài thơ của Vũ Đình Liên vẫn thắp lên một nén tâm hương, là lời nhắc nhủ thấm thía. Để rồi một lúc nào đó lại dội về tiếng đưa nôi kẽo kẹt:

“Chẳng ham ruộng cả ao liền
Chỉ ham cái bút, cái nghiên anh đồ”...

Mẫu 10

Trước kia trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối tết. Chính vì vậy mà những ông đồ già trên vỉa hè phố xá rất đông khách thuê viết chữ và hình ảnh đầu đội khăn xếp mặc áo the đã khắc sâu vào tâm trí của người dân Việt Nam, nhà thơ Vũ Đình Liên là một trong số đó. Để rồi tác giả viết lên bài thơ Ông đồ với 1 niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận 1 lớp người tàn tạ và sự nuối tiếc 1 truyền thống đẹp đẽ của dân tộc.

Mở đầu bài thơ Ông đồ hình ảnh đã xuất hiện trong dòng suy tưởng, hoài niệm của tác giả:

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ|
Bên phố đông người qua

Cấu trúc mỗi.. lại cho ta thấy ông đồ chính là 1 hình ảnh vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam vào mỗi dịp tết đến xuân về. Cùng với màu thắm của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tàu và sự đông vui, náo nhiệt của ngày tết thì hình ảnh ông đồ đã trở nên không thể thiếu được trong bức tranh mùa xuân. Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm 1 góc nhỏ trên lề phố nhưng trong bức tranh thơ thì ông đồ lại chính là trung tâm, ông đã hòa hết mình vào cái không khí nhộn nhịp của ngày tết với những tài năng mình có:

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay

Từ bao nhiêu cho người đọc thấy được nghề cho chữ đã từng được mọi người rất yêu mến. Sự có mặt của ông đồ đã thu hút sự chú ý của mọi người, ông chính là trung tâm của sự kính nể và ngưỡng mộ. Hạnh phúc không chỉ là có nhiều người thuê viết mà còn được tấm tắc ngợi khen tài – Bởi ông có tài viết chữ rất đẹp. Ba phụ âm 't' cùng xuất hiện trong 1 câu như 1 tràng pháo tay giòn giã để ca ngợi cái tài năng của ông. Giữa vòng người đón đợi ấy ông hiện lên như 1 người nghệ sĩ đang say mê, sáng tạo, trổ hết tài năng tâm huyết của mình để rồi ông được người đời rất ngưỡng mộ. Với sự ngưỡng mộ đó thì Vũ Đình Liên còn thể hiện 1 lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc là chơi câu đối chữ. Nhưng liệu có bao nhiêu người thuê viết hiểu được ý nghĩ sâu xa của từng câu, từng chữ để mà chia sẻ cái niềm vui, niềm hạnh phúc với người viết ra những câu chữ ấy?. Ở khổ thơ thứ 3 vẫn nổi bật hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ, nhưng mọi thứ đã khác xưa. Không còn đâu bao nhiêu người thuê viết- Tấm tắc ngợi khen tài mà thay vào đó là cảnh tượng vắng vẻ đến thê lương. Với cảm xúc buồn thương thấp thoáng ở 2 câu thơ trên, giờ đây cái cảm xúc đó được thể hiện trong câu hỏi đầy băn khoăn day dứt:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?

Cũng là mỗi năm nhưng lại đứng sau từ nhưng - còn chữ thường làm đảo lộn trật tự quen thuộc. Số người còn chút mến yêu và kính trọng chữ nho giờ cũng mỗi năm mỗi vắng, khách quen cũng tan tác mỗi người một ngả. Để rồi 1 chút hy vọng nhỏ nhoi của Ông đồ là góp chút tài nghệ cùng mọi người vào mỗi dịp tết đến xuân về cũng dần tan biến bởi cuộc sống mưu sinh cũng ngày càng khó khăn. Bằng câu hỏi tu từ hết sức độc đáo, Vũ Đình Liên đã thể hiện 1 nỗi nuối tiếc của 1 thời kì vàng son để rồi đọng lại thành nỗi sầu, nỗi tủi thấm sang cả những vật vô tri vô giác:

Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Giấy đỏ là thứ giấy dùng để ông đồ viết chữ lên, đó là 1 thứ giấy rất mỏng manh chỉ cần 1 chút ẩm ướt cũng có thể phai màu. Vậy mà “Giấy đỏ buồn không thắm” - không thắm bởi lâu nay không được dùng đến nên phôi pha úa tàn theo năm tháng. Mực cũng vậy - đó là thứ mực đen thẫm để ông đồ viết chữ, trước khi dùng thì ta phải mài mực rồi dùng bút lông họa lên những nét chữ. Nhưng nay “Mực đọng trong nghiên sầu” nghĩa là mực đã được mãi từ lâu, đã sẵn sàng cho bàn tay tài hoa của ông đồ để trổ tài nhưng đã đợi chờ trong vô vọng. Các từ buồn, sầu như thổi hồn vào sự vật cùng với phép nhân hóa đã khiến cho giấy đỏ, mực tàu vốn vo tri bỗng trở nên có hồn có suy nghĩ như con người. Nỗi buồn đó không chỉ thấm vào những đồ dùng mưu sinh hằng ngày mà cảm xúc đó của ông còn lan ra khung cảnh thiên nhiên, cảnh vật khiến không gian trở nên thật đìu hiu, xót xa:

Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay

Tuy nghề viết chữ không được người đời yêu mến và kính trọng nữa nhưng ông đã kiên trì, cố gắng ngồi bên lề đường chờ mong sự cưu mang giúp đỡ của người đời. Nhưng đâu có 1 ánh mắt nào để ý đến ông bên lề phố, không một trái tim nào đồng cảm và chia sẻ với ông. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình nhà thơ Vũ Đình Liên đã cho ta thấy 1 khung cảnh thiên nhiên thật xót xa, đìu hiu trước tâm trạng của ông đồ:

Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay

Nhưng thật băn khoăn tại sao giờ đang là mùa xuân lại có lá vàng rơi? Phải chăng hình ảnh lá vàng rơi gợi đến sự tàn phai, tàn lụi về 1 thời kỳ, 1 lớp người trong xã hội và 1 phong tục tập quán đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam là chơi câu đối đỏ ngày tết giờ cũng trở thành quá khứ. Hình ảnh ông đồ cũng giống như hình ảnh lá vàng rơi, đã gắng níu kéo cuộc đời thầm lặng của mình nhưng so với thời đại mới thì chỉ còn là chiếc lá úa tàn đang rơi rụng. Nỗi buồn ấy âm thầm, tê tái nó đã khiến cơn mưa xuân vốn sức sống bền bỉ cũng trở nên đìu hiu xót xa

Ngoài giời mưa bụi bay

Giời - đó phải chăng là cách nói dân gian của những người tưởng như đã xa xưa lắm nhưng vẫn luôn hiện hữu. Câu thơ gợi ra tâm trạng buồn thảm của ông đồ trước cơn mưa bụi nhạt nhòa. Dẫu chỉ là mưa bay, mưa bụi nhưng nó cũng đủ sức xóa sạch đi dấu vết của 1 lớp người. Tuy đã không còn được người đời yêu mến, trọng vọng nữa nhưng đối với nhà thơ thì hình ảnh này vẫn luôn khắc sâu trong trái tim:

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa

Mở đầu bài thơ Ông đồ là hình ảnh rất nhẹ và kết thúc cũng với hình ảnh rất khẽ khàng. Năm xưa khi đào nở ta thấy ông đồ ngồi bên lề đường và hòa mình vào sự đông vui náo nhiệt của phố phường. Nhưng nay cùng thời điểm đó thì ông đã không còn nữa, hình ảnh xưa cũ cũng dần tan biến vào dòng thời gian. Tết đến xuân về, hoa đào lại nở, người người thì háo hức đi chợ sắm tết để chờ mong 1 năm đầy niềm vui và hy vọng. Tất cả đều rạo rực, tưng bừng. Cảnh còn đó nhưng người thì đâu? Giờ đây hình ảnh ông đồ chỉ còn là cái di tích tiều tụy đáng thương của 1 thời tàn, ông đã bị người đời quên lãng, bỏ rơi ngoài 1 thi sĩ Vũ Đình Liên. Dòng đời cứ trôi dần và trôi đi cả cuộc sống thanh bình đẹp đẽ, giờ chỉ còn là 1 nỗi trống trải, bâng khuâng để rồi nhà thơ cũng phải bật thành câu hỏi đầy cảm xúc:

Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

Hai câu thơ cuối tác giả đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc dâng trào, kết đọng mang chiều sâu khái quát. Từ hình ảnh ông đồ nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh những người muôn năm cũ và thi sĩ hỏi 1 cách xót xa: Hỏi mây hỏi trời, hỏi cuộc sống hỏi 1 thời đại, hỏi mà để cảm thông cho thân phận của những người muôn năm cũ đã bị thời thế khước từ. Câu hỏi tu từ đặt ra như 1 lời tự vấn, tiềm ẩn sự ngậm ngùi, xót thương. Và tất cả những gì của 1 thời hoàng kim giờ cũng chỉ còn 1 màu sắc nhạt phai, tê tái. Với cách sử dụng thành công biện pháp tu từ, nhà thơ Vũ Đình Liên đã tái hiện lên hình ảnh ông đồ với cái di tích tiều tụy đáng thương của 1 thời tàn khiến chúng ta lại càng cảm thương, xót xa cho số phận của ông.

Chỉ với bài thơ Ông đồ ngụ ngôn ngắn gọn, tác giả đã làm sống dậy trong lòng người 1 niềm thương của sự luyến tiếc không nguôi. Đọc bài thơ ta cảm nhận được ở Vũ Đình Liên - một con người có lòng thương người, lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc và luôn ân nghĩa thủy chung.

 

Lời giải

Dàn ý: Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích

- Mở đoạn: Giới thiệu nhan đề bài thơ, tên tác giả và nêu cảm xúc chung về bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em đã chọn.

- Thân đoạn: Trình bày chi tiết các ý thể hiện cảm xúc của em về bài thơ.

- Kết đoạn: Khẳng định lại cảm xúc về bài thơ và ý nghĩa của nó đối với bản thân.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 1)

Bài thơ bốn chữ mà em yêu thích và bài thơ “Lượm” của nhà thơ Tố Hữu. Lượm là bài thơ tự sự - trữ tình kể về cuộc đời ngắn ngủi nhưng rất anh dũng của chú bé liên lạc hồn nhiên, yêu đời, dũng cảm đã ngã xuống để bảo vệ sự bình yên cho chính mảnh đất quê hương mình. Em rất khâm phục chú bé bởi ở cái tuổi ăn, tuổi lớn ấy, đáng nhẽ chú phải nhận được sự vui chơi, hồn nhiên cùng bạn bè đồng trang lứa. Nhưng không, chú đã dũng cảm tham gia làm liên lạc trong thời điểm chiến tranh khốc liệt. Mặc dù cuối cùng chú đã hy sinh trên đường đi làm nhiệm vụ nhưng chú vẫn luôn sống mãi trong lòng người đọc như một chiến sĩ thực thụ. Bài thơ không chỉ cho em thấy sự khốc liệt của chiến tranh mà nó còn khiến em thêm yêu quý, trân trọng cuộc sống hiện tại hơn bởi có được như ngày hôm nay chúng ta đã phải đánh đổi bằng mạng sống của rất nhiều người. Và chú bé Lượm sẽ là một trong số đó. Tinh thần dũng cảm, sự thông minh và lòng yêu nước của Lượm sẽ là tấm gương để thế hệ trẻ Việt Nam học tập và noi theo.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 2)

- Bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người”

Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ.

Mặt trời cũng chưa có
Chỉ toàn là bóng đêm
Không khí chỉ màu đen
Chưa có màu sắc khác.

Mắt trẻ con sáng lắm
Nhưng chưa thấy gì đâu?
Mặt trời mới nhô cao
Cho trẻ con nhìn rõ
Màu xanh bắt đầu cỏ
Màu xanh bắt đầu cây
Cây cao bằng gang tay
Lá cỏ bằng sợi tóc
Cái hoa bằng cái cúc
Màu đỏ làm ra hoa
Chim bấy giờ sinh ra
Cho trẻ nghe tiếng hót
Tiếng hót trong bằng nước
Tiếng hót cao bằng mây
Những làn gió thơ ngây
Truyền âm thanh đi khắp
Muốn trẻ con được tắm
Sóng bắt đầu làm sông
Sông cần đến mênh mông
Biển có từ thuở đó
Biển thì cho ý nghĩ
Biển sinh cá sinh tôm
Biển sinh những cánh buồm
Cho trẻ con đi khắp.

Đám mây cho bóng rợp
Trời nắng mây theo che
Khi trẻ con tập đi
Đường có từ ngày đó.

Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng…

Biết trẻ con khao khát
Chuyện ngày xưa, ngày sau
Không hiểu là từ đâu
Mà bà về ở đó
Kể cho bao chuyện cổ:
Chuyện con cóc, nàng tiên
Chuyện cô Tấm ở hiền
Thằng Lý Thông ở ác…
Mái tóc bà thì bạc
Con mắt bà thì vui
Bà kể đến suốt đời
Cũng không sao hết chuyện.

Muốn cho trẻ hiểu biết
Thế là bố sinh ra
Bố bảo cho biết ngoan
Bố dạy cho biết nghĩ
Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất…

Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo…
Cái bảng bằng cái chiếu
Cục phấn từ đá ra
Thầy viết chữ thật to
“Chuyện loài người” trước nhất.

“Chuyện cổ tích về loài người” của Xuân Quỳnh là một bài thơ đã mang đến cho em những ấn tượng vô cùng sâu sắc. Khi đọc tác phẩm, chúng ta cảm thấy cách lý giải nguồn gốc loài người của tác giả thật thú vị. Dưới hình thức một bài thơ, nhưng tác phẩm lại giàu tính tự sự, giống như một câu chuyện được kể lại theo trình tự thời gian. Trước hết tác giả khẳng định trời sinh ra trước tiên là trẻ em. Sau đó, để trẻ em có được một môi trường sống thật tốt, mới có sự ra đời của những sự vật khác trên trái đất. Ở đây, nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh miêu tả sinh động để giúp người đọc hiểu hơn về sự ra đời của thiên nhiên. Kế tiếp là sự ra đời của mẹ giúp trẻ em cần có tình yêu thương, sự chăm sóc. Bà được sinh ra để giáo dục trẻ em về những giá trị truyền thống, đạo đức tốt đẹp. Còn bố được sinh ra để dạy trẻ em thêm hiểu biết, trưởng thành. Cuối cùng trường lớp là nơi trẻ em đến để học tập, vui chơi còn thấy giáo là người dạy dỗ trẻ em ở đó. Có thể khẳng định, với bài thơ này, Xuân Quỳnh muốn gửi gắm tình yêu thương của Xuân Quỳnh dành cho trẻ em.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 3)

Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh giúp người đọc thấy được sự biến chuyển đầy tinh tế của cảnh vật trong không gian cuối hạ đầu thu. Mùa thu được nhà thơ cảm nhận qua từng giác quan như khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương chùng chình). Từ đó, những tín hiệu đặc trưng nhất của mùa thu cũng lần lượt xuất hiện. Dưới mặt đất, dòng chảy của con sông trở nên chậm hơn, không cuồn cuộn như lúc hè về. Trên bầu trời, từng đàn chim sải cánh bay bắt đầu trở nên vội vã, âu lo tìm về phương nam tránh cái lạnh. Đám mây của mùa hạ nay đã “vắt nửa mình sang thu”, nửa nghiêng về mùa hạ, nửa lại nghiêng về mùa thu. Dường như, những sự vật thiên nhiên trong bài thơ đã được tác giả thổi vào đó những hành động của con người. Ở hai khổ thơ đầu, tác giả bộc lộ cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên. Thì đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc ấy chuyển sang suy tư, triết lý. Những hiện tượng thiên nhiên như “nắng”, “mưa”, “sấm” là biểu tượng cho những biến cố xảy đến với con người trong cuộc sống. Còn “hàng cây đứng tuổi” chính là hình ảnh của những con người đã từng trải, đã bước qua thời tuổi trẻ. Triết lí mà nhà thơ muốn gửi gắm là những con người từng trải khi gặp phải sóng gió sẽ biết cách đối diện, đương đầu một cách bình thản, trưởng thành hơn. Như vậy, bài thơ đã gợi lên những cảm nhận tinh tế về sự chuyển biến của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Và từ những tín hiệu của mùa thu đến khung cảnh thiên nhiên lúc vào thu, tác giả đã có những suy tư sâu sắc về cuộc đời.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 4)

Bài thơ “Con chim chiền chiện” của Huy Cận đã đem đến cho tôi nhiều cảm nhận. Hình ảnh trung tâm của bài thơ - con chim chiền chiện được nhà thơ khắc họa thật chân thực và sống động. Cánh chim bay vút trên trời, với tiếng hót long lanh giống như cành sương chói, hình ảnh so sánh kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng hót giờ đây không chỉ được cảm nhận bằng thính giác mà còn có thể nhìn thấy bằng thị giác - đầy long lanh, giống như hình ảnh giọt sương trên cành cây được nắng chiếu sáng. Những câu thơ tiếp theo khiến chúng ta có cảm thấy dường như chim chiền chiện đang trò chuyện với con người. Chúng đang làm tốt nhiệm vụ của mình, gieo những niềm vui đến với thế gian, cánh chim bay mãi đến trời xanh dường như không biết mệt mỏi. Với những dòng thơ trong trẻo, đẹp đẽ của mình, nhà thơ cũng muốn gửi gắm một bức thông điệp ý nghĩa rằng con người cần có giao hòa, gắn bó với thiên nhiên để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đồng thời thêm yêu mến, trân trọng thiên nhiên.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 5)

“Sang thu” của Hữu Thỉnh là một bài thơ vô cùng hấp dẫn viết về chủ đề thiên nhiên đất trời vào thu. Nét độc đáo của bài thơ này không chỉ là những dòng thơ hay mà còn thể hiện qua những cảm nhận tinh tế bằng nhiều giác quan, nhiều góc độ, nhiều hình ảnh mới lạ như “hương ổi, gió se, sương, dòng sông” hay như những đám mây trời vắt nửa mình sang thu. Đây cũng là những hình ảnh gợi lên bài thơ sang thu một nét độc đáo. Không những thế, tác giả còn cảm nhận thu bằng đầy đủ các giác quan như: thính giác, khứu giác, thị giác. Đặc biệt, nhà thơ còn cảm nhận mùa thu từ xa (hương ổi) đến gần (sương) từ cáI vô hình (gió se, hương ổi) đến cái hữu hình (dòng sông). Thật biết ơn nhà thơ đã mang đến cho chúng ta một bài thơ khác lạ so với những bài thơ thu trước đó.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 6)

Bài thơ “Đánh thức trầu” của Trần Đăng Khoa đã đem đến cho người đọc nhiều ấn tượng. Lời hát của người bà giống như một chiếc cầu nối quá khứ vào hiện tại. Đó là quan niệm xưa về cách hái trầu - khi hái trầu vào ban đêm, phải gọi cho trầu tỉnh ngủ rồi mới xin “hái vài lá”. Còn lời hát của em bé thể hiện tình cảm dành cho cây trầu. Cách xưng hô “mày - tao” thật gần gũi, thân thiết. Từ đó, em bé bộc lộ mong muốn được hái trầu “Tao hái vài lá nhé” và hy vọng trầu sống mãi, tiếp tục phát triển: “Đừng lụi đi trầu ơi”. Bài thơ đem đến cho chúng ta bức tranh mát lành của thôn quê mà còn gửi đến bạn đọc tình yêu thương, trân trọng những điều nhỏ bé trong cuộc đời. Bài thơ tuy ngắn gọn nhưng giàu ý nghĩa.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 7)

Bài thơ “Những cánh buồm” của nhà thơ Hoàng Trung Thông đã để lại cho tôi nhiều cảm xúc. Trước hết, hình ảnh người cha “dắt con đi” được lặp lại nhiều lần cho thấy tình yêu thương, sự che chở dẫn dắt của người cha trên hành trình cùng con đi đến đến tương lai. Tiếp đến hình ảnh đứa con thể hiện sự tin tưởng, yêu thương dành cho cha. Con đề nghị “Cha mượn cho con buồm trắng nhé/Để con đi”. Những cánh buồm đã gửi gắm ước mơ của con. Cánh buồm kiêu hãnh ngoài biển khơi thể hiện khao khát được đi xa để khám phá, hay cũng chính là cha thuở trước. Người cha cảm thấy tự hào khi thấy con mình cũng ấp ủ những ước mơ cao đẹp. Qua đây, tác giả cũng ca ngợi ước mơ được khám phá cuộc sống của trẻ thơ, những ước mơ làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Bằng giọng thơ chân thành giản dị, “Những cánh buồm” đã lưu lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 8)

Mhà thơ Ta-go đã gợi lên trong em những cảm xúc trìu mến về tình mẫu tử thiêng liêng qua bài thơ Mây và sóng. Hình ảnh đứa trẻ nhỏ ở trong bài thơ hiện lên thật ngô nghê nhưng chứa chan tình thương yêu dành cho mẹ của mình. Là một đứa trẻ, những trò chơi, những nơi vui chơi mới lạ, những ngày chỉ có rong chơi không phải học tập thật hấp dẫn biết bao. Thế nhưng, người con đã cưỡng lại được những lời mời gọi hấp dẫn ấy của người trên mây, trong sóng. Bởi, đối với người con, hơn tất cả những điều ấy chính là người mẹ đang chờ đợi ở nhà. Nghĩ đến mẹ, tất cả những trò chơi đều trở nên kém hấp dẫn. Người con còn tự nghĩ ra những trò chơi thú vị, để được ở cùng mẹ, được lăn vào lòng mẹ, được cùng mẹ cười tan. Những điều giản dị, mộc mạc ấy khiến người con vui sướng khôn cùng. Bởi chỉ cần được ở bên mẹ là đã hạnh phúc lắm rồi. Tình cảm thuần túy, nồng ấm ấy của người con khiến em như được nhìn thấy chính mình. Bởi em cũng yêu mẹ của mình lắm, cũng vui sướng lâng lâng khi được mẹ ôm vào lòng, thủ thỉ trò chuyện. Thật tuyệt biết mấy khi được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ!

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 9)

Em rất yêu thích khổ thơ thứ hai trong bài thơ Chuyện cổ tích về loài người của nhà thơ Xuân Quỳnh. Tác giả đã thật tinh tế mà miêu tả những sự vật đầu tiên xuất hiện trên trái đất, sau khi có trẻ con. Điều đó thể hiện ở chỗ, bởi trẻ con rất bé nhỏ và vừa mới xuất hiện, nên các sự vật ấy cũng thật nhỏ xinh. Cây chỉ cao bằng gang tay, lá cỏ chỉ to như sợi tóc, bông hoa chỉ bằng cái cúc áo. Nhưng cũng thật là hợp lí, bởi mọi vật đều sinh ra để chăm sóc cho trẻ con, vậy nên nó phải có kích thước phù hợp. Đặc biệt, cách mà nhà thơ dẫn dắt sự xuất hiện của mọi thứ cũng thật là thú vị. Bởi cái gì cũng hiện diện bởi sự “cần” của em bé. Vì trẻ con cần nhìn rõ, nên mới có mặt trời. Vì trẻ con cần được quan sát, vui vẻ nên có cây cối, cỏ hoa và tiếng chim hót. Điều đó, khiến em cảm nhận được sự ưu ái, yêu thương của vạn vật dành cho em nhỏ - mầm non, tương lai của thế giới. Từ đó, cả khổ thơ đã giúp người đọc mường tượng ra những đốm sáng đầu tiên bắt đầu lan tỏa ra, điểm tô cho thế giới từ chính trẻ con.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 10)

Trong bài thơ Chuyện cổ tích về loài người của nhà thơ Xuân Quỳnh, em thích nhất là khổ thơ cuối. Ở đó, em thấy hình ảnh ngôi trường được hiện lên thật mộc mạc và giản dị. Trật tự thông thường đã được xáo trộn lên, tạo cảm giác thú vị khi đọc. Đầu tiên là những con chữ xuất hiện, rồi đến ghế, đến bàn, rồi mới có lớp có trường. Sau cùng, là thầy cô giáo tiến đến, giảng dạy cho em bao điều hay. Em rất ấn tượng với các kể này của tác giả, bởi ở đây, tất cả đều xuất hiện vì trẻ con, vì muốn được dạy cho trẻ con những điều hay lẽ phải, những điều thú vị bổ ích. Từ đó, vai trò và khát vọng học tập của thiếu nhi chúng em được quan tâm và đề cao hơn cả. Đặc biệt, là câu thơ cuối cùng "Chuyện loài người trước nhất". Nó vừa là lời kết cho cả một câu chuyện kể về loài người của nhà thơ Xuân Quỳnh. Nhưng cũng là câu thơ mở ra về những câu chuyện khác về loài người do chính trẻ con chúng em kể. Mỗi người sẽ có những câu chuyện của riêng mình. Điều đó đã khiến cho bài thơ thêm ý nghĩa và truyền cảm hứng cho người đọc.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 11)

Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là một bài thơ chứa đầy hàm súc, là sự tiếc nuối của tác giả về một nền văn học đã từng rất rực rỡ. Ở hai khổ đầu, tác giả đã tái hiện lại không khí ngày tết xưa khi ông đồ còn được trọng dụng. Tết đến xuân về, hoa đào đua nhau khoe sắc thắm, phố phường đông vui, tấp nập và ông đồ xuất hiện bên hè phố bán đôi câu đối để mọi người trưng trong nhà như một văn hóa không thể thiếu ngày đầu năm mới. Những nét chữ thanh thoát như phượng múa rồng bay, gửi gắm cả tâm hồn và tấm lòng người viết. Thế nhưng theo thời gian, phong tục treo câu đối ngày tết không còn được ưa chuộng. Từ “nhưng” như nốt trầm trong khúc ca ngày xuân, cho thấy sự thay đổi trong bước đi chầm chậm của thời gian. Người tri âm xưa nay đã là khách qua đường. Niềm vui nhỏ nhoi của ông đồ là được mang nét chữ của mình đem lại chút vui cho mọi người trong dịp tết đến xuân về nay đã không còn. Nỗi buồn của lòng người khiến những vật vô tri vô giác như giấy đỏ, bút nghiên cũng thấm thía nỗi xót xa. Hình ảnh ông đồ xưa vốn gắn với nét đẹp truyền thống về nền văn hóa nho học, nay dần bị lãng quên “Lá vàng bay trên giấy/Ngoài trời mưa bụi bay”. Ông vẫn ngồi đấy nhưng chẳng mấy ai còn để ý, lá vàng rơi giữa ngày xuân trên trang giấy nhạt phai như dấu chấm hết cho sự sinh sôi. Hạt mưa bụi nhạt nhòa bay trong cái se lạnh như khóc thương, tiễn biệt cho một thời đại đang dần trôi vào dĩ vãng. Ta như cảm nhận được qua tứ thơ là tâm trạng của thi nhân, phảng phất một nỗi xót thương, nỗi niềm hoài cổ nhớ tiếc của nhà thơ cho một thời đã qua. Và câu hỏi cuối bài thơ như lời tự vấn cũng là hỏi người, hỏi vọng về quá khứ với bao ngậm ngùi “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?”. Ông đồ vắng bóng không chỉ khép lại một thời đại của quá khứ, đó còn là sự mai một truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Bài thơ đã chạm đến những rung cảm của lòng người, để lại những suy ngẫm sâu sắc với mỗi người.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 12)

Bài thơ "Con chim chiền chiện" được nhà thơ Huy Cận viết vào năm 1967, in trong tập "Hai bàn tay em". Khung cảnh thiên thiên bao la, tươi đẹp là tấm nền để cánh chim bay cao vút trong không gian, cất cao tiếng hót ngọt ngào. Chiền chiện là cánh chim của bầu trời cao xanh, là chim của đồng quê mang tình thương mến, chim càng bay cao tiếng hót càng trong veo. Cánh chim chiền chiện tung bay là cánh chim tự do trên bầu trời quê hương đất nước. Hình ảnh con chim chiền chiện tự do bay lượn giữa không gian cao rộng được vẽ lên qua những từ ngữ, hình ảnh đầy ấn tượng. Tiếng hót của chim chiền chiện đã mở ra một khung cảnh bình yên, tươi đẹp cho đất nước, làm say mê lòng người đọc. Bài thơ không chỉ là miêu tả khung cảnh quê hương, đất nước tươi đẹp dưới tiếng hót, dưới cánh chim chiền chiện mà qua đó còn bộc lộ tình yêu đất nước, yêu thiên của tác giả, là khao khát về một cuộc sống tự do, hòa bình.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 13)

Bài thơ Sang Thu của tác giả Hữu Thỉnh là một trong những bài thơ tôi ấn tượng sâu sắc nhất bởi cách nhìn đầy tinh tế của tác giả khi miêu tả cảnh sắc thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa. Với khổ thơ đầu tiên, tôi như thấy mình ở trong không gian nơi vườn thôn, ngõ xóm với sự lan toả của hương ổi và cái sẽ lạnh của gió nhờ động từ "phả". Đồng thời, với thủ pháp nhân hóa sương "chùng chình", tôi thấy được sự quấn quýt, chầm chậm của sương. Tất cả đã làm nên sự giao thoa của tạo vật khiến cho tôi không khỏi ngỡ ngàng và xao xuyến. Có thể thấy, hình ảnh đất trời thu sang trong không gian dài, rông cao, đã được bộc tả rõ nét hơn qua những câu thơ ở khổ 2 bằng nghệ thuật nhân hóa: sông "dềnh dàng", chim "vội vã", đám mây "vắt nửa mình sang thu". Kết lại bài thơ bằng khổ 3 với đầy suy tư của tác giả, ông đã khéo léo sử dụng các thủ pháp nhân hóa "sấm bất ngờ", "hàng cây đứng tuổi" và thủ pháp ẩn dụ hàng cây - con người. Bài thơ đã đem lại sự lắng đọng đến với người đọc, đầy bâng khuâng, cảm xúc, gợi bao suy nghĩ về đời người lúc sang thu. Qua đó, đã giúp tôi có cái nhìn chiêm nghiệm về cuộc đời con người.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 14)

Một bài thơ năm chữ mà em rất yêu thích là bài thơ Bắt nạt của nhà thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh. Bài thơ với giọng điệu của một cậu học sinh vừa hồn nhiên lại dũng cảm, đã giúp đề tài bài thơ bớt phần căng thẳng. Cậu bé trong bài thơ đã mạnh dạn đứng lên, đối diện với những “kẻ bắt nạt”. Nói cho những kẻ đó bắt nạt là xấu lắm, là không nên chút nào. Cậu còn khuyên nhủ các bạn ấy hãy tìm những việc có ý nghĩa khác để làm. Nếu không thì cứ đến gặp mình, đừng bắt nạt bạn nhỏ yếu đuối. Tinh thần trượng nghĩa ấy khiến em rất ngưỡng mộ và khâm phục bạn nhỏ. Cuối bài thơ, bạn nhỏ khẳng định rằng “bắt nạt rất hôi”. Chính chi tiết đó đã làm cho bài thơ kết thúc nhẹ nhàng, vui vẻ và rất ấn tượng.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 15)

Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947, khi quân và dân ta đang thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc. Sông Lô, Đoan Hùng đã đi vào lịch sử bằng những nét vàng chói lọi đầu tiên của ta trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc. Cùng với các bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc của Bác trong một đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc. Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Nếu giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, thì tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 16)

Tình cảm bà cháu là tình cảm đẹp đẽ, thiêng liêng và vô cùng sâu nặng. Tình cảm đó đã hằn sâu trong kí ức tuổi thơ của người chiến sĩ. Do vậy, trên đường hành quân xa, chỉ một tiếng gà cục tác đã gợi dậy những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ, đáng nhớ về bà. Đó là sự chắt chiu, tần tảo với bao nỗi lo, bao niềm mong ước của bà với tình thương bao la dành cho cháu. Những kỉ niệm đó thật bình dị mà thiêng liêng! Nó nhắc nhở, lay động bao tình cảm đẹp dâng lên trong lòng người chiến sĩ trên đường hành quân ra mặt trận chiến đấu. Tình cảm tốt đẹp đó sẽ mãi là hành trang theo bước chân của người chiến sĩ, tiếp thêm sức mạnh cho anh trong cuộc chiến đấu hôm nay.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 17)

Mẹ là đề tài muôn thủa trong thi ca. Góp nhặt vào đề tài đó Đỗ Trung Lai thể hiện thành công nỗi lòng đau đớn xót xa của người con khi thấy hình ảnh mẹ ngày càng hao mòn, lưng còng đi, thấp dần đi và mái đầu bạc mà bất lực. Hình ảnh đó được thể hiện rõ nét qua những câu thơ:

Một miếng cau khô

Khô gầy như mẹ

Con nâng trên tay

Không cầm được lệ”.

Cau khô là miếng cau chuyển từ màu xanh sang màu nâu và không thể ăn được nữa, không còn độ ngon nữa. Tác giả mượn hình ảnh cau khô để so sánh với mẹ. Nhìn miếng cau khô tác giả liên tưởng đến người mẹ già luống tuổi hanh hao mà lòng rưng rưng “không cầm được lệ”. Và hình ảnh so sánh độc đáo đó chứa sức gợi lớn trong lòng em, từ hình ảnh người mẹ của tác giả em lại nghĩ về người mẹ thân yêu của mình cũng ngày một già đi, vì thế mà em càng trân trọng mẹ và trân trọng tứ thơ này. Đoạn thơ ngắn gọn với biện pháp so sánh độc đáo đã thể hiện cái nhìn tinh tế, nỗi xúc động và tình thương mẹ sâu sắc của nhà thơ.

Chia sẻ cảm xúc về một bài thơ bốn chữ hoặc năm chữ mà em yêu thích (Mẫu 18)

Bài thơ Đồng dao mùa xuân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ gây ấn tượng mạnh với em về hình tượng người lính. Người lính trong bài thơ vẫn là người lính dũng cảm, chiến đấu kiên cường vì độc lập của tổ quốc. Nhưng cùng với đó, em được thấy một mặt “trẻ con” hơn, “đời thường” hơn của những người anh hùng ấy. Các anh cũng mê trò thả diều, cũng sợ vị đắng chát của cà phê. Chao ôi, ấy thế mà khi tổ quốc gọi tên, các anh đã dũng cảm gác lại tất cả để ra chiến trường. Các anh hi sinh tuổi xuân của mình trong những năm tháng ác liệt ấy, để thắp nên mùa xuân cho quê hương. Em vô cùng đau lòng và thương tiếc trước sự ra đi của các anh. Đồng thời càng thêm kính trọng và biết ơn những người lính trẻ ấy. Chắc chắn, em sẽ tiếp bước các anh, dựng xây quê hương ngày càng phát triển hơn nữa.

 

Lời giải

Dàn Ý Viết Đoạn Văn Ghi Lại Cảm Xúc Về Bài Thơ Lời Của Cây

1. Mở đoạn:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu ấn tượng, cảm nhận chung của em về bài thơ.
2. Thân đoạn:
- Nêu cảm xúc về nội dung của bài thơ.
- Nêu cảm nhận về hình thức nghệ thuật của bài thơ: thể thơ, biện pháp nghệ thuật,...
3. Kết đoạn:
- Khái quát được cảm xúc về bài thơ.

Đoạn văn mẫu số 1

Bài thơ "Lời của cây" của tác giả Trần Hữu Thung đã để lại cho em những rung động sâu sắc. Với cách dẫn dắt thú vị cùng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, tác giả đã gợi lên quá trình sinh trưởng và phát triển của mầm cây, qua đó bày tỏ tình cảm của mình với cỏ cây thiên nhiên. Bài thơ có 6 khổ, được viết theo thể thơ bốn chữ, mỗi khổ thơ là mỗi bước sinh trưởng của mầm cây. Khổ thơ thứ nhất là hình ảnh chiếc hạt gieo mình xuống đất, nằm lặng thinh trong hơi ấm của đất mẹ. Qua khổ thơ thứ hai, hạt bắt đầu nảy mầm, nhú lên những giọt sữa trong ngần. Ta như nghe thấy những thanh âm thầm thì của mầm non. Rồi chiếc mầm non nớt dần lớn lên dưới sự ưu ái, chăm sóc, nâng niu của mẹ thiên nhiên và những tia nắng mặt trời dịu nhẹ, ấm áp. Theo thời gian, cây đã trưởng thành hơn, mầm non thành lá bé xanh tươi, "bập bẹ" tiếng nói. Đến khổ thơ cuối cùng, cây trưởng thành và cất tiếng nói của mình, hoà vào mẹ thiên nhiên nhiên, hiểu được vai trò của mình trong việc tạo nên màu xanh cuộc đời. Biện pháp nghệ thuật nhân hoá được tác giả vận dụng tinh tế "hạt nằm lặng thinh", "mầm mở mắt",... kết hợp cùng các động từ "nghe", "ghé tai",... không chỉ tạo nên nét sinh động của thiên nhiên mà còn thể hiện được những cảm xúc thương yêu trìu mến của tác giả với những mầm cây. Bài thơ với những vần thơ hồn nhiên, trong sáng, hình ảnh thơ gần gũi đã gợi lên trong em nhiều cảm xúc khó tả. Gấp trang sách lại, những vần thơ "Lời của cây" vẫn còn đọng mãi trong tâm trí em. Em thấy mình cần phải biết trân trọng và bảo vệ thiên nhiên, nâng niu những mầm xanh sự sống của cuộc đời.

Đoạn văn mẫu số 2

Bài thơ "Lời của cây" của Trần Hữu Thung đã để lại trong em nhiều ấn tượng sâu đậm. Với thể thơ bốn chữ quen thuộc cùng cách ngắt nhịp 2/2 đều đặn, âm điệu nhẹ nhàng đã khắc họa sinh động quá trình ra đời và lớn lên của mầm cây. Tác giả đã thể hiện những cảm xúc trìu mến thương yêu khi khắc họa quá trình sinh trưởng của cây. Từ khi còn là một chiếc hạt được "cầm trong tay mình" rồi gieo xuống đất, nhú lên những chiếc mầm non và lớn lên bằng sự chở che, yêu thương của mẹ thiên nhiên. Thể thơ bốn chữ ngắn gọn cùng biện pháp nghệ thuật nhân hoá qua những câu thơ "Mầm đã thì thầm", "Nghe mầm mở mắt" đã diễn tả những nét trạng thái, hoạt động của mầm xanh một cách sinh động. Qua đó, ta cảm nhận được thiên nhiên cũng có tiếng nói, tâm hồn của riêng mình. Đọc bài thơ, em thêm yêu quý thiên nhiên, biết lắng nghe, bảo vệ những mầm xanh, những chồi non góp xanh cho đất trời.

Đoạn văn mẫu số 3

Trong những bài thơ đã được học, em yêu thích nhất bài "Lời của cây" của Trần Hữu Thung. Tác giả đã khéo léo sử dụng thể thơ bốn chữ, cách ngắt nhịp 2/2 quen thuộc, gieo vần chân làm cho người đọc dễ nhớ, dễ thuộc. Năm khổ thơ đầu là lời của nhân vật trữ tình cất lên khi nghe lời tâm tình của mầm cây. Khổ cuối bài là lời của mầm cây khi đã trưởng thành, cây xanh cất tiếng nói của chính mình vào bản hòa ca cuộc sống. Bằng sự gần gũi, giao cảm đầy tinh tế với thiên nhiên, tác giả đã thể hiện tình cảm yêu thương, nâng niu, trân trọng của mình với sự sống. Những câu thơ tha thiết yêu thương đã đem lại cho em biết bao xúc cảm. Thiên nhiên và con người như hoà làm một, gần gũi và gắn bó. Biện pháp nhân hóa được sử dụng trong các câu thơ "Mầm đã thì thầm", "Nghe mầm mở mắt" khiến những hoạt động, trạng thái của mầm cây càng trở nên sinh động. Lời mời gọi tự nhiên mà thân thuộc "rằng các bạn ơi" và cách ngắt nhịp 1/3 trong khổ cuối bài thơ đã thể hiện khao khát mãnh liệt, mong muốn được mọi người thấu hiểu của loài cây. Tác phẩm "Lời của cây" tuy ngắn gọn nhưng đã gửi gắm tới mỗi chúng ta một thông điệp đầy sâu sắc: Hãy lắng nghe lời của thiên nhiên để biết yêu thương, nâng đỡ và bảo vệ. Mỗi loài cây, mỗi mầm sống dù là nhỏ bé đều mang trong mình một sứ mệnh, nó góp phần tạo nên sự sống, tạo nên màu xanh đất trời.

Đoạn văn mẫu số 4

Khi đọc bài thơ “ Lời của cây” của tác giả Trần Hữu Thung mỗi người đọc như được cuốn vào câu chuyện kể về quá trình trưởng thành của cây. Khi nói đến quá trình phát triển của cây người ta thường nghĩ ngay đến một quá trình được miêu tả bằng những thuật ngữ khoa học khô khan. Đến với “ Lời của cây” mỗi người đọc sẽ nhận được những ngôn từ đậm chất nhận thưc và cảm xúc trong văn bản. Khổ thơ thứ nhất chính là khởi đầu của cây khi còn là mầm và nằm lăng thinh trong tay nhân vật trữ tình. Hạt lúc này còn đang nằng nặng thinh thì đến với những khổ thơ sau hạt đã có tiếng nói đã nảy mầm và trở thành cây. Khổ thơ thứ hai sử dụng biện pháp nghệ thuận nhân hóa “Mầm đã thì thầm” mầm lúc này đã cất lên tiếng nói đầu tiên của sự sống. Không chỉ vật mầm còn gây ấn tượng với người đọc bới những từ ngữ giàu chất biểu đạt “nhú”, “giọt sữa”. Tiếp theo khi hạt phát triển thì chiếc vỏ hạt lúc này như chiếc nôi xinh xắn ôm ấp mầm cây ở giữa, mầm cây được chăm sóc như em bé vậy. Đến khổ thơ thứ tư, mầm cây đã lớn thêm một chút. Nhà thơ đã lắng nghe được tiếng “bập bẹ” từ lá, từ láy “bập bẹ” đặt trong phép nhân hóa khiến ta liên tưởng đến giai đoạn tập nói. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh của ngày mai – một ngày mai tràn đầy màu xanh tươi mới của cây gợi lên một sự sống trường tồn, bất diệt. Bài thơ không chỉ thú vị ở lời thơ, hình ảnh trong bài mà còn là thông điệp mà tác giả muốn gửi  đến người đọc: Hãy yêu cây xanh bởi cây xanh tạo nên một cuộc sống tươi mới, tràn đầy sức sống.

Đoạn văn mẫu số 5

Bài thơ “Lời của cây” được tác giả Trần Hữu Thung sáng tác gửi gắm đến bạn đọc thông điệp ý nghĩa. Với thể thơ bốn chữ ngắn gọn, hình ảnh thơ gần gũi, bài thơ ghi lại một cách sinh động quá trình hạt phát triển thành cây: nằm lặng thinh, nảy mầm, nhú lên giọt sữa, thì thầm, mầm mở mắt, đón tia nắng hồng, nở vài lá bé. Mầm cây được nhân hóa giống như một con người, có sức sống mãnh liệt. Qua đó, nhà thơ muốn thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng mà nhân vật trữ tình dành cho mầm cây. Bức thông điệp mà bài thơ đã gửi gắm đến bạn đọc: “Hãy yêu cây xanh, trân trọng sự sống của cây, bởi cây làm nên một phần cuộc sống xinh đẹp, đáng yêu này”.

Đoạn văn mẫu số 6

Lời của cây là một bài thơ mang đậm phong cách sáng tác của nhà thơ Trần Hữu Thông. Quá trình phát triển của một mầm cây được tác giả khắc họa thật sinh động. Ở khổ thơ thứ nhất, cây vẫn còn là hạt mầm nằm lặng thinh. Đến khi hạt bắt đầu nảy mầm xanh, đã có thể cất tiếng nói thì thầm. Khi hạt phát triển thì chiếc vỏ của hạt lúc này như chiếc nôi xinh xắn ôm ấp mầm cây. Cách viết này gợi liên tưởng mầm cây giống như một em bé đang được chăm sóc ân cần. Đến khi mầm cây đã phát triển, người đọc dường như lắng nghe được tiếng “bập bẹ” của lá. Từ láy “bập bẹ” khiến ta liên tưởng đến giai đoạn tập nói của một đứa trẻ. Kết thúc bài thơ là hình ảnh cây đã phát triển, với một ngày mai tràn đầy màu xanh tươi mới của cây gợi lên một sự sống trường tồn, bất diệt. Bài thơ không chỉ thú vị ở lời thơ, hình ảnh trong bài mà còn là thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc rằng hãy biết yêu và bảo vệ cây xanh bởi chúng đã tạo nên một cuộc sống tươi mới, tràn đầy sức sống.

Đoạn văn mẫu số 7

Đến với tác phẩm “Lời của cây”, người đọc đã cảm nhận được một thông điệp ý nghĩa. Bài thơ giống như một cuốn nhật kí ghi lại hành trình phát triển của cây, từ khi còn là hạt mầm đến khi trở thành cây. Giọng thơ nhẹ nhàng giống như một lời tâm tình, trò chuyện với cây. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh, từ ngữ đặc sắc mà tác giả đã sử dụng trong bài thơ để miêu tả quá trình từ hạt thành cây: nằm lặng thinh, nảy mầm, nhú lên giọt sữa, thì thầm, mầm mở mắt, đón tia nắng hồng, nở vài lá bé. Chúng ta có thể cảm nhận được cây cũng có tâm hồn, giống như con người. Và giữa cây với nhân vật trữ tình trong bài có một mối giao cảm, thấu hiểu đến kì lạ. Từ đây, người đọc nhận ra thông điệp mà nhà thơ gửi gắm. Con người cần biết lắng nghe để thấu hiểu và biết trân trọng những mầm xanh của sự sống.

Đoạn văn mẫu số 8

Lời của cây là một trong số những bài thơ mang đậm phong cách Trần Hữu Thung: Mộc mạc, thấm nhuần chất dân gian. Sử dụng thể thơ bốn chữ, lối viết giản dị, gần gũi, đặc biệt là phép tu từ nhân hóa, bài thơ ghi lại một cách sinh động quá trình hạt phát triển thành cây. Từ khi hạt "lặng thinh" chưa được gieo xuống đất, đến khi hạt nảy mầm, nhú lên những "giọt sữa" biết "thì thầm" những tiếng nói đầu tiên và khi đã thành cây non "bập bẹ" cất tiếng nói - tiếng nói đầy tự hào khẳng định giá trị loài cây.. tất cả được đặt trong sự liên tưởng độc đáo, thú vị. Sự trưởng thành của cây có những nét tương đồng với sự trưởng thành của một con người. Điều đặc biệt là ở đây là cây cối không vô tri vô giác mà cũng có tiếng nói. Nhà thơ như nghe thấy trong sự trưởng thành của cây những thanh âm của sự sống. Nhà thơ lắng nghe cây như lắng nghe lời thì thầm vang vọng từ thiên nhiên. Và thay thiên nhiên, cây cỏ, tác giả đã nói lên "lời của cây".

Đoạn văn mẫu số 9

Bài thơ Lời của cây là bài thơ bốn chữ mà em rất yêu thích. Nhà thơ Trẫn Hữu Thung đã tái hiện lại quá trình phát triển của một cây non, từ lúc mới chỉ là một chiếc hạt nhỏ. Được chăm bón, vun trồng, chiếc hạt bé nhỏ dần trổ mầm, hé những chiếc lá non đầu tiên, rồi dần dần cao lớn, trưởng thành. Cây con vui sướng tự hào nói với mọi người rằng, mình sẽ giúp ích cho cuộc đời, đem màu xanh đến cho trái đất. Các hình ảnh thơ ấy được diễn đạt bằng các ngôn từ trong sáng, mộc mạc, đã gợi lên trong em niềm yêu thương dành cho những chiếc cây con nhỏ bé. Và cảm nhận được sâu sắc sự liên kết giữa con người và cỏ cây, thiên nhiên. Những tình cảm đó đã được bài thơ Lời của cây khơi lợi lên trong em.

Đoạn văn mẫu số 10

Điều thú vị khi đọc bài thơ là người đọc như được cuốn vào câu chuyện kể về sự trưởng thành của cây. Khi nói đến quá trình phát triển của cây, ta thường hình dung đến những kiến thức, thuật ngữ khoa học khô khan. Nhưng với "Lời của cây", ngôn từ đậm chất nghệ thuật đã phát huy tối đa tính gợi hình, biểu cảm của nó để mang đến người đọc những nhận thức và cảm xúc mới mẻ. Khổ thơ thứ nhất cho ta biết khởi đầu của cây là hạt. Cách biểu đạt lạ ở chỗ hạt khi chưa gieo vào đất, chưa nảy mầm thì hạt "lặng thinh" chưa có tiếng nói. Dấu hiệu của phép tu từ nhân hóa đã báo hiệu những điều thú vị ở những khổ sau. Quả vậy, khổ thơ thứ hai không chỉ tiếp tục phát huy hiệu quả biểu đạt của phép nhân hóa "Mầm đã thì thầm" cất lên tiếng nói đầu tiên của sự sống mà còn gây ấn tượng ở các từ ngữ giàu giá trị biểu đạt "nhú", "giọt sữa". Hai từ này gợi lên hình ảnh mầm cây vừa hé lên khỏi mặt đất - non tơ, mỡ màng. Trong khổ ba, nhà thơ tiếp tục hình dung vỏ hạt như chiếc nôi xinh xắn ôm ấp mầm cây ở giữa, bên nôi là tiếng bàn tay vỗ, tiếng ru hời. Mầm cây được chăm chút như em bé vậy. Quả là một liên tưởng độc đáo khiến người đọc thích thú. Đến khổ thơ thứ tư, mầm cây đã lớn thêm một chút, vài lá bé đã nở ra. Và nhà thơ như đang lắng nghe được tiếng "bập bẹ" của lá xanh. Từ láy "bập bẹ" đặt trong phép nhân hóa khiến ta liên tưởng em bé đang đến giai đoạn tập nói. Trong những tiếng "bập bẹ" đầu đời ấy, nhà thơ đã nghe thấy niềm tự hào của mầm non khi được làm một cái cây, ngày mai sẽ góp xanh cho đời. Bài thơ kết lại bằng hình ảnh của ngày mai - ngày mai tràn đầy màu xanh tạo nên bởi cây cối, gợi lên sự sống trường tồn, bất diệt. Như vậy, bài thơ không chỉ thú vị ở nghệ thuật biểu hiện mà còn sâu sắc ở thông điệp: Hãy yêu cây xanh, bởi cây xanh làm nên một phần cuộc sống đáng yêu này.

Lời giải

Mẫu 1

Nếu mùa xuân là mùa hội tụ của những bàn tay nghệ sĩ tài hoa thì mùa thu bước vào thơ ca cũng tự nhiên và gần gũi. Trước đây Nguyễn Khuyến nổi tiếng với ba bài thơ thu, sau này Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới”. Nhỏ nhẹ, khiêm nhường Hữu Thỉnh cũng góp vào cho mùa thu đất nước một góc quê hương “Sang thu”

Với “Sang thu”, Hữu Thỉnh miêu tả bức tranh thu bằng những bước chuyển mình đầy tinh tế của vạn vật trước thời khắc giao mùa. Thời gian bao giờ cũng là quy luật và tất cả mọi thứ đều phải vận động theo quy luật ấy. Hình như các sự vật trong bài thơ cũng vậy, chuyển mình vào thu một cách đầy chủ động.

Bài thơ mở đầu bằng một phát hiện bất ngờ:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

“bỗng nhận ra hương ổi”- một trạng thái chưa hề được chuẩn bị, như là vô tình như là sửng sốt như là cơ duyên để từ đây nhà thơ có thể quan sát xuất hiện của mùa thu trong trời đất bằng tất cả giác quan và cũng chính từ góc nhìn này, hình ảnh của cả sự vật sang thu được nhà thơ đưa vào ống kính.

Mở đầu là một làn hương thật đặc biệt của mùa thu Việt Nam, hương ổi – phả vào gió buổi sớm. “Phả” – một động từ mang ý nghĩa chủ động tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian. Sự góp mặt của màn sương buổi sớm cùng với hương ổi làm con người chợt giật mình thảng thốt: Hình như thu đã về. Hai đặc điểm để cảm nhận mùa thu Hương ổi, làn sương không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa, mà là một chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. có lẽ, chỉ với Hữu Thỉnh làn hương ổi rất quen của Việt nam mà rất lạ với nhà thơ được đưa vào thơ một cách tự nhiên. Cũng từ đây, một loạt những hình ảnh quen mà lạ ấy sẽ xuất hiện để làm nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng vô vùng:

“Sóng được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Toàn là những sự vật được lựa chọn để miêu tả cảnh đất trời vào thu đang ở trạng thái “ngập ngừng” nhưng sự ngập ngừng đầy chủ động. “Sông được lúc, chim bắt đầu, đám mây, vắt nửa mình” với cách diễn đạt này hình ảnh của sự vật không chỉ hiện lên ở thời điểm hiện tại mà còn dẫn người đọc liên tưởng về quá khứ của chúng, một quá khứ chưa xa “quá khứ màu hạ” và chắc rằng, đó là một quá khứ đầy sôi nổi. Khiến cho đâu đó trong không gian dâng lên một niềm tiếc nuối:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Nắng – hình ảnh cụ thể của màu hạ - đang là hiện tại nhưng mưa màu hạ đã trở thành quá khứ. Trạng thái này của thời tiết lại một lần nữa như khẳng định sự ngập ngừng thì thời gian vẫn bước đi vô tình của nó, và hàng cây sẽ bớt bất ngờ nếu mọi ngày vẫn xanh là thế mà giờ đây đã trở thành “hàng cây đứng tuổi”. Hàng cây đứng tuổi – hình ảnh gợi lên ở người đọc nhiều liên tưởng về tuổi tác của con người. Thời gian trôi nhanh qua của, cuộc đời mỗi người là một chứng nhân nhìn mùa thu đi qua. Bởi thế, nuối tiếc vẫn mãi là cảm xúc của con người trước thời gian. Tâm trạng ấy đã được nhà thơ gửi vào cảnh vật, gửi vào trạng thái của thiên nhiên nhằm khắc họa thời khắc mà mọi vật đang chuyển mình sang thu. Điều này lí giải vì sao tất cả các sự vật được khắc họa bằng hành động từ trạng thái với sắc thái nghiêng chủ động. Phải chăng những sự vật đang “sang thu” chứ không phải “đây mùa thu tới” hay “mùa đã thu rồi”.

Xưa nay mùa thu thường gắn liền hình ảnh chiếc lá vàng, ngõ đầy rụng,lá khô xào xạc và ta cứ ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến “sang thu” của Hữu Thỉnh, người đọc chợt nhận ra: Một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét rất riêng của mùa thu Việt Nam và điều này làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ “Sang thu”

“Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về màu thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người. “Sang thu” chính là một tấm gương trong để người đọc có thể nhìn thấy ở đó hình ảnh quê hương xứ sở mình, hình ảnh của tâm hồn mình. Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã khuấy động một cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng, thoát khỏi những ước lệ để khẳng định vị trí của riêng mình trên con đường sáng tạo nghệ thuật.

Mẫu 2

Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Không phải là sắc "mơ phai" hay hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác" mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,

Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là "hương ổi". Mùi hương quê nhà mộc mạc "phả" trong gió thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: "bỗng nhận ra" - một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lừng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ "chùng chình" diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ "bỗng nhận ra" thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.

Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã

Sông nước đầy nên mới "dềnh dàng" nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam ... Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:

Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng "vắt nửa mình sang thu". Câu thơ có tính tạo hình không gian nhưng lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới ...

Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là "vẫn còn", "đã vơi dần", "cũng bớt bất ngờ" bởi mùa thu đã đến. Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động. Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho "Sang thu" trở nên giàu ý nghĩa.

 

Mẫu 3

Trong bốn mùa của thiên nhiên, đất trời thì ai cũng công nhận rằng mùa xuân là mùa đẹp nhất với vẻ tươi mới và sức sống tràn trề, đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho thi ca, nhạc họa. Nhưng mùa thu cũng có vẻ đẹp riêng tạo nên nguồn cảm hứng cho những nghệ sĩ tào hoa. Trước đây, Nguyễn Khuyến có ba bài thơ thu, nức danh nhất là “Thu điếu” “Thu ẩm” “Thu vịnh”, Tản Đà có “Cảm thu- Tiễn thu” , sau này, Lưu Trọng Lư có bài “Tiếng thu” và Xuân Diệu có “Đây mùa thu tới” . Nhưng nói về thời điểm giao mùa thì có lẽ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh là nổi bật hơn cả.

Bài thơ Sang thu được sáng tác năm 1977, thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả trước những biến chuyển của thiên nhiên, sức sống của tạo vật trong những khoảnh khắc giao mùa.

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Mở đầu bài thơ là từ “bỗng” thể hiện sự bất ngờ, đột ngột, một sự cảm nhận từ khứu giác, đánh thức tâm hồn, gợi lên một tứ thơ rất “hương ổi”. Hương vị đặc trưng của mùa thu bất chợt làm nhà thơ xao lòng, không phải là hương thơm của một loài hoa mà là mùa ổi chín, nghe mới mộc mạc, dân dã làm sao! Hương ổi hay chính là hương vị nồng nàn của quê hương gợi nhớ gợi thương cho những kẻ nặng tình với quê hương yêu dấu. hương ổi không chỉ lan tỏa mà còn vận động rất mạnh trong không gian, phả vào trong gió se. Mùa thu miền bắc đã bắt đầu chớm lạnh, vì gió thu “se” lành lạnh nên hương ổi mới thêm nồng nàn mà phả vào đất trời và hồn người. Từ láy gợi hình “chùng chình” được nhân hóa khiến nó mang dáng vẻ thon thả, nhẹ nhàng như thiếu nữ đôi mươi. Và câu thơ “hình như thu đã về” đã kết lại dòng cảm xúc bất ngờ đột ngột của nhà thơ. Tất cả tín hiệu trên rồi cũng đi đến nghi vấn “ Thu đã về?”, ngỡ ngàng và thảng thốt, thu đã đến với đất trời.

Hơi thở của thu đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu ko còn mơ hồ mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật, Trong không gian rộng lớn hơn, từ bầu trời tới mặt đất, đâu đâu cũng thấy cảnh sắc nhuốm thu. Dòng sông chảy khoan thai, lững lờ, mà mềm mại và duyên dáng chứ ko ào ạt, cuộn dâng như trong hạ. Thế nhưng trái lại với vẻ chậm chạp của dòng sông, đàn chim trời lại đang vội vã, chuẩn bị cho một hành trình mới, khi thu sang, ngày ngắn, đêm dài và gió se đã thổi. Như vậy, mùa thu của tác giả không chỉ có bình yên, thư thả mà còn có cả sự vội vã, gấp gáp.

Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở ra ở chiều cao, độ rộng của bầu trời và chiều dài của dòng sông qua khổ tiếp theo:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Sự vận động của thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của mọi vật. Đó là vẻ “dềnh dàng” của dòng sông đầy nước đang thong thả , ung dung trôi thật chậm sau những tháng ngày hè mệt mỏi vì phải chảy cuồn cuộn, ào ào. Đó là cái “bắt đầu vội vã” của những đàn chim di trú đang khẩn trương, sửa soạn đi tránh rét. Từ láy “vội vã” ở đây đối rất đẹp với từ “dềnh dàng. Bắt đầu vội vã thôi chứ chưa phải đang vội vã. Cho nên không khí chung vẫn thư thái, lắng đọng, chậm rãi. Vì thế , đám mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Một tưởng tượng sáng tạo và độc đáo, đám mây như đang mang trên mình cả hai mùa.

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Nếu như hai khổ thơ trên đẹp về mặt tạo hình , rất tinh trong cảm nhận. Thì ở khổ thơ cuối này vẻ đẹp của thu được khẳng định bằng suy ngẫm, kinh nghiệm chứ không phải cảm nhận trực tiếp. vẫn là nắng, mưa , sấm, chớp như mùa hạ, nhưng ở cuối mùa , ở mức độ khác rồi. Nắng nhạt dần chứ không còn chói chang, gay gắt, mưa cũng ít di. Những từ “vẫn còn” “đã vơi dần” “cũng bớt bất ngờ” gợi tả rất hay các hiện tượng, sự việc đang dần đi vào thế ổn định của mùa thu. Bài thơ khép lại với hình ảnh “sấm” và “hàng cây đứng tuổi” vừa tả thực vừa mang ý nghĩa ẩn dụ, gợi ra những suy nghĩ thâm trầm. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo quy luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và ấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.

Tóm lại, Sang thu là một bài thơ hay. Tác giả không sa vào cách miêu tả ước lệ, khuôn sáo mà bằng những cảm nhận tinh tế qua những hình ảnh thơ tự nhiên mộc mạc mà mới lạ, những hình ảnh này được đặt trong sự vận động nhẹ nhàng mà không làm mất đi cái hồn của thiên nhiên là rất trong và rất tĩnh. Từ đó, ta thấy được thưởng thức một bức tranh thiên nhiên độc đáo giàu sức biểu cảm về thời điểm giao mùa và một tâm hồn giàu cảm xúc, giàu tình yêu thiên nhiên của Hữu Thỉnh.

Mẫu 4

Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành từ trong quân đội. “Sang thu” là một thi phẩm đặc sắc của ông. Với con mắt nghệ sĩ, tâm hồn nhạy cảm và ngòi bút tài hoa, Hữu Thỉnh đã có những cảm nhận mới mẻ trước sự biến chuyển của thiên nhiên đất trời lúc cuối hạ sang đầu thu. “Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết và mùa thu tới có những tín hiệu đầu tiên. Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới cảm nhận được.

Với Hữu Thỉnh mùa thu bắt đầu thật giản dị:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se

Nếu trong “Đây mùa thu tới” cảm nhận thu sang của Xuân Diệu là rặng liễu thu buồn ven hồ “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang – Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” thì Hữu Thỉnh lại cảm nhận về một mùi hương quen thuộc phảng phất trong “gió se” – thứ gió khô và se se lạnh, đặc trưng của mùa thu về ở miền Bắc. Đó là “hương ổi” – mùi hương riêng của dân tộc, mùi hương riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Cái hương vị ngọt ngào, đằm thắm của mùa thu, nhà thơ “Bỗng nhận ra” – một trạng thái chưa hề chuẩn bị, như là vô tình, như là sửng sốt. Một sự bất ngờ mà như đã đợi sẵn, đợi từ lâu rồi để giờ đây có dịp là buông ra ngay. Một tiếng kêu vang thích thú, một khoảnh khắc nhanh chóng qua đi mà để lại biết bao cảm xúc. Kìa! Mùa hạ sắp qua, hình như mùa thu đến.

Mùi hương ấy không hòa quyện vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: tại vườn tược quê nhà, những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se.

Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị. Tác giả đã phát hiện ra một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi… đã viết thật hay về hương cốm làng Vòng Hà Nội – một vẻ đẹp về hương vị mùa thu của quê hương đất nước. Với Hữu Thỉnh trong “Sang thu”, “hương ổi” là một tứ thơ mới đậm đà màu sắc dân dã. Hương ổi ấy, cơn gió đầu mùa se lạnh ấy là sứ giả của mùa thu (cũng như chim én là sứ giả của mùa xuân). Nó đến rất khẽ khàng, “khẽ” đến mức chỉ một chút vô tình thôi là không một ai hay biết.

Nếu hai câu đầu diễn tả cái cảm giác chưa hẳn đã tin thì đến hình ảnh “Sương chùng chình qua ngõ” lại càng lung linh huyền ảo. Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương qua từ “chùng chình” khiến cho sương thu chứa đầy tâm trạng. Nó như đang chờ đợi ai hay lưu luyến điều gì? Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc.

Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Sao lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.

Hóa ra bức tranh kia không phải cảm nhận bằng giác quan mà bằng cả tâm hồn nữa. Đó là tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Khổ thơ mang cái man mác buồn, lắng đọng ngọt ngào thi vị của mùa thu. Từ đây cũng cho ta thấy con người của thi ca đến với thiên nhiên bằng sự khám phá đường nét nhỏ nhất, tinh xảo nhất của vũ trụ bao la. Đó cũng chính là cái hay tạo nên sự khác biệt cho mùa thu mà ngay ở bốn câu thơ đầu ta đã thấy tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn.

Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Cái nhìn tinh tế của Hữu Thỉnh đã phát hiện ra bao điều mới lạ từ những sự vật đã quá quen thuộc với trời đất với con người. Tất cả đều trong trạng thái ngập ngừng:

Dòng sông - nước sông vẫn đầy chứ không cạn như mùa đông, mùa xuân, dòng nước trôi lững lờ, khoan thai chứ không cuồn cuộn cuốn đi như cơn lũ mùa hạ. Sông như được lúc nghỉ ngơi “dềnh dàng”. Cảm nhận về một dòng sông êm đềm, mềm mại, thiết tha rất hợp với vẻ đẹp dịu êm của mùa thu.

Chim - thu sang, khí trời se se lạnh, trên bầu trời trong xanh, cao rộng, những cánh chim vội vã bay đi tìm nơi trú ngụ nhưng mới chỉ là “bắt đầu” mà thôi. Điều này càng cho thấy thời gian thu mới chớm, mới sang. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động.

Cánh chim trong “Tràng giang” của Huy Cận cô đơn, mong manh như đang sa xuống mặt đất cùng áng chiều “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Còn trong “Sang thu” của Hữu Thỉnh, bầu trời cũng như nhỏ lại, ấm áp hơn theo nhịp vận động “vội vàng” của cánh chim. Hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng, dựng lên hai hình ảnh đối lập, ngược chiều nhau: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng. Đó là sự khác biệt của vạn vật trên cao và dưới thấp trong khoảnh khắc giao mùa.

Trong khi đó, đám mây - thật đặc biệt, đám mây mang trên mình cả hai mùa:

Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Trong thơ ca Việt Nam, không ít những vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Nguyễn Khuyến – “Thu điếu”), “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” (Huy Cận – “Tràng giang”). Nhưng đám mây trong thơ Hữu Thỉnh rất đặc biệt, tác giả dùng động từ “vắt” để gợi ra trong thời điểm giao mùa, đám mây như kéo dài ra, nhẹ trôi như tấm lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời trong xanh, cao rộng.

Hình như đám mây đó vẫn còn lại một vài tia nắng ấm của mùa hạ nên mới “Vắt nửa mình sang thu”. Đám mây vắt lên cái ranh giới mỏng manh và ngày càng bé dần, bé dần đi rồi đến một lúc nào đó không còn nữa để toàn bộ sự sống, để cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc thu. Nhưng trong thực tế, không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự liên tưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang đến cho đọc giả mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.

Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của cuối hạ. Nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao (chim), chiều rộng (mây) và chiều dài (dòng sông). Phải chăng có sợi tơ duyên đồng cảm giữa con người với thiên nhiên đang vào thu. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.

Sau những sự vật hiện tượng khi chớm thu, nhà thơ chú ý đến những yếu tố thời tiết:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Trong cảm nhận này, nhà thơ luôn có sự liên tưởng so sánh với mùa hạ nhằm tạo nên ấn tượng rõ nét.

Nắng – mưa: nắng, mưa vốn là hiện tượng của thiên nhiên vận hành theo quy luật riêng của nó. Hữu Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa, nắng hàng ngày một sự hụt hơi – dấu hiệu của sự chuyển mùa từ hạ sang thu. Nắng lắm mưa nhiều là đặc điểm của mùa hạ. Nắng vẫn còn vàng tươi nhưng nắng thu trong và dịu hơn cái nắng chói chang, gay gắt của mùa hạ. Mưa cũng vẫn còn nhưng đã vơi nhiều so với những cơn mưa bong bóng kéo dài của mùa hạ. “Vơi dần” không chỉ là ít mưa đi mà còn là mưa ít nước đi. Đây cũng là dấu hiệu của sự chuyển mùa. Hai chữ “bao nhiêu” thường hướng về một cái gì đong đếm được nhưng sắc nắng làm sao có thể cân đo? Cũng như “vơi”, dù biết vơi bớt nhưng vơi bớt đến mức nào thì ai có khả năng xác định? Tất cả chỉ là ước lượng mà thôi, không có gì là chừng mực cố định cả. Cách nói mơ hồ của nghệ thuật khắc hẳn với khoa học chính là ở chỗ này. Phải chú ý, phải để lòng mình bắt nhịp với thiên nhiên mới cảm nhận thấy điều đó.

Sấm – hàng cây: cuối hạ - đầu thu, khi đã vơi đi những cơn mưa xối xả thì sấm cũng bớt bất ngờ và dữ dội. Nó không còn đột ngột, đùng đoàng rền vang cùng với những tia sáng chớp lòe như xé rách bầu trời trong những trận mưa bão tháng 6 tháng 7. “Hàng cây đứng tuổi” phải chẳng là hàng cây đã đi qua bao cuộc chuyển mùa nên không biết chính xác là bao nhiêu nhưng chắc cũng đủ trải nghiệm để có thể điềm nhiên đứng trước những biến động. Cảnh vật, thời tiết thay đổi. Tất cả vẫn còn nhiều dấu hiệu của mùa hè nhưng giảm dần mức độ, cường độ, để rồi lặng lẽ vào thu qua con mắt quan sát và cảm nhận tinh tế của tác giả.

Hai câu kết của bài thơ không chỉ mang nghĩa tả thực, mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ, gợi những suy nghĩ cho người đọc người nghe:

Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

“Sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh, cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người đứng tuổi từng trải. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời.

Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.

Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm. Cùng thể thơ năm chữ, Hữu Thỉnh đã thể hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra một bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang thu nhẹ nhàng, êm dịu, trong sáng nên thơ… ở vùng đồng bằng Bắc Bộ của đất nước. Bài thơ của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người về tình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.

Mẫu 5

Từ xưa đến nay, vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa luôn là những đề tài thân thuộc trong thơ ca. Khung cảnh thiên nhiên bốn mùa luôn là nguồn cảm hứng vô tận của các nhà văn, nhà thơ. Trong đó vẻ đẹp thuần khiết, bình dị của mùa thu đã được khắc họa một cách rõ nét và thành công qua bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Dưới ngòi bút và cảm nhận của nhà thơ, bạn đọc cảm nhận được vẻ đẹp e ấp của thiên nhiên lúc giao mùa hạ - thu.

“Sang thu ” được Hữu Thỉnh sáng tác năm 1977 ngay khi đất nước được giải phóng, bắt đầu bắt tay vào thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. ‘Sang thu” ở đây là chớm thu, khi thiên nhiên bắt đầu chuyển giao giữa mùa hạ và thu. Mặc dù cái nắng nóng của mùa hạ chưa hết nhưng cái không khí nhẹ nhàng của mùa thu đã bắt đầu lan toả. Có lẽ chỉ có ai có tình yêu thiên nhiên, có sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm nhất mới có thể cảm nhận thời khắc giao mùa tuyệt vời này.

Bài thơ mở đầu bằng những cảm nhận, những rung động mập mờ, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp chuyển đổi của thời khắc thiên nhiên lúc chuyển giao mùa. Mùa thu trong cảm nhận của Hữu Thỉnh không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là “hương ổi” thân quen nơi vườn mẹ được “gió se” đánh thức, một mùi hương đặc trưng của mùa thu làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Tất cả hòa quyện lại với nhau gợi dậy những cảm xúc của tác giả. Mùa thu dần xuất hiện qua sự quan sát bằng các giác quan tình thế của nhà thơ.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se.”

Câu thơ cho ta cảm nhận được hương vị ấm nồng của chớm thu của một trên miền quê nhỏ. Một chút tín hiệu đầu để tác giả nhận ra “hương ổi” chính là tín hiệu báo đầu của mùa thu, là sự hoán đổi giữa hai mùa. Mùi hương quê nhà mộc mạc, bình dị, bất chợt “phả” trong gió, thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất ngờ chợt đến để nhà thơ “bỗng nhận ra” thu đã đến rồi – một sự chờ đợi sẵn từ lâu đến hoàn toàn tự nhiên. Câu thơ không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc cảm nhận vẻ đẹp mùa thu bằng tất cả các giác quan: liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị ngọt, giòn, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà. Một nét bút chấm phá đơn giản nhưng đầy nét gợi hình, gợi tả một cách giản dị, mộc mạc nhưng vẫn làm nên nét riêng hoàn toàn đặc sắc trong của mùa thu của trong thơ Hữu Thỉnh. Hương ổi trong gió đầu mùa se lạnh chính là sứ giả của mùa thu, nó đến khẽ khàng, “khẽ” đến mức nếu ai vô tình sẽ không thể nhận ra được. Có thể nói, Hữu Thỉnh đã có một phát hiện về khúc giao mùa thật tinh tế và đặc biệt, phát hiện của ông đã tạo nên một hồn thơ xứ sở đầy nét đặc trưng, thi vị.

Bên cạnh hương ổi nhàn nhạt nhẹ nhàng khúc giao mùa, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, sương nhẹ nhàng, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Dưới ngòi bút tuyệt vời và tài cảm nhận đặc biệt của Hữu Thỉnh, sương dường như hóa thành một người lữ hành trên đường đã được nhân hoá qua hai chữ “chùng chình” không muốn bước, nói lên rất thơ bước đi chầm chậm lúc, dường như còn bỡ ngỡ trước khoảnh khắc giao mùa sang thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về trong sự đột ngột và bất ngờ thì sau khi cảm nhận được hơi lạnh của sương thu, gió thu, người thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên tiếng lòng tự hỏi: “Hình như thu đã về”? Tâm hồn của Hữu Thỉnh hoàn toàn có thể nắm bắt những chuyển biến nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa. Bằng chính tài quan sát của mình, Hữu Thỉnh đã khắc hoạ thành công những bước đi nhỏ bé nhẹ nhàng, mong manh nhỏ nhẹ của mùa thu. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ nhưng khiến ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một hồn thơ mang nặng tình yêu với thiên nhiên và cuộc sống.

Sau phút giao mùa nhẹ nhàng, những dấu hiệu bắt đầu mùa thu đã trở nên rõ ràng hơn, nhanh hơn. Tác giả cảm nhận mùa thu bằng cả tâm hồn của mình

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Từ “hương ổi”, “gió se”, “sương”, thiên nhiên trong giây phút giao mùa đã được cụ thể bằng những hình ảnh rõ ràng: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, mây “vắt nửa mình sang thu”. Cảm xúc của tác giả lan tỏa trong không gian rộng hơn, nhiều cung bậc cảm xúc hơn. Từ không gian nhỏ bé như con ngõ nhỏ đã lan tỏa ra tới bầu trời, một không gian bao la rộng lớn không gì có thể đo đếm được. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả đã tạo dựng nên linh hồn cho cảnh vật. Dòng sông êm đềm, nhẹ nhàng trôi sau những cơn mưa mùa hạ như trút nước. Giờ đây, nó lại “dềnh dàng”, chậm chạp, khoan thai chảy trong không gian bức tranh tuyệt đẹp của mùa thu. Sông giống như tâm trạng của con người, dường như đang sống “chậm” lại, ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời.

Trái ngược với “dềnh dàng” của dòng sông, những cánh chim di trú lại bắt đầu ‘vội vã” đầy lo lắng trước khoảnh khắc giao mùa. Với nghệ thuật tương phản đặc sắc, Hữu Thỉnh đã gợi lên bức tranh thu đầy sinh động: nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng không kém phần hối hả, vội vã. Thông qua bức tranh ấy, ông muốn gợi lên sự chuyển mình của đất nước ta. Một đất nước vừa trải qua mưa bom lửa đạn, giành được độc lập và đang bắt đầu xây dựng đất nước trong không khí vui tươi, rộn ràng.

Với động từ “vắt”, bầu trời lúc giao mùa bỗng trong cảm nhận của thi sĩ trở nên đặc biệt hơn:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Đám mây bé nhỏ dường như trải dài hơn, trôi lững lờ trong bầu trời xanh ngắt, cao rộng. Dường như nó vẫn còn vương vấn ánh nắng ấm áp của mùa hạ nên chỉ “vắt nửa mình sang thu”. Nó đã tạo nên một lằn ranh giới mỏng manh, hư ảo. Có lẽ, thực tế sẽ không thể nào có áng mây bé nhỏ nào như thế. Đó chỉ là sự liên tưởng đầy thú vị của thi sĩ. Tất cả góp phần tạo nên một thời khắc giao mùa đầy chất thơ, tinh tế và nhạy cảm, độc đáo nhưng bâng khuâng trong không gian êm dịu của mùa thu. Dòng sông, đám mây, cánh chim đều được nhân hoá rõ nét khiến cho bức tranh thu hữu tình của Hữu Thỉnh trở nên thi vị hơn. Qua đó, ta cảm nhận được một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết và trí tưởng tượng bay bổng độc đáo của nhà thơ.

Hai khổ thơ đầu là những tín hiệu và hình ảnh lúc chớm thu. Khổ thơ cuối chính là lúc tác giả chiêm niệm về cuộc sống con người, chiêm niệm về cuộc đời.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

“Nắng – mưa” hai hiện tượng thiên nhiên hay đến rồi đi bất chợt của mùa hạ. Giờ đây chỉ còn “bao nhiêu nắng” và đã “vơi dần cơn mưa” – một dấu hiệu chuyển mình nhẹ nhàng sang thu. Nắng vẫn còn đó nhưng đã nhẹ nhàng hơn, không còn gay gắt mà mang sự dịu nhẹ của mùa thu. Mưa ít đi, với dần và nhẹ nhàng hơn, không còn dồn dập và mạnh mẽ như khi vào hạ. Hai chữ “bao nhiêu” thường chỉ sự đong đếm, thế nhưng nắng sao có thể đong? Mưa đã “vơi” nhưng có ai biết là đã ít đi như thế nào? Cách nói đầy mơ hồ nhưng lại thể hiện rõ sự hoà nhịp đầy sâu lắng của tác giả với thiên nhiên. Chỉ có thể hòa mình vào thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tinh tế và đồng điệu mới có thể nhận ra được điều đó.

Với cách sử dụng ẩn dụ đầy nghệ thuật, hai câu thơ cuối đã xây dựng nên hình ảnh “sấm” và “hàng cây” thật đặc sắc.

“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

Cuối hạ - đầu thu. “Sấm” lúc này không còn kêu vang rộn rã như khi vào hạ mà đã bắt đầu giảm dần mức độ xuất hiện của mình qua sự quan sát của tác giả. Giọng thơ bắt đầu trầm lắng, hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” đứng lặng im suy ngẫm, chiêm nghiệm cuộc đời để lại bao suy nghĩ trong lòng người đọc. Hàng cây ấy như đang suy nghĩ về cuộc đời, về những chuyển biến của thời đại. Có phải chăng, mùa thu của Hữu Thỉnh không còn là mùa thu nhẹ nhàng, êm dịu. Đây còn là mùa thu của đời người, mùa thu của sự khép lại những tháng ngày sôi nổi của tuổi trẻ. Từ đó mở ra một mùa thu mới, mùa thu yên tĩnh, trầm lắng trước biến động của đất nước và cuộc đời con người.

Nhìn chung cả bài thơ đều là hình ảnh thơ giản dị, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm. Hữu Thỉnh đã thành công miêu tả bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa tuyệt đẹp của đất nước. Qua đó thể hiện tinh tế tình yêu quê hương đất nước của ông. “Sang thu” là bức tranh mộc mạc về miền quê Bắc Bộ: nhẹ nhàng, êm dịu, trong sang và nên thơ. Thông qua bài thơ, tác giả thể hiện những triết lý về cuộc đời qua những gì giản đơn, nhỏ bé của cuộc sống. Tất cả tạo nên đặc sắc cho bức tranh giao mùa hiếm có của thiên nhiên Việt Nam. Qua đó giúp người đọc có những cảm xúc đong đầy, tự hào và thêm thương yêu Tổ quốc.

Mẫu 6

“Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời.” Mùa thu từ bao lâu nay đã trở thành suối nguồn vô tận, khơi nguồn cảm hứng cho thi ca nhạc họa. Những cảnh đẹp thiên nhiên tươi sáng, trời thu trong xanh, khí thu dịu mát, cảnh thu trong sáng đã làm mê luyến trái tim bao thi sĩ. Nhỏ nhẹ và khiêm nhường Hữu Thỉnh góp vào cho bản hòa ca của đất trời một góc thiên nhiên “Sang thu” để cùng tôn vinh những mùa trái, mùa hương của đất trời, xứ sở.

Mở đầu bài thơ, trước hết nhà thơ Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc cảm nhận tinh tế của mình trước mùa thu trong không gian làng quê:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Trong không gian quen thuộc của làng quê Bắc Bộ, nhà thơ bỗng tinh tế nhận ra mùi hương ổi chín. Đó là mùi vị ngọt ngào, nồng nàn thanh mát của quê hương, của những tâm hồn đã chắt chiu vun trồng nên hương ổi. Đó là hương vị quen thuộc, bình dị gợi nhắc đến mùa thu quê hương. Không phải là lá ngô đồng như trong thơ của Bích Khê, cũng không phải là hương cốm trong bài Đất Nước của Nguyễn Đình Thi, bằng cảm nhận và tình yêu quê tha thiết, hương ổi đã phả vào tâm hồn nhà thơ, đánh thức những cảm nhận riêng để ngỡ ngàng nhận ra mùa thu đã đặt chân xuống trần gian tuyệt diệu. Nhưng hương ổi mạnh mẽ, ngọt ngào phả vào trong gió se, càng làm quyện đọng vị ngọt và sánh mịn của hương ổi. Nhưng Hữu Thỉnh cũng cho ta những cảm nhận về đám mây khi thu chớm sang: “Sương chùng chình qua ngõ.”

Từ “chùng chình” diễn tả vẻ đẹp mộng mơ, duyên dáng và yêu kiều như nàng thiếu nữ đang e ấp duyên dáng bao quanh xóm làng. Cảnh vật không gian làng quê ngập chìm trong màn sương khói mờ ảo, giăng mắc như làm thiên nhiên thêm huyền ảo, lung linh hơn. Và trước hương ổi trong gió se, trước đám mây chùng chình kia, thi nhân của chúng ta ngỡ ngàng “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” diễn tả tâm trạng bâng khuâng, man mác của nhà thơ, cũng như vẻ ngờ ngợ không dám tin rằng thu đã về đấy rồi. Đó là sự luyến tiếc của âm hồn thi nhân, vừa ngỡ ngàng với thu sang, vừa luyến tiếc khi hạ đã rời đi. Quả là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết.

Sang đến khổ thơ tiếp theo, là sự cảm nhận tinh tế của thiên nhiên mùa thu trong không gian đất trời. Sự tinh tế và tấm lòng khát khao giao cảm, muốn nắm bắt sự thay đổi của vạn vật đã được bộc lộ rõ:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Dòng sông mùa thu không còn vẻ vội vàng, gấp gáp và chảy xiết như trong những ngày hạ, sông êm đềm, tĩnh lặng, yên ả uốn mình hiền hòa sau lũy tre xanh xanh của làng quê. Những cánh chim bắt đầu, cho thấy sự quan sát sát tinh tế của Hữu Thỉnh khi nhận ra sự chuyển dời của đàn chim tìm nơi trú ẩn cũng là dấu hiệu nhận thu sang. Và đám mây kia chính là điểm nhấn cho nền trời, cho bức tranh thiên nhiên quyến rũ, xinh tươi ấy. Đám mây vắt nửa mình, dường như cũng đang chứa đựng sự lưu luyến, bịn rịn. Đám mây giống như cây cầu nối liền giữa mùa hạ và mùa thu để ngân rung mãi lên một nhịp riêng của đất trời, nhịp giao thời, nhịp chuyển mùa. Thu sang trong bao nhiêu của thi ca muôn thuở, nay trở về trong những câu thơ của Hữu Thỉnh sao vẫn đắm đuối, si mê lòng người như thế. Vậy là mùa thu trong không gian làng quê được cảm nhận mới tinh tế và nên thơ làm sao. Chỉ có thể yêu thiên nhiên lắm, Hữu Thỉnh mới vẽ nên một bức tranh thật đẹp, thật duyên đến vậy.

Khổ thơ cuối là những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về cuộc đời mỗi con người:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.

Bằng những chiêm nghiệm sâu sắc về nhân sinh Hữu Thỉnh đã gửi đến chúng ta những thông điệp thật ý nghĩa. Hình ảnh “nắng, mưa, sấm” là biểu tượng cho những sóng gió, thăng trầm của cuộc đời mà con người đã trải qua, khi đã đi qua bao nhiêu nắng mưa, bao nhiêu giông tố, con người dường như cũng trở nên điềm đạm, bình tĩnh hơn trước những thử thách, chông gai của cuộc đời. Con người khi trưởng thành “hàng cây đứng tuổi” sẽ không còn những bồng bột, sôi nổi và sự liều lĩnh của tuổi trẻ mà sẽ lắng mình xuống để suy ngẫm và chiêm nghiệm, cũng sẽ không để những sóng gió cuộc đời quật ngã mỗi bước đi. Phải chăng đó cũng chính là thông điệp sâu sắc mà Hữu Thỉnh gửi gắm.

Với thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự nhiên, nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, tinh tế giàu sức gợi, sức biểu cảm, Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc một bức tranh thiên nhiên lúc sang thu thật sự đẹp, thật duyên, thật tinh tế của một tâm hồn yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết. “Sang Thu” của Hữu Thỉnh đã góp vào bản hoà ca mùa thu của quê hương, đất nước một tiếng nói riêng, đầy thi vị, ám ảnh, xúc động.

Mẫu 7

Theo Xuân Diệu, thu là dáng buồn liêu, là những luồng run rẩy rung rinh lá, đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một hình ảnh mùa thu đầy thơ mộng: Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô. Thu điếu của Nguyễn

Khuyến là sự vắng lặng, yên ả của không gian, là cảnh đẹp nên thơ của nước hồ thu. Còn Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu, ông đã khắc họa bức tranh mùa thu tươi đẹp, bức tranh đang ở thời khắc giao mùa với một làn hương mới. Mùa thu trong bài thơ của Hữu Thỉnh không có dáng vẻ tĩnh mịch, hồn thơ không vương vấn những cảm xúc buồn như mùa thu ở trong thơ của Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Du hay Xuân Diệu… Sang thu là một bài thơ gợi tả thiên nhiên tươi đẹp. Đất trời đang chuyển mình từ cuối hạ sang thu. Mở đầu bài thơ là một phát hiện bất ngờ:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Mùa thu đã xuất hiện ở một làng quê Việt Nam. Mùa thu với hương thơm mộc mạc nhưng đầy hương vị ấm nồng. Hương ổi phả trong gió nhẹ đã làm cho con người nhận ra ngay mùa thu đang đến. Động từ phả thể hiện một mùi hương nồng nàn, lan tỏa trong không gian, hòa quyện với làn gió nhẹ để tạo nên một cảm giác thật đáng yêu. Cảm giác ấy không phải trầm buồn, ướt lệ mà là một cảm giác vui tươi đến bất ngờ, mới mẻ. Mùa thu đã mang đến hương thơm và sương mờ ướt lạnh. Sương chùng chình đã tạo nên một phong cảnh đáng yêu. Chùng chình là sự kéo dài, chậm chạp như muốn chờ muốn đợi ai đây? Cảnh vật cứ dần như thế, mềm mại như thế và thu đến tự lúc nào không hay. Nhà thơ đã ngỡ ngàng trước cái đến bất chợt của mùa thu. Cảm giác bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến và nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu tươi sáng:

Sông bắt đầu dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Những đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Ở khổ thơ thứ hai, dấu hiệu sang thu mang tính rõ nét hơn. Tác giả không cảm nhận bằng khứu giác mà cảm nhận trực tiếp bằng thị giác. Từ láy dềnh dàng diễn tả sự chậm chạp, thong thả của dòng nước sông mùa thu. Dấu hiệu mùa thu còn thể hiện ở cánh chim trời, chim vội vã bay vì trời mùa thu nhanh tối hơn mùa hạ, chim phải bay nhanh về tổ. Mùa thu với đất trời sáng trong, sống lặng lờ, thong thả chảy cùng với đàn chim đang tung cánh bay cao. Hình ảnh đám mây mùa hạ đang vật nửa mình sang thu là sự chuyển biến của đất trời. Dù sang thu nhưng dư âm mùa hạ vẫn còn. Một bóng mây vương lại như sự quyến luyến, ngập ngừng. Mùa thu với nắng nhẹ, dịu êm. Đất trời như thay áo mái nhưng vẫn có đâu đây làn nắng ấm mùa hè. Có lẽ đây là hình ảnh đẹp nhất thể hiện nét riêng của sự giao mùa từ hạ sang thu. Đám mây ở thời điểm này rất đẹp, nó như chiếc cầu nối giữa hai mùa. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để diễn tả sự chuyển giao của đất trời. Mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” bởi còn chần chừ, lưu luyến. Dù sang thu nhưng vẫn còn vương vấn những hình ảnh của mây mùa hạ. Đây là sự biến chuyển nhẹ nhàng của trời đất phút giao mùa. Kết thúc bài thơ là hình ảnh thiên nhiên của mùa thu: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. Phong cảnh mùa thu hiện ra thật rõ nét. Nắng mùa thu đang nồng đượm. Mưa mùa hạ vơi dần nên âm thanh của sấm cũng không còn làm cho con người ta giật mình, hốt hoảng. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo quy luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và ấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.

Với bút pháp tả thực về thiên nhiên, cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu, thấy được những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ hạ sang thu. Tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu quê hương nồng đượm, ấm áp tình người, nó bình dị mà tươi tắn, sống động, nó tôn thêm vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.

Mẫu 8

Với tâm hồn nhạy cảm sâu sắc và tình yêu thiên nhiên tha thiết, Hữu Thỉnh trong bài thơ "Sang thu" đã nêu lên những cảm nhận tinh tế của mình về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu.

Tâm hồn nhạy cảm của tác giả hòa quyện vài khoảnh khắc giao mùa, với một cảm giác mơn man khó tả:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Khoảnh khắc giao mùa đến với tác giả bằng nhiều giác quan: Khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se lạnh), thị giác (sương chùng chình). Mỗi giác quan man đến cho tác giả một cảm nhận riêng và mỗi giác quan là một dấu hiệu nhận biết sự chuyển mùa. Đầu thu, hương ổi lan tỏa đi khắp nơi hòa quyện vào làn gió se lạnh trở thành một mùi thơm đặc biệt, nồng nặc cả hai cánh mũi. Thứ hương thơm ấy cứ nhẹ trôi trong không gian, xoa dịu lòng người và bất ngờ đến với tác giả ("bỗng"). Những màn sương giăng mắc bắt đầu xuất hiện. "Chùng chình" là cố ý chậm lại, quyến luyến không muốn bước qua "ngõ" - ngưỡng cửa của thời gian. Hình ảnh "Sương chùng chình qua ngõ" vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diễn tả sự chuyển mùa. Tất cả chỉ là những cảm nhận ban đầu của tác giả ("hình như"), không có một căn cứ xác thực cho "sang thu".

Mùa thu sần được hiện ra qua những kinh nghiệm của tác giả:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Bằng kinh nghiệm của mình tác giả nhận ra cái đặc trưng của mùa thu. Thu sang, sông không còn chảy gấp gáp, cuộc khúc nữa mà nhẹ nhàng trôi, êm ả như đang suy ngẫm. Ngược lại, những chú "chim bắt đầu vội vã" tìm nơi trú ẩn vì gió se lạnh đã đến. "Đám mây mùa hạ" "vắt nửa mình sang thu" gợi cho ta hình ảnh một cô gái thướt tha với chiếc khăn thể uốn lượn. Đặc biệt, tác giả đã sáng tạo nên hình ảnh "vắt nửa mình sang thu" vừa có tính tạo hình trong không gian vừa diễn tả sự chuyển mùa. Đám mây cứ nhẹ trôi và thời gian thì cũng trôi heo. Đến đây mùa thu đã hiện ra một cách rõ ràng, không thể nào phủ nhận được.

Mùa thu hiện ra, tác giả dang tay đón nhận cùng những suy ngẫm triết lí của mình.

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Mùa thu sang, nắng giảm dần, không còn gắt, những cơn mưa giảm dần và sấm thì cũng vơi đi. Mọi thứ đến một cách nhẹ nhàng, êm dịu, không ồn ào gấp gáp. Hình ảnh "Sấm cũng bớt bất ngờ - Trên hàng cây đứng tuổi" có thể hiểu theo hai lớp nghĩa. Thứ nhất, những cây đã lớn không còn bất ngờ trước tiếng sấm. Thứ hai, những người từng trải thì không còn sợ hãi trước sóng gió cuộc đời nữa. Có phải chăng tác giả muốn gửi đến ta một triết lý của cuộc đời con người. Những người khi "sang thu" thì không còn sôi nổi như khi còn trẻ, nhưng họ đã từng trải, đã bước qua những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời thì không còn ngại sóng gió nữa.

Mẫu 9

Mùa thu luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ khiến bao những thi nhân phải xuyến xao, rung động. Không căng tràn nhựa sống, tươi mới như mùa xuân, cũng không mang cái lạnh tái tê khi đông về, mùa thu mà tạo hóa mang đến cho con người là sự dịu dàng, êm đềm và bình lặng. Cũng bởi thế mà khi vào thơ, thu luôn khiến cho con người chìm đắm trong những cảm xúc mác mác buồn, trong không gian mênh mang, huyền diệu của sương thu, khí thu và trời thu. Đọc "Sang thu" của Hữu Thỉnh ta lại càng thiết tha, say đắm với mùa thu nhiều hơn như thế.

"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Hương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"

Có lẽ đó là một sớm mai thức giấc, nhà thơ đang loanh quanh tận hưởng khí trời buổi tình mơ, thì đâu đó, hương ổi nhẹ nhàng pha chút ngọt ngào tràn về. Nhà thơ "bỗng" cảm thấy chút bất ngờ bởi sự thanh mát của hương ổi phá trong làn gió se. Không phải là lá vàng trong thơ Lưu Trọng Lư hay Nguyễn Khuyến, cũng không phải là hương cốm mới trong thơ của Nguyễn Đình Thi mà đó là vị ổi quê hương, một thức trái cây bình dị, giản đơn. Hương ổi "phả" vào trong làn gió se lạnh của buổi ban mai, cơn gió mang hương thơm ấy đi xa, đến phả vào tâm hồn người thi sĩ những rung động đầy yêu thương khiến tác giả có chút ngờ ngờ, vừa tiếc nuối hè qua lại vừa háo hức bất chợt khi thu đến.

"Sương chùng chình qua ngõ."

Khác với sương mai mùa hạ dày đặc, vội vã, nhộn nhịp, giăng ngập lối buổi sớm, sương thu đến với đất trời vô cùng bình thản, có chút gì đó còn ngại ngùng, chậm rãi, e ấp nhưng là cái e ấp đầy duyên dáng và yêu kiều khi đi quá mỗi ngõ nhà, ngách phố của con đường quê hương. Ta như cảm nhận được không gian trong làn sương mờ ảo đầy huyền diệu, vừa lung linh, vừa gợi cảm bởi cả hương và sắc của thu chớm tới.

"Hình như thu đã về"

Từ "hình như" được đặt ở đầu câu diễn tả chút gì đó vừa bối rối vừa ngỡ ngàng, vừa luyến tiếc lại vừa sung sướng của thi nhân khi nhận ra cảnh vật đang đổi thay cũng là lúc báo hiệu thu sang.

"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu."

Thời gian trôi đi rồi mọi thứ sẽ đổi thay, thu sang cũng vậy, muôn vật cũng thấy đổi dù ít, dù nhiều. Sông như rộng hơn, sông chảy trôi "dềnh dàng", chậm chậm, có lẽ mùa thu về, sông được dịp để thư thái, tận hưởng vị dịu ngọt của khí thu. Sông chảy nhẹ nhàng ôm lấy làng quê sau lũy tre xanh, một khung cảnh thật yên bình và tuyệt diệu biết bao. Những cánh chim cũng ngừng thong dong mà bắt đầu vội vã hơn, nhắc nhở nhau nhanh chóng về phương Nam tránh rét trước khi đông về. Sông thì chầm chậm ưu tư, chim thì vội vàng nhanh chóng, mỗi vật lại có trạng thái, tâm thế riêng trước khoảnh khắc sang thu. Cái nhìn đầy tinh tế của tác giả được thể hiện qua hình ảnh "đám mây mùa hạ" đang "vắt nửa mình" để sang thu. Đám mây đầy quyến rũ ấy đã tạo nên một bầu trời thu đầy xinh đẹp. Hình ảnh nhân hoá tài tình tạo nên một sự thú vị và đặc biệt trong đám mây kia.

Đám mây là cầu nối của phút chuyển giao giữa hạ và thu. Phải chăng đám mây kia cũng còn quyến luyến mùa hạ nắng cháy rực rỡ nhưng cũng háo hức bước sang những ngày thu hiền diệu, an yên. Bức tranh thu qua ngòi bút tài năng và cách cảm nhận đầy tinh tế của Hữu Thỉnh thật duyên dáng, say đắm lòng người.

"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi".

Thu về, nắng vẫn còn vương trên mái nhà, trên từng khóm tre và cả trong từng hơi thở của đất trời. Thu về, mưa giông ngày hạ dần vơi. Sấm chớp bất chợt cũng không còn đến bất ngờ. Không chỉ là hình ảnh tả thực, khổ thơ còn mang một thông điệp truyền tải đầy ý nghĩa về cuộc đời, về nhân sinh. "Mưa" ," sấm chớp" là những hình tượng thiên nhiên đến mà ta không thể nào biết trước hay ngăn trở nó được cũng như là những sóng gió, những giông tố của cuộc đời mà mỗi người đều phải đối mặt. "Hàng cây đứng tuổi" đại diện cho những con người trưởng thành, trải qua nhiều thách thức, sóng gió, nhiều chông gai, họ dần lĩnh hội được những kinh nghiệm cho mình

Bởi thế khi có phải đối mặt với những biến cố họ mạnh mẽ hơn, không còn quá sợ hãi mà bình thản đối mặt, chấp nhận. Thời gian đã tôi luyện cho con người những bản lĩnh, để vững vàng bước tới những con đường mới, chặng đường mới mà chẳng ngại gian khó, chẳng chùn bước sợ hãi.

Hữu Thỉnh đã đóng góp vào thơ ca dân tộc một bản nhạc mùa thu đầy xinh đẹp, hấp dẫn và gợi cảm. Sức thu hút của thi phẩm không chỉ đến từ ngôn từ, giống điệu mà còn đến từ trái tim của người viết gửi gắm vào tác phẩm.

Mẫu 10

Dẫu biết rằng bốn mùa luân chuyển: hết xuân đến hạ, thu sang rồi lại đông tới, ta vẫn thấy ngỡ ngàng khi quên đi nhịp sống sôi động hàng ngày mà lắng nghe tiếng mùa thu đi, cảm nhận những thời khắc đặc biệt. Đọc Sang thu của Hữu Thỉnh, ta được sống lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu ta hờ hững. Đó sẽ là lúc hồn ta rung lên những cảm nhận dung dị:

Bỗng nhận ra hương ổi
..........
Hình như thu đã về

Chỉ với bốn câu thơ ngắn, Hữu Thỉnh đã đem đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên. Những tín hiệu của mùa thu với những nét phác họa tài hoa: hương ổi, gió se, sương chùng chình giản dị mà hiện lên đầy gợi cảm.

Tín hiệu đầu tiên của mùa thu là hương ổi, thứ hương thơm quê mùa, dân dã. Hương ổi không nồng nàn. Đó là thứ hương dìu dịu, nhè nhẹ. Cảm nhận được hương thơm đặc trưng của mùa thu ấy, nhà thơ còn thể hiện rất khéo cái khí thu trong lành. Nếu như mùa xuân ẩm ướt, mùa hè nóng nực, mùa đông khô hanh thì mùa thu trong mát. Tuy có chút ẩm của hơi sương nhưng khí thu lại có độ trong khiến người ta có thể cảm nhận hương thơm dịu nhẹ lan tỏa trong không gian.

"Phả" vốn là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột. Thế nhưng câu thơ: "Bỗng nhận ra hương ổi. Phả vào trong gió se" rất nhẹ bởi động thái phả ấy lại vào không gian trong gió se – vô hình chứ không phải hữu hình. Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đây là những nét riêng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy hẳn cái tình quê của Hữu Thỉnh phải đậm đà lắm.

Câu thơ: "Bỗng nhận ra hương ổi. Phả vào trong gió se" còn có cái cảm giác ngỡ ngàng bối rối: bỗng nhận ra. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. Chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.

Tiếp nối những tín hiệu mùa thu là hình ảnh: sương chùng chình qua ngõ. Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Từ láy chùng chình làm hiện hình tạo vật, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả yên bình. Hình ảnh sương chùng chình qua ngõ cùng với hương ổi phả vào trong gió se thực là những hình ảnh mùa thu ở thôn quê êm ả thanh bình.

Như vậy, tín hiệu mùa thu được cảm nhận bằng cả khứu giác (hương ổi), cả thị giác (sương). Những tín hiệu, bởi vậy, tạo nên ấn tượng mới mẻ với những liên tưởng mơ hồ, chập chờn không rõ nét. Phải vậy chăng mà nhà thơ, khi đã cảm nhận những nét riêng của mùa thu, vẫn còn dè dặt: Hình như thu đã về.

Giống như một sự hoài nghi: hình như, giống như tự vấn lòng mình. Thế nhưng thực ra là một lời thông báo – một thông báo rất nhẹ nhàng, ý vị. Không phải là một lời khẳng định, một tiếng reo vui. Câu thơ của Hữu Thỉnh như có chút gì thâm trầm, kín đáo rất hợp với cách nghĩ, cách nói của người dân quê.

Khổ thơ ngắn mà đã để lại cho ta biết bao rung động. Ta như cảm thấy một hồn quê, một tình quê đi về trong câu chữ làm lòng ta ấm áp. Hình ảnh quê hương như càng thêm gần gũi, yêu mến.

Mùa thu lặng lẽ và nhẹ nhàng. Những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn. Có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Quả thực ta thấy lòng thanh thản vô cùng mà lại vô cùng nôn nao nhớ đến những miền quê xa vắng trong nắng thu khi đọc mấy câu thơ của Hữu Thỉnh.

Mẫu 11

Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh giúp người đọc thấy được sự biến chuyển đầy tinh tế của cảnh vật trong không gian cuối hạ đầu thu. Mùa thu được nhà thơ cảm nhận qua từng giác quan như khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương chùng chình). Từ đó, những tín hiệu đặc trưng nhất của mùa thu cũng lần lượt xuất hiện. Dưới mặt đất, dòng chảy của con sông trở nên chậm hơn, không cuồn cuộn như lúc hè về. Trên bầu trời, từng đàn chim sải cánh bay bắt đầu trở nên vội vã, âu lo tìm về phương nam tránh cái lạnh. Đám mây của mùa hạ nay đã “vắt nửa mình sang thu”, nửa nghiêng về mùa hạ, nửa lại nghiêng về mùa thu. Dường như, những sự vật thiên nhiên trong bài thơ đã được tác giả thổi vào đó những hành động của con người. Ở hai khổ thơ đầu, tác giả bộc lộ cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên. Thì đến khổ thơ cuối, dòng cảm xúc ấy chuyển sang suy tư, triết lý. Những hiện tượng thiên nhiên như “nắng”, “mưa”, “sấm” là biểu tượng cho những biến cố xảy đến với con người trong cuộc sống. Còn “hàng cây đứng tuổi” chính là hình ảnh của những con người đã từng trải, đã bước qua thời tuổi trẻ. Triết lí mà nhà thơ muốn gửi gắm là những con người từng trải khi gặp phải sóng gió sẽ biết cách đối diện, đương đầu một cách bình thản, trưởng thành hơn. Như vậy, bài thơ đã gợi lên những cảm nhận tinh tế về sự chuyển biến của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Và từ những tín hiệu của mùa thu đến khung cảnh thiên nhiên lúc vào thu, tác giả đã có những suy tư sâu sắc về cuộc đời.

 

Lời giải

Bạn cần đăng ký gói VIP ( giá chỉ từ 199K ) để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn.

Nâng cấp VIP

4.0

1 Đánh giá

0%

100%

0%

0%

0%