Danh sách câu hỏi

Có 27,889 câu hỏi trên 558 trang
Đọc báo cáo nghiên cứu sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở hộp bên phải nghiên cứu sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở hộp bên phải MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ SỬ DỤNG ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH VÀ CÁC RỐI LOẠN GIẤC NGỦ, RỐI LOẠN T M LÍ Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VÀ SINH VIÊN Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Phúc Thành Nhân, Nguyễn Thị Thuý Hằng Trường Đại học Y – Dược Huế Tóm tắt: Việc gia tăng sử dụng điện thoại thông minh trong giới trẻ đang tạo nên một số hiệu ứng tiêu cực và là vấn đề y tế công cộng đáng quan tâm ở nhiều nước. Việc lạm dụng và phụ thuộc điện thoại thông minh có thể dẫn đến các rối loạn về thể chất và tâm lí ở người sử dụng. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn chưa nhận được nhiều sự quan tâm do thiếu các bằng chứng khoa học. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm (1) Mô tả thực trạng sử dụng điện thoại ở đối tượng học sinh trung học phổ thông và sinh viên đại học tại thành phố Huế; (2) Xác định mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh và các triệu chứng về rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí ở đối tượng nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 1 150 học sinh trung học phổ thông và sinh viên tại thành phố Huế. Phỏng vấn qua bộ câu hỏi sử dụng thang đo SAS – SV đánh giá nghiện sử dụng điện thoại, thang K10 đánh giá rối loạn tâm lí và thang PSQI đánh giá chất lượng giấc ngủ. Kết quả: Tỉ lệ sử dụng điện thoại thông minh của học sinh và sinh viên là 78,0%. Tỉ lệ nghiện sử dụng điện thoại di động thông minh ở học sinh là 49,1% và tỉ lệ này ở sinh viên là 43,7%. Có 57,3% học sinh có tình trạng chất lượng giấc ngủ không tốt và tỉ lệ này ở nhóm sinh viên là 51,6%. Có mối liên quan đến tình trạng nghiện sử dụng điện thoại thông minh và các rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí (p < 0,05). Kết luận: Tỉ lệ nghiện sử dụng điện thoại thông minh ở học sinh và sinh viên là đáng báo động và có liên quan đến các rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí. Cần có những giải pháp can thiệp giúp học sinh, sinh viên nhận thức được và quản lí tốt việc sử dụng điện thoại thông minh. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Điện thoại thông minh hiện nay đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của người dân, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi. Vấn đề lạm dụng và nghiện sử dụng điện thoại thông minh ngày càng trở nên phổ biến và đang là một vấn đề xã hội quan trọng ở nhiều nước trên thế giới. Một cuộc khảo sát trên 1519 học sinh ở Thụy Sĩ cho thấy có 16,9% học sinh nghiện sử dụng điện thoại thông minh (5). Các nghiên cứu đã cho thấy mức độ phổ biến và việc sử dụng điện thoại thông minh quá mức có thể dẫn đến các rối loạn hành vi, ảnh hưởng xấu đến tình trạng sức khoẻ cũng như đời sống xã hội và chất lượng học tập ở nhóm thanh thiếu niên (12), [16). Điện thoại thông minh với nhiều tính năng đã gây ra vấn đề nghiện tương tự như nhiều khía cạnh đối với nghiện Internet [9], [10] nhưng cũng có một số khác biệt như khả năng di chuyển và các tính năng truyền thông dễ dàng và trực tiếp truy cập Internet thời gian thực [10]. Nghiện điện thoại thông minh nói chung khó xác định vì liên quan không chỉ đến thể chất mà còn với các yếu tố xã hội và tâm lí (9), Việt Nam là một trong những quốc gia có tỉ lệ người sử dụng điện thoại thông minh cao trên thế giới [14). Mặc dù ngày càng có nhiều người trẻ tuổi sử dụng điện thoại thông minh nhưng vẫn còn khá ít các nghiên cứu về ảnh hưởng của việc này đến các rối loạn hành vi, tâm lí và giấc ngủ ở nhóm đối tượng này. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh và các rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí ở học sinh trung học phổ thông và sinh viên” với các mục tiêu: (1) Mô tả thực trạng sử dụng điện thoại ở đối tượng học sinh trung học phổ thông và sinh viên đại học tại thành phố Huế; (2) Xác định mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh và các triệu chứng về rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí ở đối tượng nghiên cứu. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Thời gian nghiên cứu 2.2. Đối tượng nghiên cứu 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.4. Thu thập và phân tích số liệu 2.5. Xử lí số liệu III. KẾT QUẢ Bảng 1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu [...] Nhận xét: Nữ giới chiếm ưu thế trong nhóm đối tượng nghiên cứu. Trong khi nhóm học sinh phổ thông chủ yếu sống cùng gia đình / họ hàng thì nhóm sinh viên chủ yếu ở nhà trọ / kí túc xá. Phần lớn đều có sử dụng điện thoại thông minh. Hơn 90% đối tượng nghiên cứu là sinh viên đã sử dụng điện thoại thông minh từ 3 năm trở lên. Bảng 2. Thời gian nghĩ đến và kiểm tra điện thoại thông minh [...] Nhận xét: Ở nhóm học sinh trung học phổ thông, thời gian nghĩ đến việc kiểm tra điện thoại mỗi 30 – 59 phút chiếm tỉ lệ cao nhất, tiếp đến là nhóm nghĩ đến việc này mỗi 1 – 3 giờ. Trong khi đó, đa số các sinh viên nghĩ đến việc kiểm tra điện thoại mỗi 1 – 3 giờ. Tương tự, khoảng cách giữa các lần kiểm tra điện thoại thông minh ở nhóm học sinh phổ thông có xu hướng ngắn hơn so với nhóm sinh viên. Bảng 3. Mức độ phụ thuộc điện thoại thông minh [...] Nhận xét: Đánh giá nghiện sử dụng điện thoại thông minh qua thang đo SAS – SV cho thấy tỉ lệ nghiện sử dụng điện thoại thông minh ở nhóm học sinh trung học phổ thông cao hơn so với tỉ lệ này ở nhóm sinh viên. [..] Bảng 4. Liên quan giữa nghiện sử dụng điện thoại thông minh và rối loạn giấc ngủ Nhận xét: – Tỉ lệ rối loạn giấc ngủ ở nhóm người nghiện sử dụng điện thoại thông minh cao hơn so với nhóm còn lại. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. - Có sự khác biệt về mức độ rối loạn tâm lí giữa các nhóm đối tượng nghiên cứu. Những người nghiện sử dụng điện thoại thông minh có tỉ lệ rối loạn tâm lí ở mức vừa và nghiêm trọng cao hơn so với nhóm không nghiện sử dụng điện thoại thông minh (p<0,05). IV. BÀN LUẬN Nghiên cứu về tình trạng sử dụng điện thoại thông minh được thực hiện ban đầu với đối tượng là sinh viên vào năm 2015. Sau khi nhận thấy tỉ lệ sử dụng và phụ thuộc điện thoại thông minh ngày càng cao và độ tuổi bắt đầu sử dụng ngày càng trẻ hoá, chúng tôi đã tiếp tục tiến hành nghiên cứu tương tự trên nhóm đối tượng là học sinh trung học phổ thông vào cuối năm 2016 và đầu năm 2017. Qua bảng 1, có thể thấy rằng tỉ lệ sử dụng điện thoại thông minh là rất cao, 89,6% ở học sinh phổ thông và 70,5% ở nhóm sinh viên. Tỉ lệ sử dụng điện thoại thông minh tổng chung của cả 2 nhóm là 78%. Sở hữu 1 điện thoại chiếm đa số trong cả 2 nhóm đối tượng nghiên cứu. Trong khi nhóm học sinh phổ thông đa phần mới sử dụng điện thoại thông minh chưa đến 3 năm (77,3%), thì sử dụng từ 3 năm trở lên lại chiếm ưu thế ở nhóm đối tượng là sinh viên với 91,1%. Kết quả nghiên cứu của tác giả Bucholz A và cộng sự (2016) tại Hoa Kỳ thì 93,9% sinh viên y khoa có điện thoại thông minh [2]. Thời gian nghĩ đến việc kiểm tra điện thoại thông minh ở nhóm đối tượng học sinh phổ thông chủ yếu là mỗi 30 phút đến 1 giờ và từ 1 – 3 giờ. Thời gian kiểm tra điện thoại thông minh ở nhóm đối tượng này đa phần là cứ mỗi 10 phút đến dưới 30 phút. Đối với nhóm đối tượng nghiên cứu là sinh viên, thời gian nghĩ đến việc kiểm tra điện thoại và thời gian kiểm tra điện thoại thường dài hơn so với nhóm đối tượng là học sinh phổ thông. Hơn hai phần ba sinh viên nghĩ đến việc kiểm tra điện thoại mỗi 1 – 3 giờ và hơn, gần một nửa sinh viên kiểm tra điện thoại cứ mỗi 10 phút – 1 giờ. Điều này cho thấy có thể học sinh trung học phổ thông phụ thuộc vào điện thoại di động thông minh hơn sinh viên giống như nghiên cứu của Severin Haug và cộng sự vào năm 2015 ở Thụy Sĩ khi cho kết quả tỉ lệ nghiện điện thoại của nhóm học sinh từ 15 - 16 tuổi cao hơn những học sinh từ 19 tuổi trở lên [5]. Tỉ lệ học sinh và sinh viên nghiện sử dụng điện thoại thông minh khá cao, chiếm tỉ lệ lần lượt là 49,1% và 43,7%. Tỉ lệ này cao hơn trong các nghiên cứu tương tự nghiên cứu ở Thuỵ Sĩ năm 2015 là 16,9% [5], nghiên cứu ở Hàn Quốc năm 2012 là 11,8% [6] và năm 2013 là 24,8% [10]. Kết quả của chúng tôi cho thấy tỉ lệ nghiện sử dụng điện thoại di động thông minh ở nhóm học sinh trung học phổ thông cao hơn so với nhóm sinh viên. Tỉ lệ cao như thế này cũng dễ hiểu vì điện thoại thông minh có nhiều chức năng hơn nghe gọi thông thường nên làm cho người dùng tiêu tốn nhiều thời gian vào nó. Đồng thời, đối tượng vị thành niên thường có xu hướng nghiện điện thoại nhiều hơn những người trên 19 tuổi [5]. Đây là một thực trạng đáng lo ngại bởi sự phụ thuộc vào điện thoại thông minh quá mức có thể gây ra nhiều vấn đề sức khoẻ tâm thần cũng như thực thể [6]. Phân tích trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ nữ giới nghiện điện thoại thông minh cao hơn so với nam giới. Kết quả này là phù hợp với nghiên cứu của Demirci K., Akgonul M. và Akpinar A., năm 2015, tại Thổ Nhĩ Kì và nghiên cứu của Hwang KH, Yoo YS và Cho OH, năm 2012, tại Hàn Quốc [4], [6]. Chất lượng giấc ngủ không tốt ở giới trẻ dường như đã trở thành thực trạng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Khảo sát cắt ngang tại hai trường đại học tại Hoa Kỳ của tác giả Afandi O., kết quả cho thấy có tới 67,2% sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt [1], một nghiên cứu khác cũng tại Hoa Kỳ cũng cho con số tương tự với 58,7% sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt [7]. Một nghiên cứu ở sinh viên Ethiopia cũng cho thấy hơn một nửa sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt (55,8%) [11]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy tình trạng chất lượng giấc ngủ của học sinh trung học phổ thông và sinh viên là không tốt (57,3% ở nhóm học sinh và 51,6% ở nhóm sinh viên) chiếm tỉ lệ khá cao. Sử dụng điện thoại thông minh quá mức như đã trình bày ở trên có khả năng gây ra nhiều vấn đề sức khoẻ cho cơ thể như là ảnh hưởng thị lực và đau ở cổ tay hay cổ gáy [9]. Trầm trọng hơn, lạm dụng điện thoại thông minh có thể gây ra một vài vấn đề tâm thần hoặc rối loạn hành vi. Phân tích mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh với tình trạng rối loạn giấc ngủ trong các đối tượng nghiên cứu cho kết quả tỉ lệ rối loạn giấc ngủ ở nhóm nghiện sử dụng điện thoại thông minh cao hơn so với nhóm còn lại (p<0,05). Do đó, có thể chỉ ra rằng có thể việc sử dụng điện thoại thông minh là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ của học sinh. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Long X và cộng sự và nghiên cứu của Demirci K và cộng sự (4), [13]. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã chỉ ra tỉ lệ có một rối loạn tâm lí (lo âu và trầm cảm) cao hơn ở nhóm lạm dụng điện thoại thông minh hơn là nhóm không lạm dụng điện thoại thông minh. Nghiện sử dụng điện thoại thông minh càng cao thì rối loạn tâm lí càng nặng (p < 0,05). Kết quả này của chúng tôi cũng phù hợp với một số nghiên cứu khác trên thế giới [1], [6], [15]. Điều này cho thấy việc sử dụng điện thoại thông minh có thể là một trong những nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đến các rối loạn tâm lí và sức khoẻ tâm thần của các đối tượng học sinh, sinh viên từ 15 – 25 tuổi. V. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nghiện sử dụng điện thoại thông minh ở học sinh trung học phổ thông và sinh viên là đáng báo động và có liên quan đến các rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lí. Cần có những giải pháp can thiệp giúp học sinh, sinh viên nhận thức được và quản lí tốt việc sử dụng điện thoại thông minh. Cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn trong lĩnh vực này để đưa ra các bằng chứng và giải pháp nhằm hạn chế các tác động có hại của việc sử dụng điện thoại thông minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO [...] (Theo Tạp chí Y Dược học, Trường Đại học Y – Dược Huế, tập 7, số 4 – tháng 8-2017) (1) Đọc lưới văn bản và cho biết nghiên cứu này thuộc lĩnh vực nào? (2) Phần Tóm tắt cung cấp thông tin ngắn gọn về những khía cạnh nào? (3) Phần Kết quả cho biết các tác giả đã nghiên cứu những nội dung nào? (4) Những ý kiến nêu ra ở phần Bàn luận được dựa trên những căn cứ nào? (5) Em có đồng tình với Kết luận của báo cáo không? Vì sao?
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: Tóm tắt: Tác phẩm Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi) kể về cuộc đời và tấm gương chiến đấu của chị Nguyễn Thị Út (còn được gọi là chị Út, chị Út Tịch) là người mẹ của sáu đứa con nhỏ – Anh hùng Lực lượng vũ trang ở tỉnh Trà Vinh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ một cô bé nghèo đi ở đợ, chị đã được cách mạng giác ngộ và trưởng thành, trở thành “người mẹ cầm súng”, người chiến sĩ dày dặn kinh nghiệm, cùng chồng và đồng đội liên tiếp lập nhiều chiến công. Văn bản dưới đây được trích từ tác phẩm. Tại xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh có một người đàn bà đã sáu con tên là Nguyễn Thị Út. Dáng người nhỏ gọn, chị có khuôn mặt tròn và đôi mắt to, sáng. Cô bác lớn tuổi quen gọi chị là con Út Trầu, vì chị hay ăn trầu. Lại có người đặt danh chị là “Bà Hồng”) vì chị đánh giặc rất giỏi. Xóm giềng theo tục địa phương, ghép tên chị với tên chồng, cứ kêu là Út Tịch. Mới đây, bà con lại bàn tán một chuyện xảy ra về chị. Một đêm tối trời tháng giáp Tết vừa qua, dân làng đáy ở ngoài cồn Bản Chát bỗng nghe tiếng đàn bà kêu cứu. Vào mùa nước rong, sông chảy xiết, sóng to, có lượn lớn bằng con trâu, dân nghèo đi làm ăn bị chìm ghe, đồ đạc trôi láng sống Người ta chạy ghe máy ra giữa dòng, vớt lên được một người đàn bà chỉ có đã mắt là tỉnh táo. Trên vai chị, một đứa bé tuổi còn bú, cứng đờ, thở thoi thóp. Cùng với chị còn ba đứa nhỏ gái run rẩy, da tím ngắt. Đó là chị Út Trầu. Hỏi ra mới biết hôm đó nghe tin giặc bố ngoài sông, chi mướn xuồng chở ít dưa sang Cầu Lộ bán, tiện dịp thăm dò tình hình giặc ngoài đó ra sao. Giặc chặn đường ban ngày, chị phải đi ban đêm. Ra tới giữa sông, sóng lưỡi búa đã bốc nước làm chìm xuồng chị. Sông Hậu Giang rộng mênh mông bé ngang bốn ki lô mét, chèo thẳng tay cũng mất ba tiếng. Mấy mẹ con ngụp lặn giữa trời nước tối đen. Chị Út vai vác đứa con mới đẻ, lội đứng, miệng hò hét điều khiển ba đứa con gái, đứa nhỏ nhất mới tám tuổi, bám theo mép xuồng còn chìm lờ đờ, thả trôi. Xuồng muốn chìm luôn xuống đáy sông, chị cố nâng lên. Mọi việc đều phải tỉnh táo, chính xác. Nếu không khéo, đứa nhỏ trên vai sẽ chết. Quá tay một chút, cái xuồng cũng có thể chìm luôn. Cứ như vậy, hai tiếng đồng hồ, sông lớn, sóng cả đã thua chị. Lên bờ, thoa bụng con, chị thử sức con bằng cách thọc lét cho nó cười. Mấy mẹ trong xóm nói: Đàn bà như tao thì sình lên rồi. Nó vậy mà mẹ con còn y. Mấy mẹ Khơ-me nói: – Con đó chuyện gì nó cũng làm như đụng giặc vậy. [...] Hỏi bà con những ai là người nghèo ở Tam Ngãi, bà con sẽ nói ngay là nhà Út Tịch. Má Hai vẫn ngồi kể chuyện gia đình đó cả ngày không hết. Má sẽ nói rằng vợ chồng con cái nó như sao trên trời, đêm quang mây mới tụ lại. Má sẽ hết lời khen Út vì đã tóc quàng tai, vai quàng súng, vừa đánh giặc, vừa làm nuôi con. Út trồng dưa. Con Bé được mẹ dạy bón phân và chiết trái. Trồng dưa không đủ ăn, Út đi vay gạo làm bánh, cho con đem ra chợ bán. Miếng ăn trên cạn, dưới sông, trong giồng, ngoài bãi mẹ con đều đã làm qua. [...] Nhân dân Tam Ngãi cũng có một thói quen. Dù là Ngãi Nhứt, Ngọc Hồ nhiều vườn hay Bưng Lớn nhiều lúa, dù là bà con người Kinh hay người Khơ-me, đủ là các mẹ chiến sĩ hay các cô gái trong đội văn nghệ, tất cả đều làm một việc giống nhau: giúp đỡ gia đình Út. Nếu thấy chị em con Bé đi một mình thì người ta hiểu rằng cha mẹ chúng đang đi đánh giặc. Và nếu lúc đó có pháo hoặc máy bay bắn thì bất cứ ai cũng có thể ra kéo chúng xuống hầm mình. Còn gặp bữa ăn thì khỏi nói, ai cũng cảm thấy có bổn phận ôm chúng vào nhà, cho ngồi vào mâm, và tìm mọi cách cho chúng thấy ở đây cũng như ở nhà chúng vậy. Út đi ra trận đã bớt phải lo con. Sau khi đánh trận về, mấy mẹ lại kêu chị vào bọc cho vài lít gạo. [...] Chị em con Bé cũng có một thói quen, không ai dạy, nó kêu tất cả ông già bà cả là ông nội, bà nội, những người khác là các bác, các chú, mấy cô, mấy dì, y như tất cả Tam Ngãi đều có họ hàng ruột thịt với gia đình mình vậy. Hàng xóm với Út có ông Sáu Hò. Người thông tin xã già, hay đặt thơ, nghèo, thương vợ chồng Út như con. [...] Hằng ngày, mẹ đi vắng, khạp hết gạo, chị em con Bé lại kéo sang ông. Ông nội, bà nội vẫn nhịn miệng cho cháu. Con Bé mới mười tuổi. Nó bồng hết em này đến em khác. Hông nó cũng sần sượng, nổi chai. Bữa cơm, nó nhường hết thức ăn cho em. Nó nhường riết đến nỗi bây giờ không biết ăn thịt cá. Muỗi nhiều quá, nó cắt lá chuối, hơ nóng, lót võng cho em ngủ. Nửa đêm, muỗi đốt, thằng em ngủ trèo lên ngực nó. Hằng ngày, chị em đi câu cá bống về bằm sả, đi lượm vỏ đạn giặc bắn bỏ ngoài gò mả về cho mẹ. Thấy cái thau, cái vung nào gỉ người ta vứt lại lượm đem về cho ông Mười quân giới. Con bé vô vườn bà Ba xin bẻ bắp chuối, rọc lá, lượm chanh rụng đem ra chợ bán. Bán được đồng nào, nó mua dầu, nước tương, không quên mua đồng bạc bánh bèo về chia cho em. Nó đi chở nước đá mướn, lâu lâu kiếm vài chục. Tháng Bảy, giáp hạt, mẹ nằm chỗ, con Bé dậy sớm nấu xông cho mẹ, rồi dắt em đi mót khoai lặt, khoai nước. Đầu mưa, đi mót giá đậu mọc trắng ngoài rẫy. Tháng Năm, đi xin dây khoai về giâm. Chị em bơi xuồng đi bắt ốc mò cua, ra cồn cắt lác làm dây buộc gói mang ra chợ bán. Những tháng Tam Ngãi đói, con Bé nấu cháo buổi sáng, chiều mới nấu cơm cho em ăn. Đêm, no bụng, em không khóc, còn ban ngày, có đói, chị em kéo sang hàng xóm được. Cả bốn đứa em đều sợ chị. Bảo tắm là tắm, nằm là nằm. [...] Con Bé chỉ hiểu rằng mẹ đi đánh giặc thì mẹ không có ở nhà, còn nó thì là chị nên phải lo cho em. Nó chưa hiểu được cái kế hoạch Xta-lây Tay-lo đang bị sa lầy ở Tam Ngãi, mẹ nó đang cùng các bác, các chú đánh tới tấp vào các ấp chiến lược, và cô bác Tam Ngãi vẫn thường nói: "Mẹ con nó dạy nhau cùng một khuôn, con Út kia đi đánh giặc lại có con Út nọ ở nhà Tháng 5 năm 1964, Út được Mặt trận tỉnh tuyên dương công trạng. Cuộc lễ đông hơn ba ngàn người. Chị được tặng một cây cạc-bin và mười lăm mét vải Giữa ánh điện sáng rực, trước máy phóng thanh, Út nói: – Tôi đi đánh giặc được Mặt trận thương, cô bác thương nên cứ đánh hoài. Bây giờ trên cho làm xã đội phó, tôi cũng đánh hoài. [...] Cuối tháng 7 năm 1964, cả nước vô đợt tấn công. Riêng ở Tam Ngãi, du kích phải bao vây khu bót Bà Mi. [...] Muốn bao chặt nó, du kích phải làm đủ mọi việc: đắp mô cắt đường tiếp viện từ Cầu Kè, diệt ác ôn, đánh bọn Cầu Kè để dẫn mặt, thường trực nằm ngày đêm quanh bót... Những mô đất đồng bào đắp trên đường đi Cầu Kè cao như trái núi con. Tiểu đội nữ du kích gom hàng xuống gáo dừa về gắn vào mô, có gài kèm lựu đạn. Giặc đón phá, bị nổ tung, chúng đổ đạn có đến hàng tấn vào đám gáo dừa mà xe vẫn không dám chạy. Đó là sáng kiến của đồng bào Kế Sách, Út đã học được. Du kích nam vào sát bót, du kích nữ đánh vòng ngoài. [...] Hằng ngày, Út chỉ gặp con từ nửa đêm tới sáng. Ban ngày, đôi khi chị cũng ghé về. Nhìn thấy mẹ bước vô cửa, đàn con reo lên. Nhưng mẹ chúng chỉ về lấy thêm đạn, xắn tay chùi mũi cho đứa nhỏ một cái, rồi đi ngay. Cả năm đứa không đứa nào đòi theo. Súng vẫn nổ dồn dập. Súng của ta ở cái thế đi tìm giặc mà đánh. Ở nhà, mỗi lần nghe súng, mấy đứa trẻ lại bị bộ: má đánh chỗ này, ba đánh chỗ kia. Ngay trước nhà là hướng ấp chiến lược 3. Dịch sang một chút là ấp 2, ấp 1. Ngang hông là Cầu Kè. Sau hè là bót Bà Mi. Mấy đứa trẻ nghe hướng súng nhận ra nơi cha mẹ. Thị trấn nổ là ba đánh. Bà Mi nổ là má và các cô. Hằng ngày, con Bé vừa đi làm vừa điều khiển đàn em núp máy bay. Máy bay bay như bọ hung trên nóc nhà. Trực thăng Mỹ kêu loa ong óng đòi Giải phóng quân ra đầu hàng! – "Giải phóng quân mắc đi đánh bót, chỉ có "Giải phóng quân con" ở nhà đây thôi! Con Giải phóng quân không biết đầu hàng! Chừng nào giết hết không còn thẳng Mỹ và tay sai nào nữa thì Giải phóng quân sẽ về cùng nhân dân trồng rẫy, nuôi con". Con Bé vẫn nghe mẹ nói vậy. Tối ngày, nó cột khăn trên đầu, lúc ngủ quần cũng còn vo quá gối. Nó nấu cơm cho em ăn rồi cho tất cả lên võng ngồi đưa. Nó chạy tới trạm giao liên xin chạy thư hoả tốc phụ với các cô. Buông việc ra là nó leo lên ngọn dừa trước nhà. Lên đó, nó nhìn thấy dinh quận, nhà máy, lằn sông, thấy những nơi ba má nó đánh giặc. Có máy bay ném bom xa, nó leo lên dòm hướng: Chà Mẹt, Phong Phú, Tân An, Xẻo Khế, Đường Cức, Trà Ôn,... bom nổ nơi nào, nó nói ngay nơi đó. Mấy bà mẹ bồng con đứng bên chợ, bên sông, tất cả đều nhóng lên ngọn dừa, chờ tin nó. Má đi vắng, nó bơi xuồng đến các cơ sở binh vận của má đem về hàng túi đạn. Mấy mẹ chiến sĩ mà nó vẫn kêu là bà nội, kêu nó ghé xuồng, cho gạo, cho thức ăn, cho bánh đem về cho em. Bao giờ nó cũng chừa phần cho má, có khi là một trái chuối đã chín rục. Thường quá nửa đêm, Út mới về tới nhà. Con Bé bật dậy ra mở cửa. Trong mùng, bốn đứa nhỏ là nhỏ nhố: "Má về, má về", rồi thức dậy đều hết. Út không kịp cởi bao đạn, ôm lấy con. Thằng Hiển nhỏ nhất, níu lấy cây cạc-bin của mẹ, đòi ngoéo cò. Con Thanh, em kế con Bé, cởi bao đạn cho mẹ. Con Thơ, con Anh, em kế con Thanh, ôm lấy cổ mẹ. Út phân phát bánh cho con. Những tấm bánh Út đã nhịn sau khi đánh trận về, mấy mẹ cho du kích mỗi người một cái ăn lót dạ. Trong những tiếng ríu rít của đàn con, Út nghe câu được câu mất. Chị vui như vừa đi xa về. Một niềm vui kì lạ, tưởng như việc sống chết vừa xảy ra hồi nãy đây là không có. Và nếu có, nó cũng chỉ còn như những tia chớp yếu ớt, rất xa, trong những đêm mưa mát dịu, không hề làm xao động tới cảnh đầm ấm của mẹ con trong nhà. Thực ra, lúc nằm phục kích, bao ý nghĩ Út đều quay cả vào giặc. Súng nổ, chị quên hết, cả lỗ công sự cũng bỏ. Lúc rút lui trên đường về, chị mới giật mình nhớ đến con. Nếu mình hi sinh, nó sẽ ở với ai đây? Nó ở với nhân dân! Bây giờ nó cũng đã ở với nhân dân rồi. Đời mình cực thì đời sau nó sướng. Giặc còn thì giặc cũng giết cả đời con mình. Nghĩ đến cảnh đàn con phải đi ở đợ như mình ngày xưa, Út không chịu nổi – "Còn cái lại quần cũng đánh!" – Út dạy con như vậy. - Quây quần bên con, Út tập cho con bắn súng. Tay chân chị cũng múa may cùng với con. Thằng Hiển, hai tuổi rưỡi, ôm súng của mẹ, ngọng líu hát: Anh eng ta như ạn con ùi Nó có đúng mình có dao gam Nó éo cô thì mình ở ô đâm. (*) (* Anh em ta như bạn con ruồi . Nó có súng mình có dao găm / Nó ngoéo cò thì mình nhảy vô đâm - Bài hát do trẻ con Tam Ngãi tự đặt ra) Ca sáu mẹ con cùng cười. Út kiểm lại khạp gạo và chai nước tương rồi đặt kế hoạch ngày mai cho đàn con. Mẹ con đi ngủ. [...] Út nằm giữa, đàn con bao tròn chung quanh. Một lát, anh Tịch về. Cảnh đầm ấm ấy lại diễn ra. Hôm sau, hai vợ chồng lại ra chỗ phục kích [...] Hai giờ chiều giặc đổ bộ lên ấp Tân Vinh một trung đoàn cần vào hai mặt Út đi nắm tình hình giặc rồi về bàn với các anh bộ đội: – Các anh gài súng hai đầu cho cứng, đánh. Khúc giữa, cứ để du kích tụi tôi Mặt trận dàn thành hai hướng đón địch. Công sự của du kích đào gần nhà Út, cách một cây cầu. [...] Út dặn chị em bình tĩnh, chờ bộ đội nổ trước. Chị vọt về cầu, la - Cô bác xuống hầm hết nghe, nó tới rồi! Út lại chạy sang. Người mệt, chân muốn bẻ lái ra sau. Giặc khúm núm dò từng bước. Bộ đội vẫn kiên gan chờ nó vào tầm súng. Út lại chạy về nhà, dặn con: – Đừng có ra, nghen con! Nó tới rồi! Đừng sợ nó, nghen! Tiếng đàn con ó ré từ dưới hầm trả lời mẹ. Cái hầm là một lớp áo đất, trên để bộ vạt. Út nhìn vào. Con Bé đang bồng thằng nhỏ. Bốn đứa kia nhìn mẹ cười. Út nói: – Chổng khu lên con! Cả bốn đứa đều chống tay xuống đất, chổng mông lên trời như bốn tại nấm. Đó là động tác ngồi hầm, chống bom làm tức ngực. Út đã dạy con từ trước. Chưa lần nào mặt trận của Út lại ở gần con như vậy. Chị chạy sang, một loạt đạn giặc véo trên đầu. Trên một trăm thằng giặc bị tiêu diệt ngay loạt đầu tiên. [...] Giặc bắn hoảng, đạn như mưa, bay lên ngọn tre cũng có mà cày đất công sự ta cũng có. Út chỉ huy tiểu đội bắn đồng loạt trấn áp địch. Tiếng “bá đỏ” kêu ùm ùm như trống đánh. [...] Bộ đội xung phong. Du kích nhào theo. Đang thu súng thì sáu khu trục, bảy trực thăng, hai cào cào lên bắn phá như điên xuống giữa xóm. Lửa cháy rát mặt. Bộ đội lao vào cứu dân. Út chạy vào nhà bà Ba, ném đồ ra ngoài. Một anh bộ đội bị thương, Út và hai cô du kích khiêng vào nhà hộ sinh, kêu mấy cô mụ ở dưới hầm lên băng bó. Út để lại trên người anh năm trái cam vừa xin được rồi chạy về nhà. Máy bay ném bom chếch sang xóm trên. Nhà Út không cháy nhưng miểng bom phang nát như rổ sảo. Cây dừa trước cửa bị chặt đứt, rơi xuống bít lối. Bụi đất tùm lum ở miệng hầm. Con Bé, một tay bồng em, một tay thò ra ngoài hầm, quấy bột. Nó bắc xoong lên ba cục đất, chụm bằng lá dừa. Bốn đứa nhỏ vẫn chống mông lên trời. Con Thanh giương hai con mắt đen nhánh dòm ra. [...] Đàn con bu lấy mẹ. Tóc chúng hôi mùi khói bom. Út rờ khắp mình các con coi có đứa nào bị thương không. Nhưng không, cả sáu đứa như sáu củ khoai, da thịt vẫn chắc như da anh Tịch. [...] Hai bữa sau, giặc lại càn, nhưng không dám vào. Út lận trái lựu đạn lên đầu tóc, choàng khăn đi tìm giặc. Tới khúc quẹo, gần đụng đầu mà Út không thấy chúng. Chị câm, người Khơ-me, một người đàn bà nghèo, không chồng, khoát tay la ơ ơ cho Út chạy. Giặc xả súng bắn theo. Chúng đến lấy báng súng đánh người đàn bà tật nguyền ấy gần chết. Tam Ngãi hoàn toàn giải phóng, sau gần hai mươi năm bị kìm kẹp. [...] (Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1970) a) Tác giả thể hiện thái độ, tình cảm như thế nào đối với nhân vật Nguyễn Thị Út? b) Chỉ ra đặc điểm của thể loại truyện kí được thể hiện qua văn bản trên. c) Nhân vật Nguyễn Thị Út trong văn bản trên và nhân vật Lương Thị Thân trong văn bản Vào chùa gặp lại giống nhau ở những điểm nào?