Danh sách câu hỏi ( Có 2,034,284 câu hỏi trên 40,686 trang )

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vai trò của một yếu tố tượng trưng trong việc thể hiện nội dung ở bài thơ sau: NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ GÁNH NƯỚC SÔNG     Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái        Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy     Những người đàn bà xuống gánh nước sông     Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt     Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi     Bàn tay kia bấu vào mây trắng     Sông gục mặt vào bờ đất lần đi     Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ     Những con Cả Thiêng quay mặt khóc     Những chiếc phao ngô chết nổi     Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi     Đã năm năm, mười năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy     Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng     Chạy theo mẹ và lớn lên     Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến      Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ     Và Cả Thiêng lại quay mặt khóc     Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi. (Nguyễn Quang Thiều, Những người đàn bà gánh nước sông, NXB Văn học, 1995)

Xem chi tiết 5.6 K lượt xem 1 tuần trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích tác dụng của sự kết hợp giữa yếu tố hư cấu và phi hư cấu trong văn bản truyện kí sau:     Mấy ngày nay, chị Quyên không có giờ nghỉ. Nghe tin vợ anh Nguyễn Văn Trỗi tới dự Đại hội Phụ nữ miền Nam, đại biểu các khu, các tỉnh đều tới thăm hỏi. Chị Quyên đành hẹn tôi sau mỗi buổi họp tối ở hội trường về, chị sẽ tranh thủ kể từng đoạn, những lần cuối cùng chị đã gặp anh, đã được sống bên anh trong các trại giam và khám tử hình. [...]     Vào khoảng chín giờ sáng, bỗng nhiên tôi thấy ập vào nhà bảy tám thằng cảnh sát, giải theo một người bị còng tay ra sau lưng. Thoạt đầu, tôi vẫn chưa tin là anh Trỗi. Nhưng vừa thoảng thấy tôi, anh nói ngay, nói to: “Quyên, anh bị bắt”.     Tôi đứng sững sờ nhìn anh đi thẳng tới trước mặt tôi. Chỉ có qua một đêm, thân hình anh thay đổi hẳn: bộ quần áo xanh của anh bê bết những bùn máu, gần như đổi sang màu khác, mặt anh hốc hác, bầm tím, đầu tóc rối tung. Chúng đẩy anh ngồi xuống giường. [...] Mấy tên cảnh sát đứng quanh giường anh bực tức nhìn nhau. Chúng động đậy chân tay muốn nổi khùng. Riêng tên chủ sự vẫn nhỏ nhẹ:     - Anh nên nghĩ đến người vợ trẻ và đẹp của anh. Anh nên thương cô ấy, đừng nên cưới người ta ít ngày, bây giờ bỏ mặc đời người ta dang dở.     -Từ năm ngày nay tôi bị bắt, các ông luôn luôn mang chuyện tôi mới cưới vợ ra để dụ dỗ. Các ông mang hình vợ chồng tôi chụp hôm cưới vào, tán tỉnh hạnh phúc này nọ, định làm cho tôi cam tâm vì vợ mà quên mất Tổ quốc. Các ông làm việc đó hoàn toàn không có kết quả đâu. Còn thằng Mỹ thì không ai có hạnh phúc nổi cả. [...]     Tối nay chị Quyên không còn chăm chú kể chuyện với tôi được nữa. Chốc chốc chị lại nhìn đồng hồ. Ở gian nhà bên có tiếng một chị vừa gọi sang: “Quyên ơi, sắp đến giờ rồi đấy!”. Ra cả mấy dãy nhà quanh đây đều biết đêm qua đài Hà Nội đã báo tin: nay buổi tám giờ rưỡi có truyền thanh toàn bản thuyết minh cuốn phim “Nguyễn Văn Trỗi sống mãi”.     Ngay từ phút đầu, mọi người đã cảm thấy như chính mình đang được xem cuốn phim đó, đang theo chân anh tới pháp trường. Tiếng người thuyết minh lúc tha thiết nghẹn ngào, lúc căm thù tột độ dẫn dắt người nghe qua dần từng cảnh: anh đang nói trước các nhà báo, anh dừng lại nhìn mảnh đất cuối cùng trồng mấy luống rau xanh, anh giật mảnh vải định che mắt anh,...     Chị U., một giáo sư, đã nói thêm một số tài liệu quanh cái chết của anh:     “ Tới phút chót của đời anh, những người có mặt tại pháp trường đều rất kinh ngạc. Súng đã nổ rồi, một loạt đạn đã bắn vào ngực anh nhưng từ phía anh vẫn còn vang lên những tiếng hô: “Việt Nam muôn năm!”.     Chinh một số nhà báo đã không cầm nổi nước mắt. Họ không thể tưởng tượng một người trước cái chết lại bình thản đến như vậy, lại yêu mến đất nước mình đến như vậy. Giật băng đen bịt mắt ra, anh nói: “Không, phải để tôi nhìn mảnh đất này, mảnh đất thân yêu của tôi”. Bao nhiêu năm bị bọn phản động đầu độc “Việt cộng vô Tổ quốc”, một số nhà báo lúc này đã nhìn ra sự thật: Không ai yêu Tổ quốc Việt Nam bằng người cộng sản, họ đã yêu đất nước quê hương cho tới phút cuối cùng của đời họ.”     (Trần Đình Vân[1]', Sống như Anh[2], NXB Giáo dục, 1978, tr.25-59)   [1] Trần Đình Vân (1926 – 2024), nhà báo Thái Duy, tên thật là Trần Duy Tấn. Quê Bắc Giang. [2] Truyện kí “Sống như Anh” được NXB Văn học in lần đầu năm 1965, đã xuất bản hàng triệu bản ở nhiều nước trên thế giới. Truyện viết về cuộc đời ngắn ngủi và oanh liệt của liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, được ghi lại qua lời kể của chị Phan Thị Quyên (vợ anh Trỗi).  

Xem chi tiết 7.5 K lượt xem 1 tuần trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong văn bản[1] sau:   Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa, Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời,... Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.[2] Sập sè én liệng lầu không, Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày. Cuối tường gai góc mọc đầy, Đi về này những lối này năm xưa! Chung quanh lặng ngắt như tờ, Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai? (Trích Nguyễn Du, Truyện Kiều, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2002, tr.158-162) 20Vị trí đoạn trích: Sau buổi thề nguyền, đính ước, Kim Trọng về quê hộ tang chú, gia đình Thuý Kiều gặp nạn, nàng phải bán mình chuộc cha và em. Nửa năm sau, Kim Trọng trở lại vườn Thuý, nơi Kim Trọng từng trọ học và Kim – Kiều tình tự, thề nguyền trước đây [2]Hoa đào năm ngoái: Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kì ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong có câu: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong” nghĩa là: Mặt người không biết ở đằng nào/ Hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ.   Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong văn bản[1] sau:     Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa, Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời,... Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.[2] Sập sè én liệng lầu không, Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày. Cuối tường gai góc mọc đầy, Đi về này những lối này năm xưa! Chung quanh lặng ngắt như tờ, Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai? (Trích Nguyễn Du, Truyện Kiều, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2002, tr.158-162) 20Vị trí đoạn trích: Sau buổi thề nguyền, đính ước, Kim Trọng về quê hộ tang chú, gia đình Thuý Kiều gặp nạn, nàng phải bán mình chuộc cha và em. Nửa năm sau, Kim Trọng trở lại vườn Thuý, nơi Kim Trọng từng trọ học và Kim – Kiều tình tự, thề nguyền trước đây [2]Hoa đào năm ngoái: Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kì ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong có câu: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong” nghĩa là: Mặt người không biết ở đằng nào/ Hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ.  

Xem chi tiết 6.4 K lượt xem 1 tuần trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích tác dụng của yếu tố tự sự trong đoạn thơ sau:                                        Này dòng sông                                        còn nhớ chốn ta ngồi ngóng mẹ                                        phiên chợ Lường vời vợi tuổi thơ ta                                        sao ngày ấy ta dễ ngoan đến thế                                        mẹ cho ta một xu bánh đa vừng                                        ta ngoan hết một ngày                                        ta ngoan suốt cả năm                                        ta thương mẹ đến trọn đời ta sống                                        quê hương ta nghèo lắm                                        ta rửa rau bến sông cho con cả cùng ăn                                          ta mổ lợn                                        con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt                                         cả dưới sông cũng có Tết như người                                         trên bãi sông                              ta trồng cây cải tươi                                        ta ăn lá còn bướm ong thì hút mật                                         lúa gặt rồi — còn lại rơm thơm                                        trâu đủng đỉnh nhai cả mùa đông lạnh...                                                                               Cùng một bến sông phía dưới                                         trâu đằm phía trên ta tắm...                                        trong kí ức ta                                    một dòng xanh trong chảy mãi                                        đến vô cùng!... (Trích trường ca Thời gian khắc khoải, Lê Huy Mậu, NXB Quân đội nhân dân, 2011, tr.61-62.)

Xem chi tiết 11.1 K lượt xem 1 tuần trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích cấu tứ của bài thơ sau: THƠ VIẾT Ở BIỂN (Hữu Thỉnh)                                                 Anh xa em                                        Trăng cũng lẻ                                        Mặt trời cũng lẻ                                        Biển vẫn cậy mình dài rộng thế                                        Vẳng cánh buồm một chút                                                                            đã cô đơn                                        Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn                                         Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím                                        Sóng chẳng đi đến đâu                                                                            nếu không đưa em đến                                          Vì sóng đã làm anh                                         Nghiêng ngả                                        Vì em. (Trích tập thơ Thư mùa đông,  NXB Hội Nhà văn, 1994, tr.35-36.)

Xem chi tiết 14.2 K lượt xem 1 tuần trước