Danh sách câu hỏi
Có 7442 câu hỏi trên 149 trang
Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:WHO ưu tiên tiếp cận các phương pháp điều trị bệnh tiểu đường và ung thư trong Danh mục thuốc thiết yếu mới1. Thuốc điều trị bệnh tiểu đườngTS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO cho biết: bệnh tiểu đường đang gia tăng trên toàn cầu và tăng nhanh hơn ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Quá nhiều người cần insulin nhưng lại gặp khó khăn về tài chính. Danh mục thuốc thiết yếu bao gồm các chất tương tự insulin, cùng với nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận với tất cả các sản phẩm insulin là một bước quan trọng để đảm bảo tất cả những ai cần sản phẩm cứu mạng này đều có thể tiếp cận được ”.2. Insulin được phát hiện như một phương pháp điều trị bệnh tiểu đường cách đây 100 năm và nó đã nằm trong Danh mục thuốc thiết yếu của WHO lần đầu tiên vào năm 1977. Tuy nhiên, nguồn cung cấp insulin hạn chế, giá cao ở một số quốc gia có thu nhập thấp, trung bình hiện đang là một rào cản đáng kể đối với việc điều trị bệnh tiểu đường. Ví dụ, ở thủ đô Accra của Ghana, lượng insulin cần thiết cho một tháng sẽ khiến một công nhân tiêu tốn tương đương với 5,5 ngày lương mỗi tháng. Việc sản xuất insulin tập trung ở một số ít cơ sở sản xuất, trong đó có 3 nhà sản xuất kiểm soát phần lớn thị trường toàn cầu đã dẫn đến sự độc quyền, giá thành cao đối với nhiều người và hệ thống y tế.3. Việc cho phép các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài (insulin degludec, detemir và glargine) và các biosimilars của chúng nhằm tăng khả năng tiếp cận điều trị bệnh tiểu đường. Điều này cũng có nghĩa là các chất tương tự insulin sinh học có thể đủ điều kiện tham gia chương trình sơ tuyển của WHO; việc sơ tuyển của WHO có thể dẫn đến việc các loại biosimilars đảm bảo chất lượng hơn được đưa vào thị trường quốc tế, tạo ra sự cạnh tranh để hạ giá thành và mang lại cho các quốc gia có có nguồn lực y tế thấp có sự lựa chọn sản phẩm tốt hơn.4. Các chất tương tự insulin có tác dụng kéo dài mang lại một số lợi ích lâm sàng bổ sung cho bệnh nhân thông qua thời gian tác dụng kéo dài, điều này đảm bảo rằng mức đường huyết có thể được kiểm soát trong thời gian dài hơn mà không cần dùng liều tăng cường. Chúng mang lại lợi ích đặc biệt cho những bệnh nhân có mức đường huyết thấp nguy hiểm với insulin người. Sự linh hoạt hơn trong thời gian và liều lượng các chất tương tự insulin đã được chứng minh là cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, insulin vẫn là một yếu tố quan trọng trong điều trị bệnh tiểu đường và việc tiếp cận với loại thuốc cứu mạng này phải tiếp tục được hỗ trợ thông qua sự sẵn có và khả năng chi trả tốt hơn.5. Danh mục cũng bao gồm các chất ức chế Sodium-Glucose Co-Transporter-2 (SGLT2) empagliflozin, canagliflozin và dapagliflozin như là liệu pháp hàng đầu ở người lớn mắc bệnh tiểu đường loại 2. Các loại thuốc uống này đã được chứng minh là mang lại một số lợi ích, bao gồm giảm nguy cơ tử vong, suy thận và các biến cố tim mạch. Bởi vì các chất ức chế SGLT2 vẫn được cấp bằng sáng chế và có giá cao, nên việc cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc điều trị bệnh tiểu đường bao gồm insulin và thuốc ức chế SGLT2 là một trong những quy trình của Hiệp định Tiểu đường toàn cầu, do WHO đưa ra vào tháng 4/2021 và là chủ đề chính được thảo luận với các nhà sản xuất thuốc.6. Thuốc điều trị ung thưUng thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật và tử vong trên toàn thế giới (có gần 10 triệu ca tử vong vào năm 2020, trong đó 70% xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). Những đột phá mới đã được thực hiện trong điều trị ung thư trong những năm qua, như các loại thuốc nhắm vào đặc điểm phân tử cụ thể của khối u, một số trong số đó mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với hóa trị liệu “truyền thống” cho nhiều loại ung thư. 4 loại thuốc mới để điều trị ung thư đã được thêm vào Danh mục thuốc thiết yếu lần này: 1) Enzalutamide - một chất thay thế cho abiraterone, dùng cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt; 2) Everolimus - dùng cho u tế bào hình sao, một loại u não ở trẻ em; 3) Ibrutinib - một loại thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh bạch cầu mạn tính; và 4) Rasburicase - thuốc điều trị biến chứng nghiêm trọng của một số phương pháp điều trị ung thư.7. Danh mục cũng đã được mở rộng, bao gồm điều trị nhắm mục tiêu bệnh bạch cầu. Các chỉ định ung thư mới ở trẻ em đã được thêm vào cho 16 loại thuốc đã được liệt kê, bao gồm cả u thần kinh đệm cấp độ thấp (dạng u não phổ biến nhất ở trẻ em). Một nhóm các kháng thể giúp tăng cường phản ứng miễn dịch đối với các tế bào khối u, được gọi là chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch PD-1/PD-L1, không được khuyến khích đưa vào danh sách điều trị một số bệnh ung thư phổi, mặc dù có hiệu quả, chủ yếu là do chúng quá mạnh, giá cao và lo ngại rằng chúng khó quản lý trong các hệ thống y tế có nguồn lực thấp. Các loại thuốc điều trị ung thư khác không được khuyến khích niêm yết do không chắc chắn có thêm lợi ích lâm sàng so với các loại thuốc đã được niêm yết, giá cao và các vấn đề quản lý trong các cơ sở y tế có nguồn lực thấp. Chúng bao gồm osimertinib cho bệnh ung thư phổi, daratumumab cho bệnh đa u tủy và ba loại điều trị (thuốc ức chế CDK4/6, fulvestrant và pertuzumab) cho bệnh ung thư vú.(Nguồn: Nguyễn Thị Hường; Theo who.int)Diễn đạt nào dưới đây thể hiện rõ nhất ý chính của bài đọc trên?
Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ
(1) Các mạch máu, còn được gọi là các mao mạch, nằm ở khắp cơ thể. 99% mạch máu của con người được cho là mao mạch. Tổng chiều dài của các mao mạch trong cơ thể của con người lên đến 100.000 km, tức là có thể quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần. Các mao mạch có vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động sống của con người, giúp con người khỏe mạnh. Các mao mạch khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì khoảng 40% mao mạch trong cơ thể bị suy giảm. Cùng với sự gia tăng của tuổi tác, các mao mạch suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các mạch máu xấu. Sự suy giảm các mao mạch được các nhà khoa học ví như những con tàu ma của hệ thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn tại những mao mạch trống rỗng mà không có sự lưu thông máu.
(2) Mỗi mao mạch có đường kính 0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày của sợi tóc). Bằng việc sử dụng các thiết bị chụp ảnh sinh học tối tân nhất với độ phân giải siêu cao, các nhà khoa học đã đi sâu tìm hiểu cơ chế và tác động của những mao mạch xấu, từ đó tìm ra các giải pháp để giúp con người sống khỏe hơn và lâu hơn. Qua kính hiển vi và các thiết bị chuyên dụng, có thể quan sát thấy sự biến mất của các mao mạch. Những nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ chế xuất hiện những mạch máu xấu và phương pháp làm giảm sự xuất hiện của chúng.
(3) Các nhà khoa học tại Đại học Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa mạch máu xấu và tuổi thọ con người. Một lượng lớn dữ liệu về những người sống thọ và bí quyết sống thọ đã được thu thập. Nhóm người được nghiên cứu sống ở vùng đô thị có độ tuổi trong khoảng 85-98. Những người này được theo dõi 16 chỉ số trong cơ thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ số về sức khỏe của đôi chân, chỉ số về sự tiến triển của xơ cứng động mạch và điện tâm đồ. Đây là những chỉ số rất quan trọng để xác định mối quan hệ giữa các mao mạch và tuổi thọ.
(4) Các nhà khoa học đã sử dụng một thiết bị có thể chụp và quan sát các mao mạch để phát hiện phạm vi các mạch máu xấu xuất hiện trên cơ thể. Phạm vi của các mạch máu xấu xuất hiện ở gốc móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc móng tay giúp chúng ta quan sát các mao mạch cũng như các tế bào máu lưu thông một cách dễ dàng.
(5) Đến tháng 3/2019, nhóm nghiên cứu của GS Yasumichi Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra mao mạch của 1.000 người cao tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về mối quan hệ giữa mạch máu và tuổi thọ. Theo đó, sự xuất hiện mạch máu xấu càng nhiều và càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến tuổi thọ. Họ cũng phát hiện ra rằng, các mạch máu xấu xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể còn tương đối trẻ (20-30 tuổi). Quá trình này diễn ra nhanh chóng khiến những vùng da xấu không ngừng mở rộng.
(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân của bệnh loãng xương
Mạch máu xấu không chỉ tác động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những mạch máu xấu hình thành nhiều dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da, khiến da trở nên nhăn nheo. Tại Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các nhà khoa học đã áp dụng công nghệ mới nhất để nghiên cứu hoạt động của các mao mạch. Trước đây, các nghiên cứu chưa từng quan sát một cách chi tiết những mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ thuật mới cho phép các nhà khoa học của Đại học Y Jichi thành công trong việc phát hiện những mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể con người. Công nghệ mới này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của các mao mạch cũng như hậu quả xảy ra khi các mao mạch biến thành các mạch máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên cứu mối liên hệ giữa mạch máu xấu với các tế bào da.
(7) Các mao mạch có nhiệm vụ cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho các tế bào riêng lẻ trên khắp cơ thể. Những mao mạch này đóng vai trò quan trọng đối với sắc đẹp và sức khỏe của con người. Nếu các mạch máu xấu hình thành dưới da, chúng sẽ ngăn chặn việc cung cấp oxy và dinh dưỡng cho các tế bào, làm tăng các tế bào tổn hại da, khiến da mất khả năng hồi phục. Chúng có thể làm cho da nhăn nheo và chảy sệ. Khi các mạch máu xấu xuất hiện sẽ đẩy nhanh quá trình lão hóa, là nguyên nhân gây ra một loạt các căn bệnh liên quan như: huyết áp cao, tiểu đường, các chứng bệnh về tim mạch và ung thư... Không chỉ có vậy, khi cơ thể xuất hiện mạch máu xấu sẽ xuất hiện những căn bệnh khác như tóc rụng; bàn tay, bàn chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do lượng nhiệt vận chuyển qua mạch máu đến chúng bị kém đi. Ngoài ra, các mạch máu xấu còn ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng gan, thận; làm giảm hiệu quả của thuốc trong quá trình điều trị bệnh, đặc biệt là những loại thuốc rất quan trọng trong cuộc chiến chống ung thư.
(8) Các nhà khoa học của Viện Max Planck (Đức) đã tìm ra mối liên hệ giữa các mạch máu xấu với bệnh loãng xương. Trong nghiên cứu của mình, GS Ralf Adam (Viện Max Planck) đã tiến hành thí nghiệm trên những con chuột khỏe mạnh và những con chuột già. Nhóm nghiên cứu của ông đã tiên phong trong việc chụp ảnh thành công các mao mạch trong xương. Những hình ảnh cho thấy, những con chuột già bị loãng xương có rất ít các mao mạch trong xương. Nghiên cứu chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và trống rỗng làm loãng xương. Các mao mạch có tác dụng cung cấp canxi và các dưỡng chất giúp hình thành mô xương mới. Khi mao mạch trở nên xấu đi, việc cung cấp canxi cho xương không còn, khiến các mô xương bị hoại tử.
(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ
Nghiên cứu về vai trò của mạch máu cũng như tác động tiêu cực của mạch máu xấu đến não bộ, lần đầu tiên, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng, mạch máu xấu là nguyên nhân gây ra chứng mất trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc Đại học Nam California (Mỹ) đã tập trung nghiên cứu yếu tố mấu chốt liên quan đến các mao mạch xấu trong não. Sử dụng kính hiển vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ các tế bào nội mô. Những tế nào này hình thành giống như bức tường của mạch máu, bên cạnh những tế bào ngoại mạch. Những tế bào nội mô tạo thành lớp niêm mạc cho các mao mạch, giúp cho máu tuần hoàn trong cơ thể; còn những tế bào ngoại mạch dính chặt bên ngoài các mao mạch và cố định ở đó. Các tế bào ngoại mạch được dính kết lại để bảo vệ cấu trúc các mao mạch. Trong các mao mạch khỏe mạnh, lượng oxy và dinh dưỡng được liên kết thông qua các lỗ hổng của tế bào nội mô và vận chuyển đến các tế bào xung quanh. Nhưng nếu các tế bào ngoại mạch bắt đầu bóc tách làm cho phần bảo vệ các mao mạch không còn, khiến các tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ và trở nên yếu ớt. Những khoảng trống bên trong mao mạch trở nên rộng hơn, kết quả là một lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng bị rò rỉ ra ngoài. Khi đó, máu không thể lưu thông qua những chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu xấu không ngừng phát triển. GS Berislav Zlokovic (Đại học Nam California), nhà khoa học hàng đầu thế giới chuyên nghiên cứu về các mạch máu não cho rằng, tế bào ngoại mạch chỉ có ở những mạch máu não, và “Tế bào ngoại mạch là những người gác cổng các mao mạch trong não giúp tái tạo protein. Nhưng nếu các tế bào ngoại mạch tổn thương, nghĩa là máu không thể lưu thông bình thường trong não”.
(10) Nhóm nghiên cứu của GS Berislav Zlokovic quyết định tìm hiểu những triệu chứng xuất hiện trong não khi các tế bào ngoại mạch biến mất. Để làm được việc đó, họ đã thử nghiệm trên những con chuột bình thường và những con chuột bị giảm 25% khả năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch thông qua kỹ thuật di truyền. Thử nghiệm của nhóm GS Berislav Zlokovic là cho 2 con chuột chạy trên bánh xe quay, sau đó cho dừng bánh xe quay một cách đột ngột. Kết quả cho thấy, những con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử lý tình huống bằng cách tiếp tục cho bánh xe quay, nhưng những con chuột bị giảm 25% khả năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch lại không thể kiểm soát được bánh xe. Từ đó, họ đi đến kết luận, những mao mạch xấu làm giảm khả năng hoạt động của não trước những phản ứng đột ngột. Điều này dẫn đến triệu chứng mất trí nhớ.
(11) Trong một trường hợp khác, các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Đại học Ehime và Đại học Mie (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên cứu những bất thường của não ở giai đoạn sớm nhất để có thời gian đưa ra các biện pháp trị liệu hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu của mình, GS Hidekaru Tomimoto (Đại học Mie, là một trong những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về vai trò của các mao mạch liên quan tới chứng mất trí nhớ) nhận thấy, não của người mắc bệnh Alzheimer có số lượng mao mạch giảm khoảng 29% so với người khỏe mạnh và những mạch máu xấu xuất hiện nhiều hơn, từ đó làm xuất hiện các Amyloid beta. Các nhà khoa học tin rằng, khi Amyloid beta xuất hiện với số lượng lớn trong não sẽ dẫn đến tình trạng bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, chứng mất trí nhớ không chỉ do các mạch máu xấu gây nên mà còn do các chứng bệnh khác gây ra. Nhưng một điều chắc chắn rằng, để ngăn chặn bệnh Alzheimer thì điều cần làm là phải ngăn chặn việc hình thành các mạch máu xấu.
(12) Nghiên cứu của các nhà khoa học nêu trên cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của những mạch máu xấu trong cơ thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị huyết áp cao, lười tập thể dục... Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn ngừa sự xuất hiện các mạch máu xấu là duy trì một lối sống lành mạnh: ăn uống khoa học (không ăn quá nhiều), không hút thuốc lá, tập thể dục hoặc chơi một môn thể thao nào đó hàng ngày... Một trong những giải pháp thú vị mà các nhà khoa học khuyên mọi người là thường xuyên thực hiện động tác thể dục nâng cao gót hai chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng và sau đó thả gót chân xuống. Đây là giải pháp đơn giản không cần sự hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể thực hiện ở bất cứ thời gian và địa điểm nào.
(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Nội dung chính của văn bản trên là?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:HOÀNG LIÊN CHÂN GÀ – DƯỢC LIỆU QUÝ ĐA TÁC DỤNG(1) Hoàng liên chân gà ( Coptis chinensis Franch) là cây thân thảo, sống lâu năm, ưa sống ở vùng núi cao 1.000-2.500 m, mưa nhiều, ẩm ướt. Hiện nay, loài dược liệu này được trồng nhiều tại Trung Quốc, chủ yếu ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ Bắc, Thiểm Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Triết Giang, Sơn Tây. Tại Việt Nam, Hoàng liên chân gà phân bố chủ yếu ở huyện Sa Pa (Lào Cai) và huyện Quản Bạ (Hà Giang). Hoàng liên chân gà thuộc diện quý hiếm, đã được đưa vào Sách đỏ của Liên minh bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) năm 1980, Sách đỏ Ấn Độ 1980 và Sách đỏ Việt Nam năm 1996. (2) Trong y học cổ truyền, Hoàng liên chân gà có vị đắng, tính hàn. Quy kinh vào tâm, can, đởm, tiểu trường. Có tác dụng thanh nhiệt táo thấp, chủ trị các bệnh vị tràng thấp nhiệt dẫn đến chứng lỵ, tiêu chảy; thanh tâm trừ phiền: tâm hỏa thịnh gây phiền muộn, mất ngủ, miệng lưỡi lở loét; giải nhiệt độc ung nhọt, sốt cao, phiền táo, chóng mặt, nói nhảm, mê cuồng, lưỡi đỏ, mạch sác; thanh can sáng mắt, điều trị các bệnh do can hỏa gây đau mắt, đỏ mắt, chảy nước mắt; giải độc ba đậu, khinh phấn.(3) Ngày nay, dược liệu này đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu về thành phần hóa học và tác dụng dược lý.Thành phần hóa học: thân, rễ Hoàng liên chân gà có chứa nhiều alcaloid (5-8%), với các thành phần chính là berberin, palmatin, jatrorrhizin, coptisin, epiberberin, columbamin, worenin, magnoflorin... Các thành phần alcaloid của Hoàng liên chân gà được tìm thấy trong hầu hết các bộ phận của cây, tuy nhiên tỷ lệ alcaloid trong các bộ phận của cây thay đổi theo các giai đoạn sinh trưởng và mùa. Vào tháng 9-10, ở thân và rễ nhỏ có hàm lượng berberin cao; ở lá già trước khi rụng (tháng 7-10) hàm lượng alcaloid cũng thường cao; ở hoa có khoảng 0,56% và hạt chứa 0,23% berberin. Ngoài ra, trong thân, rễ của Hoàng liên chân gà còn có tinh bột, acid hữu cơ như acid ferulic... Trong số các thành phần hóa học nêu trên, berberin được y học quan tâm nhiều nhất, tiếp đến là palmatin.Tác dụng dược lý: các kết quả nghiên cứu cho thấy, Hoàng liên chân gà có nhiều tác dụng dược lý khác nhau:- Kháng khuẩn, kháng virus, kháng nấm: nhóm nghiên cứu của Hàn Quốc do Bae EA (1998) đứng đầu đã đánh giá tác dụng của Hoàng liên chân gà trên vi khuẩn Helicobacter pylori , kết quả cho thấy, nước sắc từ loài cây này có tác dụng làm giảm 16% hoạt tính men urease và ức chế mạnh sự phát triển của vi khuẩn Helicobacter pylori . Các nghiên cứu khác cũng đã chứng minh nước sắc Hoàng liên chân gà và hoạt chất berberin có phổ kháng khuẩn rộng đối với một số chủng gram (+) và gram (-). Nước sắc thể hiện tác dụng ức chế một số vi khuẩn tùy theo độ pha loãng khác nhau như: Shigella shigac , Sh. dysenteriae , Bacillus tuberculosis , Bacillus cholera , Staphylococcus aureus , Bacillus paratyphi , Bacillus coli , Bacillus proteus , Streptococcus hemolyticus , Vitrio cholera , Baccillus subtilis ... Cơ chế tác dụng kháng khuẩn được giải thích là do berberin ức chế tổng hợp ARN, ADN và protein đối với vi khuẩn. Ngoài ra, Hoàng liên chân gà còn có tác dụng kháng nấm và virus. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nước sắc Hoàng liên chân gà với nồng độ 50% khi thí nghiệm trên phôi gà có tác dụng ức chế sự phát triển của virus cúm chủng PR8, 56S8, P.M.- Giảm hội chứng ruột kích thích và điều trị viêm đường tiêu hóa: năm 2011, Yungwui Tjong và cộng sự (Hồng Kông, Trung Quốc) đã nghiên cứu chiết xuất rễ Hoàng liên chân gà và nhận thấy chúng có tác dụng giảm những cơn đau nội tạng trên động vật thực nghiệm, cơ chế có thể là do làm giảm hormon cholecystokinin và serotonin - là những chất làm co cơ trơn dẫn tới tăng nhu động đại tràng. Cũng trong năm này, nhóm nghiên cứu của Qian Zhang và cộng sự (Trung Quốc) đã cho thấy tác dụng điều trị viêm đường tiêu hóa của dược liệu Hoàng liên chân gà. Theo đó, dịch chiết nước Hoàng liên chân gà với liều 300 mg/kg cân nặng và berberin với liều 120 mg/kg cân nặng đã có tác dụng làm giảm tổn thương đường tiêu hóa gây ra bởi lip oposaccharose theo cơ chế làm tăng hoạt động của SOD và GSH-Px, ức chế hoạt động của TLR4 và NF-jB ở hồi tràng.(4) Đặc biệt, một số nghiên cứu được công bố năm 2018 cho thấy, Hoàng liên chân gà có tiềm năng để điều trị bệnh Alzheimer, bảo vệ thần kinh, thận. Cụ thể, nhóm nghiên cứu của Cao Thảo Nguyên và cộng sự (Việt Nam) đã điều tra thành phần hóa học một chiết xuất nước của dược liệu Hoàng liên chân gà và xác định được 2 protoberberines bậc bốn (1, 2) và 1 amide ba vòng mới (3), cùng với 5 hợp chất đã biết (4, 5, 6, 7, 8). Các hợp chất 4, 5 và 7 cho thấy sự ức chế mạnh đối với acetylcholinesterase (AChE) tương ứng với các giá trị IC 50 là 1,1; 5,6 và 12,9 μ M. Hợp chất 2 và 4 cho thấy sự ức chế butyrylcholinesterase (BChE) tương ứng với giá trị IC 50 là 11,5 và 27,8 μ M. Qua nghiên cứu này, các tác giả kết luận Hoàng liên chân gà là dược liệu tiềm năng để điều trị bệnh Alzheimer. Tại Trung Quốc, Yujuan Li và cộng sự đã nghiên cứu tác dụng bảo vệ thần kinh của polysaccharide Hoàng liên chân gà trên mô hình giun tròn ( Caenorhabditis elegans ) biến đổi gen bị bệnh Alzheimer được gây độc bằng amyloid-beta (A β ). Những dữ liệu nghiên cứu chứng minh rằng polysaccharide Hoàng liên chân gà có thể làm giảm độc tính do A β gây ra bằng cách trì hoãn sự lão hóa, làm giảm tốc độ tê liệt, ức chế sự lắng đọng của A β , và tăng mức biểu hiện của gen HSP trong giun tròn biến đổi gen. Bên cạnh đó, Ying-Ying Wang và cộng sự (Trung Quốc) đã chứng minh rằng berberine (thành phần hoạt chất chính của Hoàng liên chân gà) có thể bảo vệ chức năng của podocytes thông qua ức chế chuyển TGF- β 1 từ các tế bào Mesangial cầu thận sang podocyte. Đây là một trong những cơ chế tiềm năng của tác dụng bảo vệ đối với bệnh thận do tiểu đường. (5) Không chỉ dừng lại ở đó, Hoàng liên chân gà còn được các công trình nghiên cứu khoa học gần đây chứng minh là dược liệu tiềm năng để điều trị các bệnh về sa sút trí tuệ, tiểu đường, phòng ngừa xơ vữa động mạch, lợi mật, chống ung thư, hạ huyết áp, an thần... Những tác dụng này đã được Đỗ Huy Bích và cộng sự ghi chép lại trong bộ sách Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam do Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật phát hành.(6) Việt Nam là một quốc gia sở hữu nguồn tài nguyên cây thuốc và tri thức sử dụng cây thuốc vô cùng phong phú, đa dạng. Nhu cầu sử dụng dược liệu phục vụ cho việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng tương đối cao. Trước tình trạng cạn kiệt nguồn Hoàng liên chân gà ở nước ta cùng với việc xác định được những vai trò phòng và chữa bệnh hết sức quan trọng của vị thuốc này trong y dược học cổ truyền và y dược học hiện đại, cần phải có những hướng nghiên cứu mới về cây Hoàng liên chân gà nhằm phát triển nguồn dược liệu và tiềm năng chữa bệnh từ dược liệu quý này.(7) Để bảo tồn các cây thuốc quý nói chung, Hoàng liên chân gà nói riêng, cách tốt nhất là hình thành nên chuỗi giá trị cho chúng để bảo tồn và phát triển bền vững trong thực tiễn cuộc sống. Một số hoạt động nghiên cứu cơ bản trong chuỗi giá trị như sau: nghiên cứu quy trình kỹ thuật nhân giống, sản xuất giống Hoàng liên chân gà; nghiên cứu quy trình kỹ thuật trồng và xây dựng mô hình trồng Hoàng liên chân gà; sơ chế, chế biến tại vùng nguyên liệu để tạo dược liệu Hoàng liên chân gà; nghiên cứu đánh giá các thành phần hóa học, tác dụng dược lý của dược liệu trồng được so với dược liệu thu hái tự nhiên và dược liệu nhập khẩu; nghiên cứu bào chế sản phẩm bảo vệ sức khỏe có sử dụng Hoàng liên chân gà và các dược liệu khác đảm bảo được tính an toàn, hiệu quả, đủ điều kiện đưa ra thị trường.(8) Nói cách khác, nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo tồn giống, cơ sở sản xuất giống, hình thành các vùng chuyên canh trồng nguyên liệu, cơ sở chế biến tại vùng nguyên liệu, tạo ra những sản phẩm được bào chế từ Hoàng liên chân gà là việc làm thiết thực và cần thiết để bảo tồn nguồn gen, tạo dược liệu quý cho y học cổ truyền Việt Nam, góp phần chăm sóc sức khỏe cộng đồng.(Nguồn: “Hoàng liên chân gà – dược liệu quý đa tác dụng”, Phùng Tuấn Giang, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)Hoàn liên chân gà là gì?
Đột phá mới trong điều trị xuất huyết hậu sản
(1) Băng huyết được giới chuyên môn cho là hiện tượng khi lượng máu chảy từ đường sinh dục của sản phụ trong vòng 24 giờ sau sinh lớn hơn 500 ml hoặ c mất máu lớn hơn 1% trọng lượng cơ thể, hoặc một lượng máu mất bất kỳ nhưng ảnh hưởng đến huyết động học. Mức độ nặng của băng huyết không chỉ phụ thuộc vào lượng máu mất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào thể trạng của sản phụ trước khi bị băng huyết.
(2) “Mẹ tròn con vuông” là niềm mong mỏi và là hạnh phúc của mọi gia đình khi có sản phụ đi sinh. Nhưng quá trình sinh nở luôn là nỗi lo canh cánh của rất nhiều bà mẹ mang thai và gia đình họ. Mỗi ngày, trên thế giới có hàng nghìn bà mẹ tử vong do tai biến sản khoa và mỗi năm có hàng triệu phụ nữ không có cơ hội sống để hoàn thành thiên chức làm mẹ, đặc biệt là sản phụ ở những nơi có điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội khó khăn, an sinh xã hội kém và thiếu thốn các điều kiện sống cơ bản. Cho đến nay, băng huyết vẫn được xem là nguyên nhân gây tử vong cao nhất trong 5 nguyên nhân tử vong hàng đầu đối với sản phụ.
(3) Mặc dù những tiến bộ trong y học đã góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong do băng huyết, nhưng hai từ này luôn là nỗi ám ảnh không chỉ với những phụ nữ sinh thường và những người thân của họ mà còn cả với nhiều chuyên gia sản khoa. Theo WHO, hiện có khoảng 70.000 phụ nữ tử vong mỗi năm vì xuất huyết hậu sản, điều này cũng có nghĩa là tăng nguy cơ con của họ cũng chết trong vòng một tháng. Đối với Việt Nam, tỷ lệ băng huyết sau sinh chiếm 3-8% tổng số sinh.
(4) Với những nước đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia nghèo, thì tỷ lệ phụ nữ tử vong do băng huyết lại càng cao do nguyên nhân cơ bản là cuộc sống khó khăn, phụ nữ mang thai phải làm việc nặng nhọc, thậm chí lao động trong môi trường độc hại; chế độ nghỉ ngơi không đảm bảo; chế độ ăn uống thiếu dinh dưỡng... Cơ sở y tế nghèo nàn, không đảm bảo vệ sinh, thiếu thốn các trang thiết bị và thuốc điều trị khiến việc cấp cứu và điều trị những phụ nữ bị xuất huyết hậu sản trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Hiện nay, WHO khuyến cáo dùng oxytocin là thuốc lựa chọn đầu tiên để ngăn ngừa chảy máu quá mức sau khi sinh. Tuy nhiên, oxytocin phải được bảo quản ở nhiệt độ 2-8 o C. Đây thực sự là một công việc khó khăn ở nhiều quốc gia nghèo. Bởi vậy mà rất nhiều sản phụ không có cơ hội được tiếp cận nguồn thuốc này. Hoặc nếu có được loại thuốc này trong tay thì hiệu lực của thuốc đã bị giảm đáng kể do tiếp xúc với nhiệt độ cao bên ngoài vì thiếu thốn trang thiết bị bảo quản cần thiết.
(5) Vừa qua, WHO đã nghiên cứu thành công một loại thuốc với công thức mới (có tên là carbetocin) có thể giúp ngăn ngừa băng huyết ở phụ nữ sau khi sinh. Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học New England [3]. Thuốc carbetocin được bảo quản ở môi trường bình thường (30 o C, độ ẩm tương đối là 75%) với hạn sử dụng lên tới 3 năm. TS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO nhận định: “Đây là một bước tiến vượt bậc của y học, giúp cứu sống hàng vạn bà mẹ và trẻ sơ sinh mỗi năm”.
(6) Trong nghiên cứu của mình, các nhà khoa học đã tiến hành một cuộc thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (RCT) với quy mô lớn (29.645 phụ nữ sinh thường) đến từ 23 bệnh viện ở các quốc gia: Argentina, Ai Cập, Ấn Độ, Kenya, Nigeria, Singapore, Nam Phi, Thái Lan, Uganda và Vương quốc Anh. Mỗi phụ nữ được tiêm ngẫu nhiên một liều carbetocin hoặc oxytocin ngay sau khi sinh con. Nghiên cứu cho thấy, cả hai loại thuốc đều có hiệu quả như nhau trong việc ngăn ngừa băng huyết sau khi sinh.
(7) Để có được đánh giá so sánh chính xác phương pháp thử nghiệm không thấp kém hơn (non-inferiority) chứng minh phương pháp điều trị mới, cá c nhà khoa học đã đảm bảo các điều kiện bảo quản, đặc biệt là nhiệt độ của oxytocin, để mỗi loại thuốc đạt hiệu quả tối đa khi điều trị. Thử nghiệm được tiến hành với việc sử dụng carbetocin ổn định nhiệt trong môi trường thực tế, nơi oxytocin có thể bị thoái hóa do tiếp xúc với nhiệt độ cao hơn. Kết quả thử nghiệm cho thấy, tác dụng và hiệu quả điều trị với carbetocin không thua kém oxytocin: tần suất mất máu ít nhất 500 ml hoặc sử dụng thêm thuốc co hồi tử cung là 14,5% ở nhóm carbetocin và 14,4% ở nhóm oxytocin; tần suất mất máu ít nhất 1.000 ml là 1,51% ở nhóm carbetocin và 1,45% ở nhóm oxytocin. Việc sử dụng các thuốc co hồi tử cung bổ sung, can thiệp để ngừng chảy máu và các tác dụng phụ không khác biệt đáng kể giữa hai nhóm. “Sự phát triển của một loại thuốc để ngăn ngừa xuất huyết hậu sản vẫn tiếp tục có hiệu quả trong điều kiện nóng và ẩm là tin rất tốt cho hàng triệu phụ nữ sinh con ở các nơi trên thế giới mà không được tiếp cận với các thiết bị bảo quản tốt”, TS Metin G ü lmezoglu - Viện Nghiên cứu Sức khỏe và Sinh sản của WHO cho biết.
(8) Với sự ra đời của thuốc mới carbetocin, tới đây, những phụ nữ ở các khu vực hẻo lánh và thiếu thốn sẽ không còn bị ám ảnh bởi thần chết mang tên “băng huyết” rình rập. WHO đang chuẩn bị bước tiếp theo là xem xét và phê duyệt theo quy định của các quốc gia để đưa carbetocin vào sử dụng trong điều trị.
(9) Điều thú vị hơn là mới đây, một nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc Đại học Birmingham (Vương quốc Anh) cũng đã chỉ ra rằng, việc ra đời những loại thuốc mới sẽ giúp ngăn chặn hiệu quả những tai biến nguy hiểm có thể xảy ra đối với các sản phụ. Công trình nghiên cứu của họ đã đưa ra một giải pháp mới, đó là kết hợp các loại thuốc với nhau để tăng hiệu quả điều trị. Chẳng hạn như ergometrine với oxytocin, misoprostol với oxytocin hay điều trị bằng carbetocin sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu chỉ sử dụng oxytocin như hiện nay. Phân tích dữ liệu từ 140 cuộc thử nghiệm lâm sàng khác nhau liên quan đến hơn 88.000 phụ nữ, các nhà khoa học đã có được cách so sánh chính xác đối với hiệu quả điều trị của tất cả các loại thuốc này.
(Nguồn: “Đột phá mới trong điều trị xuất huyết hậu sản”, Nguyễn Minh Đức, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)
Xuất huyết hậu sản thường gặp ở đối tượng nào?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:Trị liệu miễn dịch trong điều trị dị ứng(1) Các bệnh dị ứng rất phổ biến ở các nước phát triển và đang có xu thế tăng lên hàng năm. Ở các nền kinh tế đang phát triển, mặc dù tỷ lệ người mắc bệnh dị ứng thấp hơn nhưng cũng có xu hướng gia tăng. Ở Việt Nam, tuy chưa có thống kê cụ thể nhưng số người mắc bệnh này được phát hiện ngày càng nhiều. Lâu nay, hầu hết các thuốc chữa trị các bệnh dị ứng mới chỉ tập trung vào điều trị triệu chứng, chỉ có tác dụng chữa trị trong một thời gian nhất định. Các biện pháp chữa trị can thiệp dựa vào cơ chế hình thành và phát triển của bệnh hiện đang được tập trung nghiên cứu và ứng dụng. Trong đó, trị liệu miễn dịch là một phương pháp được nghiên cứu sâu rộng và hứa hẹn nhiều tiềm năng trong tương lai gần. Phản ứng quá mức của cơ thể chúng ta trước những dị nguyên vô hại như: phấn hoa, lông chó mèo, mạt bụi nhà... Các loại bệnh dị ứng thường gặp là hen suyễn, viêm mũi, viêm da, dị ứng thực phẩm, sốc phản vệ...(3) Theo cơ chế phản ứng miễn dịch và sự tham gia khác nhau giữa các thành phần của hệ miễn dịch, người ta phân ra 4 loại phản ứng dị ứng khác nhau. Tuy nhiên, các bệnh dị ứng phổ biến thường gặp và trị liệu miễn dịch nhắm vào là loại 1 (phản ứng quá mẫn tức thì) và loại 4 (phản ứng quá mẫn muộn). Cơ chế miễn dịch của dị ứng về cơ bản được chia thành 2 giai đoạn: 1- Mẫn cảm; 2- Phản ứng dị ứng. Khi chúng ta tiếp xúc lần thứ 2 với dị nguyên sẽ gây ra phản ứng cấp tính dẫn đến các triệu chứng dị ứng như giãn mạch, co thắt phế quản, tiêu chảy, buồn nôn. Phản ứng dị ứng muộn thường xảy ra trong 4-6 tiếng sau khi tiếp xúc dị nguyên và thường gây ra các triệu chứng như khó thở, ho, đờm, phù nề. Nếu bệnh nhân tiếp xúc với các dị nguyên trong thời gian dài có thể gây ra phản ứng mạn tính với các triệu chứng như: xơ hóa đường hô hấp, tăng sản tế bào đờm. Trên thực tế, bệnh nhân có thể biểu hiện các bệnh cảnh khác nhau khi tiếp xúc với dị nguyên, như: mắt (viêm kết mạc dị ứng), đường hô hấp trên (viêm mũi dị ứng), đường hô hấp dưới (hen suyễn), da (viêm da cơ địa)... Đối với mỗi bệnh cảnh dị ứng, bệnh nhân có thể được chỉ định dùng thuốc kháng histamine hoặc corticosteroids dạng hít hoặc dạng bôi. (4) Trong phần lớn các trường hợp, triệu chứng dị ứng sẽ được kiểm soát, tuy nhiên, có một nhóm bệnh nhân vẫn sẽ tiềm ẩn nguy cơ tái phát khi tiếp xúc lại với dị nguyên, do vẫn tồn tại những tế bào T ghi nhớ trong cơ thể. AIT có thể được áp dụng để thay đổi cách hệ miễn dịch đáp ứng với dị nguyên. (5) Các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng, hệ miễn dịch của con người có thể được huấn luyện để nhận biết các dị nguyên có hại và vô hại, từ đó ghi nhớ và những lần tiếp xúc sau không gây ra phản ứng miễn dịch. Đó cũng chính là cơ chế cơ bản của trị liệu miễn dịch và dẫn tới áp dụng phương pháp AIT.(6) Gần đây, AIT đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới với những kết quả đáng ghi nhận. Nguyên tắc của AIT là đưa vào cơ thể người bệnh một lượng dị nguyên với liều lượng tăng dần từ thấp đến cao, đến khi đạt một nồng độ nhất định hiệu quả trong việc tạo ra hiện tượng dung nạp miễn dịch của cơ thể đối với loại dị nguyên đó. Nhờ vào đặc tính huấn luyện hệ miễn dịch của cơ thể quen dần với sự tồn tại của dị nguyên, AIT vừa giúp làm giảm triệu chứng, vừa giúp ngăn ngừa tái phát về sau, kể cả khi tiếp xúc với dị nguyên. Cơ chế tạo ra tình trạng dung nạp miễn dịch của AIT khá phức tạp và vẫn còn đang được nghiên cứu. Các nghiên cứu cho thấy, ở những bệnh nhân đạt được dung nạp miễn dịch, hệ miễn dịch có xu hướng chuyển đổi từ đáp ứng tế bào T hỗ trợ loại 2 (Th2 - T helper cell type-2) sang đáp ứng miễn dịch tế bào T hỗ trợ loại 1 (Th1). Đáp ứng miễn dịch theo hướng Th2 sẽ gây ra tình trạng dị ứng, do đó, giảm đáp ứng Th2 sẽ giúp triệu chứng được cải thiện. Bên cạnh đó, tế bào T điều hòa được sinh ra và sản xuất các hóa chất trung gian kháng viêm, ví dụ interleukin-10 (IL-10), yếu tố tăng trưởng chuyển đổi b (transforming growth factor-b). IL-10 có tác dụng làm giảm kháng thể IgE (tăng dị ứng) và tăng kháng thể IgG4 (giảm dị ứng), nhờ đó làm giảm sản xuất các hóa chất trung gian từ dưỡng bào, bạch cầu ái toan và tế bào T. Cùng với đó, AIT còn giúp hạn chế kết tập tế bào bạch cầu ái toan, dưỡng bào, bạch cầu ái kiềm ra ngoài da hoặc niêm mạc và làm giảm tiết hóa chất trung gian gây viêm từ các tế bào này. (7) Hiện nay, AIT được dùng bằng đường tiêm, viên ngậm dưới lưỡi, tiêm hạch bạch huyết, miếng dán ngoài da. Điều trị miễn dịch dưới da (subcutaneous immunotherapy treatment - SCIT) và điều trị miễn dịch dưới lưỡi (sublingual immunotherapy treatment - SLIT) là hai phương pháp phổ biến nhất thường được sử dụng. Khi được chỉ định áp dụng SCIT, bệnh nhân sau khi được tiêm dị nguyên cần được theo dõi tại cơ sở y tế có khả năng xử lý khi có sốc phản vệ.(8) Có thể nói, áp dụng AIT trong điều trị hen suyễn và viêm mũi dị ứng/viêm kết mạc dị ứng đã được các nhà khoa học ở nhiều quốc gia nghiên cứu. Trong mọi trường hợp, chỉ định của AIT đều phải cân nhắc dựa trên triệu chứng dị ứng, kèm theo kết quả cận lâm sàng chứng minh có sự tồn tại của các IgE đặc hiệu (specific IgE - sIgE) đối với loại dị nguyên tương ứng gây ra bệnh cảnh lâm sàng cho bệnh nhân. AIT được chỉ định dùng cho bệnh nhân hen suyễn, viêm mũi dị ứng/viêm kết mạc dị ứng có kèm hoặc không kèm hen suyễn, trong các trường hợp như: bệnh nhân có triệu chứng không được kiểm soát tốt bằng các phương pháp thông thường (thuốc, hạn chế tiếp xúc dị nguyên); bệnh nhân cần duy trì liều thuốc cao và/ hoặc phải kết hợp nhiều loại thuốc khác nhau để duy trì tình trạng ổn định; đa mẫn cảm với nhiều loại dị nguyên; viêm da cơ địa kèm dị ứng với dị nguyên không khí, bệnh nhân có phản ứng toàn thân với vết cắn của côn trùng kèm sIgE kháng lại dị nguyên của côn trùng, ví dụ với các loại ong... Còn các trường hợp chống chỉ định như: bệnh nhân có hen suyễn nặng hoặc không kiểm soát; bệnh nhân có bệnh lý tim mạch nặng kèm theo (bệnh mạch vành không kiểm soát, nhồi máu cơ tim mới, loạn nhịp, tăng huyết áp không kiểm soát...); bệnh nhân sử dụng thuốc b-blockers (chống chỉ định tuyệt đối khi thực hiện AIT cho dị ứng với dị nguyên không khí và chống chỉ định tương đối với dị ứng côn trùng) do nguy cơ làm tăng sốc phản vệ kháng trị. Ngoài ra, thuốc ức chế men chuyển đổi angiotensin cũng cần được cân nhắc để tạm ngưng đối với các bệnh nhân thực hiện AIT cho dị ứng côn trùng, hoặc dị ứng với đa dị nguyên. Trong một số trường hợp đặc biệt, AIT cần được cân nhắc cẩn trọng đối với trẻ nhỏ dưới 6 tuổi; người lớn tuổi, phụ nữ có thai, và bệnh nhân có bệnh ác tính, suy giảm miễn dịch hoặc tự miễn. (9) Những dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng cho thấy hiệu quả của AIT trong việc cải thiện chất lượng sống, chức năng phổi, giảm liều dùng corticosteroid, tần suất cơn kịch phát, số lần đo chức năng phổi. Tuy nhiên, hiệu quả cải thiện triệu chứng lâu dài (sau khi kết thúc phác đồ điều trị một năm) chỉ được chứng minh trong một số ít nghiên cứu như đã đề cập. Mặc dù tương đối an toàn, AIT vẫn có nguy cơ gây phản ứng phản vệ cho bệnh nhân, do đó nên cân nhắc đối với từng bệnh nhân, tùy theo độ nặng của triệu chứng, liều đang sử dụng để kiểm soát triệu chứng, tác dụng phụ do thuốc và theo mong muốn của bệnh nhân. AIT nên được thực hiện bởi các chuyên gia y tế (bác sĩ, điều dưỡng) đã được huấn luyện về dị ứng, tại các cơ sở y tế có trang thiết bị đầy đủ (đối với SCIT) và bệnh nhân đã được cung cấp đầy đủ thông tin về các tác dụng phụ (đối với SLIT). (10) Hiện nay, với tỷ lệ tăng dần của các bệnh lý hen suyễn, dị ứng tại Việt Nam, AIT sẽ là một phương pháp điều trị cần thiết và khả thi đối với bệnh nhân, nhằm duy trì chất lượng cuộc sống khỏe mạnh. Bên cạnh đó, chúng ta cần thực hiện khảo sát về tần suất dị nguyên, các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đánh giá hiệu quả, tác dụng phụ của AIT trên bệnh nhân ở Việt Nam. Bên cạnh đó, vì mỗi nước hay mỗi vùng có thời tiết, hệ sinh thái và thảm thực vật khác nhau nên nhiều dị nguyên và kháng nguyên mang tính chất vùng, miền khác nhau. Do đó, nên theo hướng nghiên cứu và xác định đặc điểm tính chất, đặc thù các kháng nguyên thường gây dị ứng, từ đó có các nghiên cứu sâu để sản xuất các kháng nguyên tinh sạch đủ chất lượng để sử dụng trong xét nghiệm cũng như trong trị liệu miễn dịch cho các bệnh nhân dị ứng. (Nguồn: “Trị liệu miễn dịch trong điều trị dị ứng”, Trịnh Hoàng Kim Tú, TS Lê Đức Dũng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)Văn bản đề cập đến phương thức trị liệu trong bệnh gì?
1. Tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học cơ bản đã thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết trong những tháng ngày của năm 2020 khi đại dịch Covid-19 đang hoành hành trên khắp thế giới. Nhờ có các nghiên cứu cơ bản, cụ thể là các nghiên cứu khám phá về virus, con người đã nhanh chóng xác định được các đặc trưng cơ bản cũng cách chúng phát triển, lây lan và tấn công cơ thể con người. Từ đó, các chính phủ, dựa trên các khuyến nghị từ các nhà khoa học, đã đưa ra các phương án kịp thời và hiệu quả để bảo vệ người dân như giãn cách xã hội hay đeo khẩu trang ở nơi công cộng.
2. Tuy nhiên, đó chỉ là các phương án tạm thời. Thế giới cần có biện pháp hiệu quả và bền vững hơn, và đó chính là vaccine. Các phương pháp chế tạo vaccine truyền thống cần một thời gian tương đối dài, cỡ 10 năm, và do đó không đáp ứng được nhu cầu cấp bách hiện nay. Rất may, các nghiên cứu khoa học đột phá về mRNA của nhà khoa học người Hungary, TS. Katalin Kariko, tiến hành vào năm 2005 khi bà làm việc tại Đại học Pennsylvania, đã trở thành chìa khoá để giúp các nhà nghiên cứu của Công ty BioNTech, có trụ sở tại thành phố Mainz, nước Đức tìm ra vaccine chỉ trong vòng một thời gian kỷ lục 10 tháng, thay vì 10 năm.
3. Trước khi Covid-19 nổ ra, các nghiên cứu của TS. Katalin Kariko từng bị hoài nghi. Có lẽ chính TS. Katalin Kariko cũng không thể nghĩ được rằng các nghiên cứu táo bạo của mình lại trở thành phép màu cho cả thế giới 15 năm sau. Như nhà khoa học đoạt giải Nobel về Sinh lý học và Y học năm 1993, Richard Roberts, đã từng nói “Vẻ đẹp của nghiên cứu khoa học thể hiện ở chỗ bạn không bao giờ biết được nó sẽ dẫn đến đâu”. Hay như nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý năm 2012, Serge Haroche, đã từng nói “Ngay cả những người thông minh nhất cũng không thể hình dung ra hết các hệ quả của nghiên cứu mà họ tiến hành”. Trong số hàng trăm nghiên cứu lớn nhỏ của TS. Katalin Kariko, chỉ cần một trong số chúng nhen nhóm hi vọng hồi sinh cho cả thế giới thì còn gì tuyệt vời hơn?
4. Từ câu chuyện về vaccine Covid-19, chúng ta thấy rằng cần phải có một tư duy hệ thống, sâu sắc và dài hạn cho nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản là các nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu bản chất và quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng tự nhiên. Các kết quả của nó mang tính nguyên bản. Động lực để phát triển nó đó chính là sự tò mò của con người. Mọi quá trình nóng vội mang tính thời vụ đều không phù hợp với các nghiên cứu cơ bản.
5. Khi Newton nghiên cứu và xây dựng nên lý thuyết hấp dẫn, mục tiêu của ông đó là giải thích được câu hỏi “tại sao quả táo rơi xuống đất thay vì bay lên trời?” Nhưng sau đó, chính ông và nhiều nhà khoa học khác thấy được lý thuyết hấp dẫn này còn giải thích và tiên đoán được vô số hiện tượng khác xảy ra trong tự nhiên và vũ trụ. Cơ học Newton đã thành nền tảng lý thuyết để các kỹ sư chế tạo nên máy móc, phương tiện giao thông, cầu đường, nhà cửa. Thiếu nó, mọi hoạt động con người sẽ không còn trơn tru và hiệu quả. Thiếu nó, bạn sẽ không có một chiếc xe Vinfast chạy nhanh và êm ái được.
6. Khi Planck đề xuất thuyết lượng tử, mục tiêu của ông đó là giải quyết vấn đề chưa có lời giải về phổ bức xạ của vật đen tuyệt đối. Và chắc chắn ông không thể hình dung lý thuyết của mình trở thành một trong hai trụ cột chính của Vật lý hiện đại. Nhờ có lý thuyết lượng tử mà con người ngày hôm nay có các máy tính cá nhân, các điện thoại thông minh, hay các tấm pin năng lượng mặt trời. Nhờ có thuyết lượng tử mà chúng ta có thời đại công nghiệp 4.0. Thiếu nó chúng ta không thể có các tập đoàn công nghệ lớn mạnh như Viettel.
7. Vào thời điểm này, đại dịch Covid-19 vẫn là câu chuyện đang rất nóng hổi. Chúng ta nên biết rằng nếu không có các nghiên cứu khám phá về cấu trúc DNA đầu tiên của Francis Crick, James Watson, và Rosalind Franklin cách đây 67 năm thì chúng ta ở sẽ không có vaccine Covid-19 nhanh như bây giờ. Chúng ta cần nhớ có rất nhiều loại virus khác nhau tồn tại trong tự nhiên. Hôm nay virus này đến từ con dơi, nhưng ngày mại virus khác có khi lại đến từ một con chim hót rất hay. Chúng ta cần phải chuẩn bị cho các đại dịch có thể xảy ra trong tương lai. Đầu tư cho khoa học cơ bản để duy trì một đội ngũ các nhà khoa học tài năng, am tường các tiến bộ khoa học – công nghệ của nhân loại là một cách chuẩn bị khôn ngoan nhất. Trong quá khứ, một dân tộc thiện chiến có thể thống lĩnh cả thế giới. Nhưng trong tương lai, một dân tộc tồn tại được dài lâu hay không phụ thuộc vào việc dân tộc đó uyên bác đến mức độ nào..
(Theo Đỗ Quốc Tuấn, Khoa học cơ bản: Giữa vẻ đẹp và tính hữu ích, Báo Khoa học & Phát triển, ngày 11/02/2021)
Nội dung chính của bài đọc trên là?