Danh sách câu hỏi

Có 3,464 câu hỏi trên 70 trang
Đọc văn bản Vi hành (trích Truyện và kí) và thực hiện các yêu cầu bên dưới. VI HÀNH Trích những bức thư gửi cô em họ do tác giả dịch từ tiếng An Nam Nguyễn Ái Quốc – Hắn đấy! – Đâu phải! – Đúng mà! Anh đã bảo là chính hắn đấy. – Chắc thật à? Em thì em đã thấy hắn ở trường đua, trông hắn có vẻ nhút nhát hơn, lúng ta lúng túng hơn cơ, có cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn, các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn. – Thế hay là hắn đã đem tất cả các thứ đó đến tiệm cầm đồ rồi? Nhưng mà nhìn kĩ xem kìa! Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh ấy đấy à? – Ừ nhỉ, thì cũng có thể là anh đúng. Nhưng hắn đến đây làm gì nhỉ, trong đường xe điện ngầm này, và tụi các ông quan bà kiếc đi theo thì đâu cả? – Có khi đã gửi tuốt ở kho hành lí nhà ga để đi chơi vi hành đấy. [1] Đấy, cô em họ thân mến của tôi! Tôi đã thuật lại y nguyên câu chuyện giữa một đôi bạn trẻ ngồi cùng toa xe với tôi. Họ ngấu nghiến trông tôi với cặp mắt ma mãnh, tò mò, nhưng lại ra bộ không nhìn tôi gì cả. Cuộc đời thoại tiếp diễn như sau: – Thế em nghĩ thế nào về người khách của chúng ta? – Người con trai hỏi, ngỡ tôi là một đấng hoàng thượng và tưởng rằng tôi không hiểu họ nói gì với nhau. – Hắn còn làm mình bật cười hơn nữa cơ lúc hắn đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm. – Người bạn gái anh ta trả lời. – Hạt châu báu đấy chứ! Em thích có chỗ châu báu ấy qúa đi, chứ còn gì! Em mà có ấy à, thì em cố tình đánh mất đi, để được báo chí nói đến, và thế là được trở thành một ngôi sao. Thế còn anh, anh nghĩ gì về người dân bảo hộ của chúng ta nào? – Ích cho chúng ta lắm đấy. Cái lò ở Găng-be đã bán rồi. Cái rương của Hê-ra Miếc-ten cũng đã thanh toán rồi. Vụ án người bị chặt ra từng khúc thì không thu hút được công chúng lắm vì không thuộc giới thượng lưu. Và thế là cái kho giải trí của chúng ta sắp cạn ráo như B.Đ.D. vậy. Nhật báo chẳng còn cái gì để bôi bác lên giấy cả. Đúng lúc đó thì... – Đổi xe ở đây chứ, anh yêu ơi? – Không, ga sau. Đúng lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta. – Em thì em thích Sác-lô hơn. Với lại, vua, thì tốn lắm. – Đâu có! Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở Nhà hát Ca vũ đấy chứ? Phải trả những nghìn rưởi phơ-răng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công-gô; hôm nay thì chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh? Nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có định kí giao kèo thuê đẩy... [2] Tàu đỗ, cặp trai gái bước xuống, mắt cứ liếc nhìn trộm tôi, và tôi thì buồn cười quá, bỗng đâm ra nghĩ, và nghĩ đến cô. Tôi như còn trông thấy cái ngày mà cô với tôi, đôi chúng ta, như đôi chim ấy thôi, đậu vắt vẻo trên đầu gối ông bác thân yêu, nghe bác kể chuyện cổ tích. Tôi nhớ chuyện vua Thuấn, vì muốn đích thân tai nghe mắt thấy dân có bằng lòng mình không, nên cải trang làm dân cày đi dò la khắp xứ. Lại nhớ chuyện vua Pi-e nước Nga đi làm thợ và đến làm việc ở các công trường nước Anh. Bên những bậc cải trang vĩ đại ấy muốn đi sâu vào cuộc sống của nhân dân, ngày nay, còn có những ông hoàng, ông chúa, để tiện việc riêng và vì những lí do không cao thượng bằng, cũng “vi hành” đấy. Tôi không được rõ ý đồ nhà “vi hành” của chúng ta ra sao. Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-lếch-xăng Đệ nhất, có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài, hay không? Phải chăng ngài muốn học sử dụng (theo kiểu Pháp) cái liềm của nhà nông cùng cái búa của thầy thợ để sau cuộc ngao du, đem về chút ấm no mà đám “dân” bất hạnh của ngài tới nay hoàn toàn chẳng biết đến? Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé [3] Thế nào thì thế, ít lâu nay tôi đã trở thành một đấng hoàng thượng bất đắc dĩ. Bất cứ tôi đi đâu, là có người nhìn tôi, ganh tị tôi, mỉm cười với tôi, tán tụng tôi, đi theo tôi. Cô em thân mến, hẳn cô bảo tôi rằng thế là cái bánh xe vô lượng nó đã quay rồi đấy. Đến nay, tất cả những ai ở Đông Dương có màu da trắng đều là những bậc khai hoá, thì bây giờ đến lượt tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ở Pháp. Cô không thể tưởng tượng được cảnh đón tiếp tốt đẹp người ta dành cho chúng tôi ở đây. Quần chúng cứ là tự phát mà biểu lộ nhiệt tình khi vừa thoáng thấy một đồng bào ta. Những tiếng “Hắn đấy!” hay “Xem hắn kìa!” là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng mà chúng tôi thường gặp dọc đường. Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình nữa, và để chắc chắn khỏi thất thố trong nhiệm vụ tiếp tân, Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt! Đó là những người phục vụ thầm kín, rụt rè, vô tư và hết sức tận tuỵ. Các vị chẳng nề hà chút công sức nào để bảo vệ bọn tôi, và giá cô được trông thấy các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được về nỗi niềm âu yếm của các vị đối với tôi. Có thể nói là các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu mất hút tôi chỉ trong dăm phút? Cô thử nghĩ, làm sao mà không xúc động sâu xa được, khi được đối đãi như thế? [4] Ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi cửa, thật tôi không sao che giấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh được có một vị hoàng đế. Phạm Huy Thông dịch (In trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995) [1] Suy luận Đoạn đối thoại cho thấy đôi thanh niên đã nhầm tưởng người kể chuyện xưng “tôi” với ai? [2] Suy luận Cả hai đoạn thoại cho thấy công chúng Pháp đánh giá thể nào về nhân vật mà đôi trai gái đang nói tới? [3] Suy luận Việc liên tưởng đến các vị vua, các câu hỏi và giọng điệu trong đoạn này có tác dụng gì trong việc khắc hoạ nhân vật? [4] Suy luận Ở đoạn này, người kể chuyện đang nói về điều gì và nói về ai? Tóm tắt sự kiện, xác định bố cục và tình huống xảy ra câu chuyện trong văn bản.
Đọc văn bản Đôi chân đèn bằng bạc (trích Những người khốn khổ) và thực hiện các yêu cầu phía dưới: ĐÔI CHÂN ĐÈN BẰNG BẠC (Trích tiểu thuyết Những người khốn khổ) Vích-to Huy-gô Vích-to Huy-gô (Victor Hugo) Vích-to Huy-gô (1802 – 1885) là văn hào vĩ đại nhất trong trào lưu văn học lãng mạn Pháp thế kỉ XIX. Ngoài di sản thơ ca và kịch đồ sộ, ông còn để lại những kiệt tác tiểu thuyết mang đậm cảm hứng lãng mạn: Nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris), Những người khốn khổ, Chín mươi ba,... Tiểu thuyết Những người khốn khổ kể về cuộc đời của người tù khổ sai Giăng Van-giăng (Jean Valjean). Ra tù sau 19 năm bị giam cầm vì ăn cắp bánh mì cho đàn cháu đói khổ và nhiều lần vượt ngục không thành, Giăng Van-giăng được Giám mục My-ri-en (Myriel) cho tá túc khi không nhà trọ nào nhận ông. Ông được giám mục cảm hoá (Nguồn: shutterstock.com) với lời dặn phải trở thành người lương thiện. Tám năm sau, Giăng Van-giăng trở thành ông Ma-đơ-len (Madeleine) đáng kính, thị trưởng của một thành phố nhỏ. Cô công nhân Phăng-tin (Fantine) trong nhà máy của ông, vì chưa chồng mà có con nên bị xua đuổi khỏi nhà máy, phải gửi con gái là bé Cô-dét (Cosette) ở nhờ nhà Tê-nác-đi-ê (Thenardier), một chủ quan trọ lưu manh, rồi bán tóc, bán răng, bán thân để kiếm tiền nuôi con. Khi cô hấp hối, ông Ma-đơ-len mới hay chuyện và hứa sẽ chăm sóc Cô-dét thay cô. Cùng lúc ấy, để cứu một người khác khỏi bị kết tội oan do bị thanh tra Gia-ve (Javert) nhầm với mình, Giăng Van-giăng ra thú nhận về danh tính thật của mình, sau đó vượt ngục và chuộc Cô-dét khỏi tay chủ quán trọ Tê-nác-đi-ê, đưa em lên Pa-ri và nhận em làm con gái. Trong cuộc nổi dậy năm 1832, Giăng Van-giăng tham gia chiến đấu bên cạnh các chiến sĩ cộng hoà trẻ tuổi, trong đó có chàng sinh viên Ma-ri-uýt (Marius), người yêu của Cô-dét, và chú bé lang thang Ga-vơ-rốt (Gavroche), đứa con trai bị bỏ rơi của Tê-nác-đi-ê. Giăng Van-giăng cứu sống Gia-ve và Ma-ri-uýt khi tất cả mọi người xung quanh đều hi sinh. Khó xử trước hành động cao thượng của Giăng Van-giăng, Gia-ve tự sát. Ma-ri-uýt kết hôn với Cô-dét và dần xa lánh Giăng Van-giăng do biết về quá khứ của ông. Nhiều năm sau, khi Giăng Van-giăng hấp hối, Ma-ri-uýt mới hiểu rõ tấm lòng cao thượng của ông và đưa Cô-dét đến gặp ông. Trước khi qua đời, dưới ánh sáng của đôi chân đèn bằng bạc, Giăng Van-giăng dặn đôi vợ chồng trẻ: “Trên đời này chỉ có một điều ấy thôi, đó là yêu thương nhau”. Đoạn trích Đôi chân đèn bằng bạc rút từ Chương 12 của tiểu thuyết Những người khốn khổ. Lúc này Giăng Van-giăng vừa ra tù sau 19 năm khổ sai. Cầm tờ giấy thông hành màu vàng, dấu hiệu cho thấy người mang nó đã từng phạm tội, Giăng Van-giăng bị tất cả các nhà trọ từ chối, chỉ có Giám mục My-ri-en cho ông tá túc. Đêm đó, ông lấy trộm bộ đồ ăn bằng bạc của giám mục và bỏ đi. **** Sáng hôm sau, mặt trời vừa mọc, ông giám mục đã ra đi bách bộ ngoài vườn. Bà Ma-gơ-loa (Magloire) hớt hải chạy đến: – Đức cha, thưa Đức cha, Đức cha có biết cái giỏ đồ bạc ở đâu không? – Có. – Lạy Chúa! May quá! Con đang không biết nó chạy đi đâu. Ông giám mục vừa nhặt được cái giỏ ở trên luống hoa. Ông đưa cho bà. – Giỏ đây. – Ô hay! – bà Ma-gơ-loa kêu – Cái giỏ không! Thế còn bộ đồ bạc? – À, bà tìm bộ đồ bạc à? Thế thì tôi không biết. – Trời đất ơi! Bị mất trộm hết rồi! Chính cái thằng tối hôm qua nó lấy rồi! Và thoáng một cái, bà chạy vụt vào phòng nguyện, đến chỗ giường khách, rồi đảo trở ra. Ông giám mục đang cúi xuống bồn hoa nhìn mấy cây hoa bị cái giỏ quăng phải đè gẫy. Nghe tiếng bà Ma-gơ-loa kêu, ông ngẩng người lên. [1] – Thưa Đức cha, nó đi rồi! Đồ bạc bị mất trộm rồi! Vừa kêu lên như thế, bà lại nhìn thấy ở góc vườn có vết người mới trèo qua tường làm lở cả bờ vôi. – Đây này! Nó trèo qua lối này đây. Nó nhảy ra lối phố Cơ-sơ-phi-lê (Cochefilet)! Ả, quân khốn kiếp! Nó lấy trộm bộ đồ bạc của nhà ta rồi còn gì. Ông giám mục yên lặng một lát, ngẩng nhìn bà Ma-gơ-loa một cách nghiêm trang và ôn tồn bảo: – Nhưng này, bộ đồ bạc ấy có phải là của nhà ta không đã? Bà Ma-gơ-loa ngẩn người ra. Hai người đứng lặng yên một lát, ông giám mục lại nói tiếp: Bà Ma-gơ-loa này, lâu nay ta cứ giữ mãi bộ đồ bạc ấy là sai đấy. Nó là của kẻ khó. Mà người ấy là hạng người nào? Chính là một kẻ khó mà. – Chao ôi! Lạy Chúa! Tôi với cô Báp-ti-xtin (Baptistine) thì nói làm gì. Chúng tôi thế nào cũng xong. Nhưng còn Đức cha: Từ nay thì Đức cha ăn bằng gì? Ông giám mục nhìn bà, dáng ngạc nhiên: – Ô hay! Thế không có thìa nĩa thiếc à? Bà Ma-gơ-loa so vai: – Thiếc ăn có mùi tanh. – Thế thì dùng đồ sắt. Bà Ma-gơ-loa nhăn mặt lại: – Sắt có vị hạn. – Nếu thế thì dùng đồ gỗ vậy. Một lúc sau, ông ăn sáng ở ngay cái bàn chỗ Giăng Van-giăng ngồi hôm trước. Vừa ăn, ông vừa vui vẻ nói chuyện. Cô em trầm tĩnh ngồi nghe và bà Ma-gơ-loa thì lẩm bẩm càu nhàu một mình. Ông bảo: Chấm miếng bánh vào sữa thì cần gì phải thìa nĩa, dù là bằng gỗ đi nữa. Bà Ma-gơ-loa vừa đi đi lại lại vừa lẩm bẩm: – Đời thuở nhà ai lại đi tiếp rước một thằng như thế vào nhà bao giờ! Lại còn cho nó nằm ngay bên cạnh phòng mình. Phúc đức làm sao nó lại chỉ mới có lấy của mà thôi! Trời ơi là trời! Cứ nghĩ đến mà rùng mình! Hai anh em ăn xong sắp đứng dậy thì có người gõ cửa. Ông giám mục bảo: – Cứ vào. Cửa mở. Một tốp người kì quặc hùng hổ kéo nhau vào. Ba người túm cổ một người. Ba người ấy là lính sen đầm; người kia là Giăng Van-giăng. [2] Một người đội, ý chừng chỉ huy cả bọn, đứng gần ở cửa. Y bước vào, tiến đến gần ông giám mục, giơ tay chào: – Bẩm Đức cha... Nghe thấy thế, Giăng Van-giăng đương lầm lì và có vẻ thất vọng, ngẩng lên nhìn, kinh hoàng. Anh lẩm bẩm: – Đức cha à! Vậy ra không phải là ông cụ xứ... Một tên lính quát: – Im! Đây là Đức Giám mục. Lúc ấy, ông giám mục mặc dầu cao tuổi cũng cố bước nhanh tới bên anh. Ông nhìn vào Giăng Van-giăng: – A, anh đấy à! Thấy anh tôi mừng làm sao! Nhưng này, tôi còn cho anh cả đôi chân đèn nữa kia mà, cũng bằng bạc đấy, có thể bán được hai trăm phơ-răng. Sao anh lại không mang đi một thể với bộ đồ ăn? Giăng Van-giăng giương con mắt nhìn con người đáng kính ấy. Vẻ mặt anh bây giờ tưởng không còn ngôn ngữ nào có thể tả rõ được. Viên đội nói: – Bẩm Đức cha, hoá ra tên này nói thật? Chúng tôi gặp nó đang đi như có ý chạy trốn. Chúng tôi bắt giữ lại để khám thì thấy có bộ đồ bạc này... Ông giám mục cười, ngắt lời y: – Và anh ấy nói rằng đêm hôm qua anh ấy ngủ ở nhà một ông cố đạo già và ông ấy đã cho anh chứ gì? Tôi đoán ra thế. Rồi các ông giải anh ta đến đây phải không? Lầm rồi. – Nếu vậy, chúng tôi có thể tha cho hắn đi chứ? – Hẳn rồi. Bọn lính buông Giăng Van-giăng ra. Anh lùi lại ngơ ngác như người mơ ngủ, lắp bắp nói không ra tiếng: – Tha cho tôi thật à? Một người lính nói: – Phải, tha cho mày đấy, mày không nghe thấy à? Ông giám mục lại nói: – Này, anh cầm nốt hai cây chân đèn rồi hãy đi nhé! Đèn đây. Ông đến chỗ lò sưởi, lấy hai cây đèn và đem lại cho Giăng Van-giăng. Hai người đàn bà lặng yên đứng nhìn không nói không rằng, không có một cử chỉ nào muốn ngăn trở ông giám mục. Giăng Van-giăng run bần bật. Như cái máy, anh giơ tay cầm lấy đôi đèn, mặt mày ngơ ngác. Ông giám mục nói: – Thôi, chúc anh lên đường bình yên. Nhân thể, lần sau anh có trở lại đây, nhớ không cần phải qua phía vườn. Cứ cửa lối qua phố mà đi. Ngày đêm lúc nào ra vào cũng được, cửa chỉ cài có cái then thôi. Rồi ông quay về phía bọn cảnh sát: – Thôi, các ông có thể về được rồi. Bọn lính đi ra. Giăng Van-giăng như người sắp ngất. Ông giám mục lại gần, khẽ bảo: – Đừng quên, đừng bao giờ quên rằng anh đã hứa với ta sẽ dùng chỗ tiền này để trở thành con người lương thiện nhé. Giăng Van-giăng không nhớ có hứa với ông giám mục điều gì hay không. Anh cứ đứng ngây người ra. Ông giám mục đã nhấn mạnh vào câu mình nói. Bây giờ bằng một giọng thật trang nghiêm, ông lại nói thêm: – Giăng Van-giăng, người anh em của tôi ơi, từ nay anh không còn là kẻ ác nữa, anh thuộc về phía người lương thiện rồi. Linh hồn của anh, ta đã mua đây, ta đem nó ra khỏi cõi hắc ám, ra khỏi tư tưởng sa ngã, ta đem dâng nó cho Chúa. [3]  (Vích-to Huy-gô, Những người khốn khổ, tập 1, bản dịch của Huỳnh Lý, Vũ Đình Liễn, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu, NXB Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 177 – 182) [1] So sánh Cùng tiếp nhận thông tin về việc mất bộ đồ ăn bằng bạc, hành động của bà Ma-gơ-loa và Giám mục My-ri-en trong đoạn văn này có gì khác nhau? [2] Dự đoán Bạn dự đoán bà Ma-gơ-loa và Giám mục My-ri-en sẽ phản ứng như thế nào khi thấy cảnh sát bắt Giăng Van-giăng về trước mặt họ? [3] Suy luận Vì sao Giám mục My-ri-en biết từ nay Giǎng Van-giǎng đã thuộc về phía người lương thiện? So sánh phản ứng của bà giúp việc Ma-gơ-loa và Đức giám mục My-ri-en đối với việc bị mất bộ đồ ăn bằng bạc. Phản ứng đó cho thấy điều gì về tính cách của họ?