Danh sách câu hỏi

Có 7442 câu hỏi trên 149 trang
Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:WHO ưu tiên tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh tiểu đường và ung thư trong Danh mục thuốc thiết yếu mới1. Thuốc điều trị bệnh tiểu đườngTS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO cho biết: bệnh tiểu đường đang gia tăng trên toàn cầu và tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Quá nhiều người cần insulin nhưng lại gặp khó khăn về tài chính. Danh mục thuốc thiết yếu bao gồm các chất tương tự insulin, cùng với nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận với tất cả các sản phẩm insulin là một bước quan trọng để đảm bảo tất cả những ai cần sản phẩm cứu mạng này đều có thể tiếp cận được ”.2. Insulin được phát hiện như một phương pháp điều trị bệnh tiểu đường cách đây 100 năm và nó đã nằm trong Danh mục thuốc thiết yếu của WHO lần đầu tiên vào năm 1977. Tuy nhiên, nguồn cung cấp insulin hạn chế, giá cao ở một số quốc gia có thu nhập thấp, trung bình hiện đang là một rào cản đáng kể đối với việc điều trị bệnh tiểu đường. Ví dụ, ở thủ đô Accra của Ghana, lượng insulin cần thiết cho một tháng sẽ khiến một công nhân tiêu tốn tương đương với 5,5 ngày lương mỗi tháng. Việc sản xuất insulin tập trung ở một số ít cơ sở sản xuất, trong đó có 3 nhà sản xuất kiểm soát phần lớn thị trường toàn cầu đã dẫn đến sự độc quyền, giá thành cao đối với nhiều người và hệ thống y tế.3. Việc cho phép các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài (insulin degludec, detemir và glargine) và các biosimilars của chúng nhằm tăng khả năng tiếp cận điều trị bệnh tiểu đường. Điều này cũng có nghĩa là các chất tương tự insulin sinh học có thể đủ điều kiện tham gia chương trình sơ tuyển của WHO; việc sơ tuyển của WHO có thể dẫn đến việc các loại biosimilars đảm bảo chất lượng hơn được đưa vào thị trường quốc tế, tạo ra sự cạnh tranh để hạ giá thành và mang lại cho các quốc gia có có nguồn lực y tế thấp có sự lựa chọn sản phẩm tốt hơn.4. Các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài mang lại một số lợi ích lâm sàng bổ sung cho bệnh nhân thông qua thời gian tác dụng kéo dài, điều này đảm bảo rằng mức đường huyết có thể được kiểm soát trong thời gian dài hơn mà không cần dùng liều tăng cường. Chúng mang lại lợi ích đặc biệt cho những bệnh nhân có mức đường huyết thấp nguy hiểm với insulin người. Sự linh hoạt hơn trong thời gian và liều lượng các chất tương tự insulin đã được chứng minh là cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, insulin vẫn là một yếu tố quan trọng trong điều trị bệnh tiểu đường và việc tiếp cận với loại thuốc cứu mạng này phải tiếp tục được hỗ trợ thông qua sự sẵn có và khả năng chi trả tốt hơn.5. Danh mục cũng bao gồm các chất ức chế Sodium-Glucose Co-Transporter-2 (SGLT2) empagliflozin, canagliflozin và dapagliflozin như là liệu pháp hàng đầu ở người lớn mắc bệnh tiểu đường loại 2. Các loại thuốc uống này đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích, bao gồm giảm nguy cơ tử vong, suy thận và các biến cố tim mạch. Bởi vì các chất ức chế SGLT2 vẫn được cấp bằng sáng chế và có giá cao, nên việc cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc điều trị bệnh tiểu đường bao gồm insulin và thuốc ức chế SGLT2 là một trong những quy trình của Hiệp định Tiểu đường toàn cầu, do WHO đưa ra vào tháng 4/2021 và là chủ đề chính được thảo luận với các nhà sản xuất thuốc.6. Thuốc điều trị ung thưUng thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới (có gần 10 triệu ca tử vong vào năm 2020, trong đó 70% xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). Những đột phá mới đã được thực hiện trong điều trị ung thư trong những năm qua, như các loại thuốc nhắm vào đặc điểm phân tử cụ thể của khối u, một số trong số đó mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với hóa trị liệu “truyền thống” cho nhiều loại ung thư. 4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được thêm vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này: 1) Enzalutamide - một chất thay thế cho abiraterone, dùng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt; 2) Everolimus - dùng cho u tế bào hình sao, một loại u não ở trẻ em; 3) Ibrutinib - một loại thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh bạch cầu mạn tính; và 4) Rasburicase - thuốc điều trị biến chứng nghiêm trọng của một số phương pháp điều trị ung thư.7. Danh mục cũng đã được mở rộng, bao gồm điều trị nhắm mục tiêu bệnh bạch cầu. Các chỉ định ung thư mới ở trẻ em đã được thêm vào cho 16 loại thuốc đã được liệt kê, bao gồm cả u thần kinh đệm cấp độ thấp (dạng u não phổ biến nhất ở trẻ em). Một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi, mặc dù có hiệu quả, chủ yếu là do chúng quá mạnh, giá cao và lo ngại rằng chúng khó quản lý trong các hệ thống y tế có nguồn lực thấp. Các loại thuốc điều trị ung thư khác không được khuyến khích niêm yết do không chắc chắn có thêm lợi ích lâm sàng so với các loại thuốc đã được niêm yết, giá cao và các vấn đề quản lý trong các cơ sở y tế có nguồn lực thấp. Chúng bao gồm osimertinib cho bệnh ung thư phổi, daratumumab cho bệnh đa u tủy và ba loại điều trị (thuốc ức chế CDK4/6, fulvestrant và pertuzumab) cho bệnh ung thư vú.(Nguồn: Nguyễn Thị Hường; Theo who.int)Diễn đạt nào dưới đây thể hiện rõ nhất ý chính của bài đọc trên?
Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ (1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.   (2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng. (3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ. (4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.   (5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng. (6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da. (7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư. (8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử. (9) Kẻ lấy cắp trí nhớ Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”. (10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.   (11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu. (12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào. (Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019) Nội dung chính của văn bản trên là?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis  chinensis  Franch) là cây  thân thảo, sống lâu năm,  ưa sống  ở vùng núi cao  1.000-2.500 m, mưa nhiều,  ẩm ướt.  Hiện  nay,  loài  dược  liệu  này  được  trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu  ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ  Bắc,  Thiểm  Tây,  Hồ  Nam,  Giang  Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt  Nam,  Hoàng  liên  chân  gà  phân  bố  chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và  huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng  liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã  được đưa vào Sách đỏ của Liên minh  bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN)  năm 1980, Sách đỏ  Ấn Độ 1980 và  Sách đỏ Việt Nam năm 1996.  (2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên  chân  gà  có  vị  đắng,  tính  hàn.  Quy  kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường.  Có  tác  dụng  thanh  nhiệt  táo  thấp,  chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt  dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh  tâm  trừ  phiền:  tâm  hỏa  thịnh  gây  phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở  loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao,  phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê  cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can  sáng mắt, điều trị các bệnh do can  hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước  mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.(3) Ngày nay, dược liệu này đã được  nhiều  nhà  khoa  học  trên  thế  giới  nghiên cứu về thành phần hóa học  và tác dụng dược lý.Thành  phần  hóa  học:  thân,  rễ  Hoàng  liên  chân  gà  có  chứa  nhiều  alcaloid  (5-8%),  với  các  thành  phần  chính  là  berberin,  palmatin,  jatrorrhizin,  coptisin,  epiberberin,  columbamin,  worenin,  magnoflorin...  Các thành phần alcaloid của Hoàng  liên  chân  gà  được  tìm  thấy  trong  hầu  hết  các  bộ  phận  của  cây,  tuy  nhiên  tỷ  lệ  alcaloid  trong  các  bộ  phận của cây thay đổi theo các giai  đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng  9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng  berberin cao; ở lá già trước khi rụng  (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng  thường cao; ở hoa có khoảng 0,56%  và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài  ra,  trong  thân,  rễ  của  Hoàng  liên  chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ  như acid ferulic... Trong số các thành  phần  hóa  học  nêu  trên,  berberin  được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp  đến là palmatin.Tác  dụng  dược  lý:  các  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy,  Hoàng  liên  chân gà có nhiều tác dụng dược lý  khác nhau:- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng  nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc  do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh  giá tác dụng của Hoàng liên chân gà  trên vi khuẩn  Helicobacter pylori , kết  quả  cho  thấy,  nước  sắc  từ  loài  cây  này có tác dụng làm giảm 16% hoạt  tính men urease và ức chế mạnh sự  phát triển của vi khuẩn  Helicobacter  pylori .  Các  nghiên  cứu  khác  cũng  đã chứng minh nước sắc Hoàng liên  chân  gà  và  hoạt  chất  berberin  có  phổ  kháng  khuẩn  rộng  đối  với  một  số chủng gram (+) và gram (-). Nước  sắc  thể  hiện  tác  dụng  ức  chế  một  số  vi  khuẩn  tùy  theo  độ  pha  loãng  khác nhau như:  Shigella shigac ,  Sh.  dysenteriae ,  Bacillus  tuberculosis ,  Bacillus  cholera ,  Staphylococcus  aureus ,  Bacillus  paratyphi ,  Bacillus  coli ,  Bacillus proteus ,  Streptococcus  hemolyticus ,  Vitrio cholera ,  Baccillus  subtilis ...  Cơ  chế  tác  dụng  kháng  khuẩn được giải thích là do berberin  ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein  đối  với  vi  khuẩn.  Ngoài  ra,  Hoàng  liên chân gà còn có tác dụng kháng  nấm  và  virus.  Kết  quả  nghiên  cứu  cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân  gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm  trên phôi gà có tác dụng ức chế sự  phát triển của virus cúm chủng PR8,  56S8, P.M.- Giảm hội chứng ruột kích thích  và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm  2011,  Yungwui  Tjong  và  cộng  sự  (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên  cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà  và nhận thấy chúng có tác dụng giảm  những  cơn  đau  nội  tạng  trên  động  vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do  làm  giảm  hormon  cholecystokinin  và serotonin - là những chất làm co  cơ  trơn  dẫn  tới  tăng  nhu  động  đại  tràng.  Cũng  trong  năm  này,  nhóm  nghiên  cứu  của  Qian  Zhang  và  cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy  tác  dụng  điều  trị  viêm  đường  tiêu  hóa của dược liệu Hoàng liên chân  gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng  liên chân gà với liều 300 mg/kg cân  nặng và berberin với liều 120 mg/kg  cân nặng đã có tác dụng làm giảm  tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi  lip oposaccharose  theo  cơ  chế  làm  tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB  ở hồi tràng.(4)  Đặc biệt, một số nghiên cứu được  công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng  liên chân gà có tiềm năng để điều trị  bệnh  Alzheimer,  bảo  vệ  thần  kinh,  thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của  Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt  Nam)  đã  điều  tra  thành  phần  hóa  học  một  chiết  xuất  nước  của  dược  liệu  Hoàng  liên  chân  gà  và  xác  định  được  2  protoberberines  bậc  bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới  (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4,  5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7  cho  thấy  sự  ức  chế  mạnh  đối  với  acetylcholinesterase  (AChE)  tương  ứng với các giá trị IC 50  là 1,1; 5,6 và  12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự  ức chế butyrylcholinesterase (BChE)  tương ứng với giá trị IC 50  là 11,5 và  27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác  giả kết luận Hoàng liên chân gà là  dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh  Alzheimer.  Tại  Trung  Quốc,  Yujuan  Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng  bảo vệ thần kinh của polysaccharide  Hoàng liên chân gà trên mô hình giun  tròn  ( Caenorhabditis  elegans )  biến  đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây  độc bằng amyloid-beta (A β ). Những  dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng  polysaccharide Hoàng liên chân gà  có thể làm giảm độc tính do A β  gây  ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm  giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng  đọng của A β , và tăng mức biểu hiện  của gen HSP trong giun tròn biến đổi  gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và  cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh  rằng berberine (thành phần hoạt chất  chính của Hoàng liên chân gà) có thể  bảo  vệ  chức  năng  của  podocytes  thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ  các tế bào Mesangial cầu thận sang  podocyte. Đây là một trong những cơ  chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ  đối với bệnh thận do tiểu đường.  (5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng  liên chân gà còn được các công trình  nghiên cứu khoa học gần đây chứng  minh là dược liệu tiềm năng để điều trị  các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường,  phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi  mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an  thần... Những tác dụng này đã được  Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại  trong bộ sách  Cây thuốc và động vật  làm thuốc ở Việt Nam  do Nhà xuất  bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu  nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức  sử  dụng  cây  thuốc  vô  cùng  phong  phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược  liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức  khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước  tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên  chân gà ở nước ta cùng với việc xác  định  được  những  vai  trò  phòng  và  chữa bệnh hết sức quan trọng của vị  thuốc này trong y dược học cổ truyền  và y dược học hiện đại, cần phải có  những hướng nghiên cứu mới về cây  Hoàng liên chân gà nhằm phát triển  nguồn dược liệu và tiềm năng chữa  bệnh từ dược liệu quý này.(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói  chung, Hoàng liên chân gà nói riêng,  cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi  giá trị cho chúng để bảo tồn và phát  triển bền vững trong thực tiễn cuộc  sống. Một số hoạt động nghiên cứu  cơ bản trong chuỗi giá trị như sau:  nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân  giống,  sản  xuất  giống  Hoàng  liên  chân  gà;  nghiên  cứu  quy  trình  kỹ  thuật  trồng  và  xây  dựng  mô  hình  trồng  Hoàng  liên  chân  gà;  sơ  chế,  chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo  dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên  cứu  đánh  giá  các  thành  phần  hóa  học, tác dụng dược lý của dược liệu  trồng được so với dược liệu thu hái tự  nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên  cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức  khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà  và các dược liệu khác đảm bảo được  tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện  đưa ra thị trường.(8) Nói  cách  khác,  nghiên  cứu  xây  dựng  cơ  chế  bảo  tồn  giống,  cơ  sở  sản xuất giống, hình thành các vùng  chuyên  canh  trồng  nguyên  liệu,  cơ  sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo  ra những sản phẩm được bào chế từ  Hoàng liên chân gà là việc làm thiết  thực và cần thiết để bảo tồn nguồn  gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ  truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc  sức khỏe cộng đồng.(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)Hoàn liên chân gà là gì?
Đột phá mới trong điều trị xuất huyết hậu sản (1) Băng huyết được giới chuyên  môn cho là hiện tượng khi lượng  máu chảy từ đường sinh dục của  sản  phụ  trong  vòng  24  giờ  sau  sinh  lớn  hơn  500  ml  hoặ c  mất  máu lớn hơn 1% trọng lượng cơ  thể, hoặc một lượng máu mất bất  kỳ nhưng ảnh hưởng đến huyết  động học.  Mức độ nặng của băng  huyết  không  chỉ  phụ  thuộc  vào  lượng máu mất mà còn phụ thuộc  rất nhiều vào thể trạng của sản  phụ trước khi bị băng huyết.   (2) “Mẹ tròn con vuông” là niềm  mong mỏi và là hạnh phúc của  mọi  gia  đình  khi  có  sản  phụ  đi  sinh.  Nhưng  quá  trình  sinh  nở  luôn là nỗi lo canh cánh của rất  nhiều  bà  mẹ  mang  thai  và  gia  đình họ. Mỗi ngày, trên thế giới  có hàng nghìn bà mẹ tử vong do  tai  biến  sản  khoa  và  mỗi  năm  có  hàng  triệu  phụ  nữ  không  có  cơ hội sống để hoàn thành thiên  chức làm mẹ, đặc biệt là sản phụ  ở những nơi có điều kiện địa lý,  kinh tế - xã hội khó khăn, an sinh  xã  hội  kém  và  thiếu  thốn  các  điều kiện sống cơ bản. Cho đến  nay,  băng  huyết  vẫn  được  xem  là nguyên nhân gây tử vong cao  nhất trong 5 nguyên nhân tử vong  hàng đầu đối với sản phụ. (3) Mặc dù những tiến bộ trong y  học đã góp phần làm giảm tỷ lệ  tử vong do băng huyết, nhưng hai  từ này luôn là nỗi ám ảnh không  chỉ với những phụ nữ sinh thường  và những người thân của họ mà  còn cả với nhiều chuyên gia sản  khoa. Theo WHO, hiện có khoảng  70.000 phụ nữ tử vong mỗi năm vì  xuất huyết hậu sản, điều này  cũng  có  nghĩa  là  tăng  nguy  cơ  con của họ cũng chết trong vòng  một tháng. Đối với Việt Nam, tỷ lệ  băng huyết sau sinh chiếm 3-8%  tổng số sinh.   (4) Với  những  nước  đang  phát  triển, đặc biệt là những quốc gia  nghèo, thì tỷ lệ phụ nữ tử vong  do  băng  huyết  lại  càng  cao  do  nguyên nhân cơ bản là cuộc sống  khó khăn, phụ nữ mang thai phải  làm  việc  nặng  nhọc,  thậm  chí  lao  động  trong  môi  trường  độc  hại; chế độ nghỉ ngơi không đảm  bảo; chế độ ăn uống thiếu dinh  dưỡng... Cơ sở y tế nghèo nàn,  không  đảm  bảo  vệ  sinh,  thiếu  thốn các trang thiết bị và thuốc  điều trị khiến việc cấp cứu và điều  trị những phụ nữ bị xuất huyết hậu  sản trở nên khó khăn hơn bao giờ  hết. Hiện nay, WHO khuyến cáo  dùng oxytocin là thuốc lựa chọn  đầu tiên để ngăn ngừa chảy máu  quá mức sau khi sinh. Tuy nhiên,  oxytocin  phải  được  bảo  quản  ở  nhiệt  độ  2-8 o C.  Đây  thực  sự  là  một công việc khó khăn ở nhiều  quốc gia nghèo. Bởi vậy mà rất  nhiều sản phụ không có cơ hội  được tiếp cận nguồn thuốc này.  Hoặc nếu có được loại thuốc này  trong tay thì hiệu lực của thuốc đã  bị giảm đáng kể do tiếp xúc với  nhiệt  độ  cao bên  ngoài vì  thiếu  thốn trang thiết bị bảo quản cần  thiết. (5) Vừa  qua,  WHO  đã  nghiên  cứu  thành  công  một  loại  thuốc  với  công  thức  mới  (có  tên  là  carbetocin) có thể giúp ngăn ngừa  băng huyết ở phụ nữ sau khi sinh.  Nghiên  cứu  được  công  bố  trên  Tạp chí Y học New England [3].  Thuốc carbetocin được bảo quản  ở môi trường bình thường (30 o C,  độ ẩm tương đối là 75%) với hạn  sử dụng lên tới 3 năm. TS Tedros  Adhanom  Ghebreyesus  -  Tổng  giám đốc WHO nhận định: “Đây  là một bước tiến vượt bậc của y  học, giúp cứu sống hàng vạn bà  mẹ và trẻ sơ sinh mỗi năm”.   (6) Trong  nghiên  cứu  của  mình,  các nhà khoa học đã tiến hành  một  cuộc  thử  nghiệm  lâm  sàng  đối  chứng  ngẫu  nhiên  (RCT)  với  quy  mô  lớn  (29.645  phụ  nữ  sinh  thường)  đến  từ  23  bệnh  viện  ở  các  quốc  gia:  Argentina,  Ai Cập, Ấn Độ, Kenya, Nigeria,  Singapore,  Nam  Phi,  Thái  Lan,  Uganda và Vương quốc Anh. Mỗi  phụ  nữ  được  tiêm  ngẫu  nhiên  một liều carbetocin hoặc oxytocin  ngay  sau  khi  sinh  con.  Nghiên  cứu  cho  thấy,  cả  hai  loại  thuốc  đều có hiệu quả như nhau trong  việc ngăn ngừa băng huyết sau  khi sinh. (7) Để có được đánh giá so sánh  chính  xác  phương  pháp  thử  nghiệm  không  thấp  kém  hơn  (non-inferiority) chứng minh phương  pháp điều trị mới, cá c nhà khoa  học  đã  đảm  bảo  các  điều  kiện  bảo  quản,  đặc  biệt  là  nhiệt  độ  của  oxytocin,  để  mỗi  loại  thuốc  đạt  hiệu  quả  tối  đa  khi  điều  trị.  Thử  nghiệm  được  tiến  hành  với  việc sử dụng carbetocin ổn định  nhiệt  trong  môi  trường  thực  tế,  nơi oxytocin có thể bị thoái hóa  do tiếp xúc với nhiệt độ cao hơn.  Kết  quả  thử  nghiệm  cho  thấy,  tác  dụng  và  hiệu  quả  điều  trị  với  carbetocin  không  thua  kém  oxytocin:  tần  suất  mất  máu  ít  nhất 500 ml hoặc sử dụng thêm  thuốc  co  hồi  tử  cung  là  14,5%  ở  nhóm  carbetocin  và  14,4%  ở  nhóm oxytocin; tần suất mất máu  ít nhất 1.000 ml là 1,51% ở nhóm  carbetocin  và  1,45%  ở  nhóm  oxytocin. Việc sử dụng các thuốc  co hồi tử cung bổ sung, can thiệp  để  ngừng  chảy  máu  và  các  tác  dụng phụ không khác biệt đáng  kể giữa hai nhóm. “Sự phát triển  của một loại thuốc để ngăn ngừa  xuất huyết hậu sản vẫn tiếp tục  có hiệu quả trong điều kiện nóng  và ẩm là tin rất tốt cho hàng triệu  phụ  nữ  sinh  con  ở  các  nơi  trên  thế giới mà không được tiếp cận  với các thiết bị bảo quản tốt”, TS  Metin G ü lmezoglu - Viện Nghiên  cứu  Sức  khỏe  và  Sinh  sản  của  WHO cho biết. (8) Với  sự  ra  đời  của  thuốc  mới  carbetocin, tới đây, những phụ nữ  ở các khu vực hẻo lánh và thiếu  thốn sẽ không còn bị ám ảnh bởi  thần chết mang tên “băng huyết”  rình  rập.  WHO  đang  chuẩn  bị  bước tiếp theo là xem xét và phê  duyệt theo quy định của các quốc  gia  để  đưa  carbetocin  vào  sử  dụng trong điều trị. (9) Điều  thú  vị  hơn  là  mới  đây,  một  nghiên  cứu  được  thực  hiện  bởi các nhà khoa học thuộc Đại  học  Birmingham  (Vương  quốc  Anh) cũng đã chỉ ra rằng, việc  ra  đời  những  loại  thuốc  mới  sẽ  giúp ngăn chặn hiệu quả những  tai biến nguy hiểm có thể xảy ra  đối với các sản phụ. Công trình  nghiên  cứu  của  họ  đã  đưa  ra  một giải pháp mới, đó là kết hợp  các loại thuốc với nhau để tăng  hiệu  quả  điều  trị.  Chẳng  hạn  như  ergometrine  với  oxytocin,  misoprostol với oxytocin hay điều  trị  bằng  carbetocin  sẽ  hiệu  quả  hơn  rất  nhiều  nếu  chỉ  sử  dụng  oxytocin như hiện nay. Phân tích  dữ liệu từ 140 cuộc thử nghiệm  lâm  sàng  khác  nhau  liên  quan  đến hơn 88.000 phụ nữ, các nhà  khoa  học  đã  có  được  cách  so  sánh chính xác đối với hiệu quả  điều trị của tất cả các loại thuốc  này. (Nguồn: “Đột phá mới trong điều trị xuất huyết hậu sản”, Nguyễn Minh Đức, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018) Xuất huyết hậu sản thường gặp ở đối tượng nào?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:Trị liệu miễn dịch trong điều trị dị ứng(1) Các bệnh dị ứng rất phổ biến  ở  các  nước  phát  triển và đang có xu thế  tăng  lên  hàng  năm.  Ở các nền kinh tế đang phát triển,  mặc dù tỷ lệ người mắc bệnh dị ứng  thấp hơn nhưng cũng có xu hướng  gia tăng. Ở Việt Nam, tuy chưa có  thống kê cụ thể nhưng số người mắc  bệnh này được phát hiện ngày càng  nhiều. Lâu nay, hầu hết các thuốc  chữa trị các bệnh dị ứng mới chỉ tập  trung vào điều trị triệu chứng, chỉ có  tác dụng chữa trị trong một thời gian  nhất định. Các biện pháp chữa trị  can thiệp dựa vào cơ chế hình thành  và  phát  triển  của  bệnh  hiện  đang  được tập trung nghiên cứu và ứng  dụng.  Trong  đó,  trị  liệu  miễn  dịch  là  một  phương  pháp  được  nghiên  cứu sâu rộng và hứa hẹn nhiều tiềm  năng trong tương lai gần. Phản ứng quá mức  của  cơ  thể  chúng  ta  trước  những  dị  nguyên  vô  hại  như:  phấn  hoa,  lông  chó  mèo,  mạt  bụi  nhà...  Các  loại bệnh dị ứng thường gặp là hen  suyễn,  viêm  mũi,  viêm  da,  dị  ứng  thực  phẩm,  sốc  phản  vệ...(3) Theo cơ chế phản ứng miễn dịch  và sự tham gia khác nhau giữa các  thành phần của hệ miễn dịch, người  ta phân ra 4 loại phản ứng dị ứng  khác nhau. Tuy nhiên, các bệnh dị  ứng phổ biến thường gặp và trị liệu  miễn dịch nhắm vào là loại 1 (phản  ứng quá mẫn tức thì) và loại 4 (phản  ứng quá mẫn muộn). Cơ chế miễn  dịch của dị ứng về cơ bản được chia  thành 2 giai đoạn:  1- Mẫn cảm; 2-  Phản ứng dị  ứng.  Khi chúng ta tiếp  xúc lần thứ 2 với dị nguyên sẽ gây  ra phản ứng cấp tính dẫn đến các  triệu chứng dị ứng như giãn mạch,  co thắt phế quản, tiêu chảy, buồn  nôn. Phản ứng dị ứng muộn thường  xảy ra trong 4-6 tiếng sau khi tiếp  xúc dị nguyên và thường gây ra các  triệu chứng như khó thở, ho, đờm,  phù nề. Nếu bệnh nhân tiếp xúc với  các dị nguyên trong thời gian dài có  thể gây ra phản ứng mạn tính với  các triệu chứng như: xơ hóa đường  hô hấp, tăng sản tế bào đờm. Trên  thực tế, bệnh nhân có thể biểu hiện  các bệnh cảnh khác nhau khi tiếp  xúc với dị nguyên, như: mắt (viêm  kết mạc dị ứng), đường hô hấp trên  (viêm  mũi  dị  ứng),  đường  hô  hấp  dưới  (hen  suyễn),  da  (viêm  da  cơ  địa)... Đối với mỗi bệnh cảnh dị ứng,  bệnh  nhân  có  thể  được  chỉ  định  dùng  thuốc  kháng  histamine  hoặc  corticosteroids dạng hít hoặc dạng  bôi.  (4) Trong phần lớn các trường hợp,  triệu  chứng  dị  ứng  sẽ  được  kiểm  soát, tuy nhiên, có một nhóm bệnh  nhân  vẫn  sẽ  tiềm  ẩn  nguy  cơ  tái  phát khi tiếp xúc lại với dị nguyên,  do vẫn tồn tại những tế bào T ghi  nhớ trong cơ thể. AIT có thể được  áp dụng để thay đổi cách hệ miễn  dịch đáp ứng với dị nguyên.  (5) Các  nhà  khoa  học  cũng  phát  hiện ra rằng, hệ miễn dịch của con  người  có  thể  được  huấn  luyện  để  nhận biết các dị nguyên có hại và  vô hại, từ đó ghi nhớ và những lần  tiếp xúc sau không gây ra phản ứng  miễn dịch. Đó cũng chính là cơ chế  cơ bản của trị liệu miễn dịch và dẫn  tới áp dụng phương pháp AIT.(6) Gần đây, AIT  đã  được  nghiên  cứu và ứng dụng rộng rãi trên toàn  thế giới với những kết quả đáng ghi  nhận.  Nguyên  tắc  của  AIT  là  đưa  vào cơ thể người bệnh một lượng dị  nguyên với liều lượng tăng dần từ  thấp đến cao, đến khi đạt một nồng  độ nhất định hiệu quả trong việc tạo  ra hiện tượng dung nạp miễn dịch  của  cơ  thể  đối  với  loại  dị  nguyên  đó. Nhờ vào đặc tính huấn luyện hệ  miễn dịch của cơ thể quen dần với  sự tồn tại của dị nguyên, AIT vừa  giúp làm giảm triệu chứng, vừa giúp  ngăn  ngừa  tái  phát  về  sau,  kể  cả  khi tiếp xúc với dị nguyên. Cơ chế  tạo  ra  tình  trạng  dung  nạp  miễn  dịch của AIT khá phức tạp và vẫn  còn đang được nghiên cứu. Các  nghiên cứu cho thấy, ở những bệnh  nhân đạt được dung nạp miễn dịch,  hệ miễn dịch có xu hướng chuyển  đổi từ đáp ứng tế bào T hỗ trợ loại  2 (Th2 - T helper cell type-2) sang  đáp ứng miễn dịch tế bào T hỗ trợ  loại  1  (Th1).  Đáp  ứng  miễn  dịch  theo hướng Th2 sẽ gây ra tình trạng  dị  ứng,  do  đó,  giảm  đáp  ứng  Th2  sẽ giúp triệu chứng được cải thiện.  Bên  cạnh  đó,  tế  bào  T  điều  hòa  được sinh ra và sản xuất các hóa  chất trung gian kháng viêm, ví dụ  interleukin-10  (IL-10),  yếu  tố  tăng  trưởng  chuyển  đổi  b  (transforming  growth factor-b). IL-10 có tác dụng  làm giảm kháng thể IgE (tăng dị ứng)  và  tăng  kháng  thể  IgG4  (giảm  dị  ứng), nhờ đó làm giảm sản xuất các  hóa chất trung gian từ dưỡng bào,  bạch cầu ái toan và tế bào T. Cùng  với đó, AIT còn giúp hạn chế kết tập  tế bào bạch cầu ái toan, dưỡng bào,  bạch cầu ái kiềm ra ngoài da hoặc  niêm mạc và làm giảm tiết hóa chất  trung gian gây viêm từ các tế bào  này.     (7) Hiện  nay,  AIT  được  dùng  bằng  đường  tiêm,  viên  ngậm  dưới  lưỡi,  tiêm  hạch  bạch  huyết,  miếng  dán  ngoài  da.  Điều  trị  miễn  dịch  dưới  da  (subcutaneous  immunotherapy  treatment  -  SCIT)  và  điều  trị  miễn  dịch  dưới  lưỡi  (sublingual  immunotherapy  treatment  -  SLIT)  là hai phương pháp phổ biến nhất  thường được sử dụng. Khi được chỉ  định áp dụng SCIT, bệnh nhân sau  khi được tiêm dị nguyên cần được  theo dõi tại cơ sở y tế có khả năng  xử lý khi có sốc phản vệ.(8) Có  thể  nói,  áp  dụng  AIT  trong  điều trị hen suyễn và viêm mũi dị  ứng/viêm kết mạc dị ứng đã được  các nhà khoa học ở nhiều quốc gia  nghiên cứu. Trong mọi trường hợp,  chỉ định của AIT đều phải cân nhắc  dựa  trên  triệu  chứng  dị  ứng,  kèm  theo kết quả cận lâm sàng chứng  minh có sự tồn tại của các IgE đặc  hiệu (specific IgE - sIgE) đối với loại  dị  nguyên  tương  ứng  gây  ra  bệnh  cảnh lâm sàng cho bệnh nhân. AIT  được chỉ định dùng cho bệnh nhân  hen  suyễn,  viêm  mũi  dị  ứng/viêm  kết mạc dị ứng có kèm hoặc không  kèm  hen  suyễn,  trong  các  trường  hợp như: bệnh nhân có triệu chứng  không được kiểm soát tốt bằng các  phương pháp thông thường (thuốc,  hạn chế tiếp xúc dị nguyên); bệnh  nhân cần duy trì liều thuốc cao và/ hoặc phải kết hợp nhiều loại thuốc  khác nhau để duy trì tình trạng ổn  định; đa mẫn cảm với nhiều loại dị  nguyên; viêm da cơ địa kèm dị ứng  với dị nguyên không khí, bệnh nhân  có phản ứng toàn thân với vết cắn  của côn trùng kèm sIgE kháng lại  dị nguyên của côn trùng, ví dụ với  các loại ong... Còn các trường hợp  chống chỉ định như: bệnh nhân có  hen suyễn nặng hoặc không kiểm  soát;  bệnh  nhân  có  bệnh  lý  tim  mạch nặng kèm theo (bệnh mạch  vành không kiểm soát, nhồi máu cơ  tim  mới,  loạn  nhịp,  tăng  huyết  áp  không  kiểm  soát...);  bệnh  nhân  sử  dụng  thuốc  b-blockers  (chống  chỉ  định tuyệt đối khi thực hiện AIT cho  dị ứng với dị nguyên không khí và  chống chỉ định tương đối với dị ứng  côn trùng) do nguy cơ làm tăng sốc  phản vệ kháng trị. Ngoài ra, thuốc  ức chế men chuyển đổi angiotensin  cũng  cần  được  cân  nhắc  để  tạm  ngưng đối với các bệnh nhân thực  hiện AIT cho dị ứng côn trùng, hoặc  dị ứng với đa dị nguyên. Trong một  số  trường  hợp  đặc  biệt,  AIT  cần  được cân nhắc cẩn trọng đối với trẻ  nhỏ dưới 6 tuổi; người lớn tuổi, phụ  nữ có thai, và bệnh nhân có bệnh  ác tính, suy giảm miễn dịch hoặc tự  miễn.   (9) Những dữ liệu từ các thử nghiệm  lâm  sàng  cho  thấy  hiệu  quả  của  AIT trong việc cải thiện chất lượng  sống,  chức  năng  phổi,  giảm  liều  dùng  corticosteroid,  tần  suất  cơn  kịch  phát,  số  lần  đo  chức  năng  phổi. Tuy nhiên, hiệu quả cải thiện triệu chứng lâu dài (sau khi kết thúc  phác đồ điều trị một năm) chỉ được  chứng minh trong một số ít nghiên  cứu như đã đề cập. Mặc dù tương  đối  an  toàn,  AIT  vẫn  có  nguy  cơ  gây  phản  ứng  phản  vệ  cho  bệnh  nhân, do đó nên cân nhắc đối với  từng bệnh nhân, tùy theo độ nặng  của triệu chứng, liều đang sử dụng  để kiểm soát triệu chứng, tác dụng  phụ do thuốc và theo mong muốn  của bệnh nhân. AIT nên được thực  hiện bởi các chuyên gia y tế (bác sĩ,  điều dưỡng) đã được huấn luyện về  dị ứng, tại các cơ sở y tế có trang  thiết  bị  đầy  đủ  (đối  với  SCIT)  và  bệnh nhân đã được cung cấp đầy  đủ  thông  tin  về  các  tác  dụng  phụ  (đối với SLIT).  (10) Hiện nay, với tỷ lệ tăng dần của  các bệnh lý hen suyễn, dị ứng tại  Việt  Nam,  AIT  sẽ  là  một  phương  pháp điều trị cần thiết và khả thi đối  với  bệnh  nhân,  nhằm  duy  trì  chất  lượng  cuộc  sống khỏe mạnh.  Bên  cạnh  đó,  chúng  ta  cần  thực  hiện  khảo sát về tần suất dị nguyên, các  nghiên  cứu  thử  nghiệm  lâm  sàng  đánh  giá  hiệu  quả,  tác  dụng  phụ  của AIT trên bệnh nhân ở Việt Nam.  Bên cạnh đó, vì mỗi nước hay mỗi  vùng  có  thời  tiết,  hệ  sinh  thái  và  thảm thực vật khác nhau nên nhiều  dị nguyên và kháng nguyên mang  tính chất vùng, miền khác nhau. Do  đó, nên theo hướng nghiên cứu và  xác  định  đặc  điểm  tính  chất,  đặc  thù các kháng nguyên thường gây  dị  ứng,  từ  đó  có  các  nghiên  cứu  sâu để sản xuất các kháng nguyên  tinh sạch đủ chất lượng để sử dụng  trong xét nghiệm cũng như trong trị  liệu miễn dịch cho các bệnh nhân  dị ứng.    (Nguồn: “Trị liệu miễn dịch trong điều trị dị ứng”, Trịnh Hoàng Kim Tú, TS Lê Đức Dũng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)Văn bản đề cập đến phương thức trị liệu trong bệnh gì?
1. Tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học cơ bản đã thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết trong những tháng ngày của năm 2020 khi đại dịch Covid-19 đang hoành hành trên khắp thế giới. Nhờ có các nghiên cứu cơ bản, cụ thể là các nghiên cứu khám phá về virus, con người đã nhanh chóng xác định được các đặc trưng cơ bản cũng cách chúng phát triển, lây lan và tấn công cơ thể con người. Từ đó, các chính phủ, dựa trên các khuyến nghị từ các nhà khoa học, đã đưa ra các phương án kịp thời và hiệu quả để bảo vệ người dân như giãn cách xã hội hay đeo khẩu trang ở nơi công cộng. 2. Tuy nhiên, đó chỉ là các phương án tạm thời. Thế giới cần có biện pháp hiệu quả và bền vững hơn, và đó chính là vaccine. Các phương pháp chế tạo vaccine truyền thống cần một thời gian tương đối dài, cỡ 10 năm, và do đó không đáp ứng được nhu cầu cấp bách hiện nay. Rất may, các nghiên cứu khoa học đột phá về mRNA của nhà khoa học người Hungary, TS. Katalin Kariko, tiến hành vào năm 2005 khi bà làm việc tại Đại học Pennsylvania, đã trở thành chìa khoá để giúp các nhà nghiên cứu của Công ty BioNTech, có trụ sở tại thành phố Mainz, nước Đức tìm ra vaccine chỉ trong vòng một thời gian kỷ lục 10 tháng, thay vì 10 năm. 3. Trước khi Covid-19 nổ ra, các nghiên cứu của TS. Katalin Kariko từng bị hoài nghi. Có lẽ chính TS. Katalin Kariko cũng không thể nghĩ được rằng các nghiên cứu táo bạo của mình lại trở thành phép màu cho cả thế giới 15 năm sau. Như nhà khoa học đoạt giải Nobel về Sinh lý học và Y học năm 1993, Richard Roberts, đã từng nói “Vẻ đẹp của nghiên cứu khoa học thể hiện ở chỗ bạn không bao giờ biết được nó sẽ dẫn đến đâu”. Hay như nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý năm 2012, Serge Haroche, đã từng nói “Ngay cả những người thông minh nhất cũng không thể hình dung ra hết các hệ quả của nghiên cứu mà họ tiến hành”. Trong số hàng trăm nghiên cứu lớn nhỏ của TS. Katalin Kariko, chỉ cần một trong số chúng nhen nhóm hi vọng hồi sinh cho cả thế giới thì còn gì tuyệt vời hơn? 4. Từ câu chuyện về vaccine Covid-19, chúng ta thấy rằng cần phải có một tư duy hệ thống, sâu sắc và dài hạn cho nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản là các nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu bản chất và quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng tự nhiên. Các kết quả của nó mang tính nguyên bản. Động lực để phát triển nó đó chính là sự tò mò của con người. Mọi quá trình nóng vội mang tính thời vụ đều không phù hợp với các nghiên cứu cơ bản. 5. Khi Newton nghiên cứu và xây dựng nên lý thuyết hấp dẫn, mục tiêu của ông đó là giải thích được câu hỏi “tại sao quả táo rơi xuống đất thay vì bay lên trời?” Nhưng sau đó, chính ông và nhiều nhà khoa học khác thấy được lý thuyết hấp dẫn này còn giải thích và tiên đoán được vô số hiện tượng khác xảy ra trong tự nhiên và vũ trụ. Cơ học Newton đã thành nền tảng lý thuyết để các kỹ sư chế tạo nên máy móc, phương tiện giao thông, cầu đường, nhà cửa. Thiếu nó, mọi hoạt động con người sẽ không còn trơn tru và hiệu quả. Thiếu nó, bạn sẽ không có một chiếc xe Vinfast chạy nhanh và êm ái được. 6. Khi Planck đề xuất thuyết lượng tử, mục tiêu của ông đó là giải quyết vấn đề chưa có lời giải về phổ bức xạ của vật đen tuyệt đối. Và chắc chắn ông không thể hình dung lý thuyết của mình trở thành một trong hai trụ cột chính của Vật lý hiện đại. Nhờ có lý thuyết lượng tử mà con người ngày hôm nay có các máy tính cá nhân, các điện thoại thông minh, hay các tấm pin năng lượng mặt trời. Nhờ có thuyết lượng tử mà chúng ta có thời đại công nghiệp 4.0. Thiếu nó chúng ta không thể có các tập đoàn công nghệ lớn mạnh như Viettel. 7. Vào thời điểm này, đại dịch Covid-19 vẫn là câu chuyện đang rất nóng hổi. Chúng ta nên biết rằng nếu không có các nghiên cứu khám phá về cấu trúc DNA đầu tiên của Francis Crick, James Watson, và Rosalind Franklin cách đây 67 năm thì chúng ta ở sẽ không có vaccine Covid-19 nhanh như bây giờ. Chúng ta cần nhớ có rất nhiều loại virus khác nhau tồn tại trong tự nhiên. Hôm nay virus này đến từ con dơi, nhưng ngày mại virus khác có khi lại đến từ một con chim hót rất hay. Chúng ta cần phải chuẩn bị cho các đại dịch có thể xảy ra trong tương lai. Đầu tư cho khoa học cơ bản để duy trì một đội ngũ các nhà khoa học tài năng, am tường các tiến bộ khoa học – công nghệ của nhân loại là một cách chuẩn bị khôn ngoan nhất. Trong quá khứ, một dân tộc thiện chiến có thể thống lĩnh cả thế giới. Nhưng trong tương lai, một dân tộc tồn tại được dài lâu hay không phụ thuộc vào việc dân tộc đó uyên bác đến mức độ nào.. (Theo Đỗ Quốc Tuấn, Khoa học cơ bản: Giữa vẻ đẹp và tính hữu ích, Báo Khoa học & Phát triển, ngày 11/02/2021) Nội dung chính của bài đọc trên là?