Danh sách câu hỏi

Có 7442 câu hỏi trên 149 trang
1. Đôi khi những sự việc tưởng chừng đơn giản nhất lại khó giải thích nhất. Cách những con chim giữ thăng bằng cơ thể khi ngủ trên cây là một trong những bí ẩn như vậy. 2. Thời gian ngủ của chim ngắn hơn con người rất nhiều. Chu kỳ ngủ của chúng khi so sánh với con người và các loài động vật có vú nhìn chung cũng ngắn hơn. Giấc ngủ REM (Rapid Eye Movement - giấc ngủ chuyển động mắt nhanh), một phần của chu kỳ ngủ khi cơ thể rơi vào trạng thái ngủ sâu nhất (và cả khi mơ), thường kéo dài vài phút ở động vật có vú, trong khi đó, chỉ tầm 10 giây ở loài chim. Giấc ngủ của chim, về cơ bản, là những lần chợp mắt trong vài khoảnh khắc. 3. Chim cũng có thể tự điều chỉnh cường độ ngủ. Chúng có thể giữ cho một bên là cầu não tỉnh táo ngay trong khi ngủ, khi đó, một bên mắt của chúng sẽ mở. Mắt chim liên kết bất đối xứng với bán cầu não, tức là, nếu mắt trái mở thì bán cầu não thức, và ngược lại. Kiểu ngủ nhẹ nhàng, linh hoạt này cho phép những con chim nhanh chóng trốn khỏi những kẻ săn mồi, ngay cả khi chúng đang say giấc. 4. Hơn nữa, không phải tất cả những con chim đều ngủ trên các cành cây. Ví dụ như đà điểu, loài chim lớn nhất hành tinh. Hầu hết các loài chim không biết bay đều ngủ trên mặt đất, ẩn giữa những tán lá, hoặc gần như "vùi đầu trong cát". Một số loài khác thì ngủ đứng một chân ở các vùng nước nông như loài hồng hạc. 5. Để đi vào giấc ngủ, cơ thể chim phải trải qua một loạt các thay đổi sinh lý. Mà trong số đó là thả lỏng cơ, xảy ra khi não giảm kiểm soát các chuyển động cơ, kèm theo một số thay đổi sinh lý khác. Đứng thăng bằng trên cây với các búi cơ thả lỏng không phải dễ dàng, những chú chim phải xoay sở bằng cách khóa chặt chân vào cành cây. 6. Ví dụ, khi một con chim hạ cong gối, móng của chúng cũng đồng thời tự động gập theo và bám chặt vào cành cây. Móng sẽ chỉ thả lỏng khi chân chúng duỗi thẳng. Cơ chế khóa chân được thực hiện nhờ vào các gân cơ gấp (flexor tendons – những mô kết nối cơ giúp chi uốn cong) ở chân chim. Khi khớp đùi trên (knee) và khớp ống chân (ankle) của chim gập vào, gân cơ gấp (flexor tendon) duỗi ra, từ đó làm móng gập lại Cơ chế khóa cũng xảy ra do lớp mô bao quanh gân cơ chân có bề mặt nhám gây ra ma sát giữa chân và vỏ cây giúp cố định chân vào một điểm. Đây gọi là “Cơ chế đậu tự động” – Automatic Perching Mechanism. Nóxuất hiện ở hầu hết các loài chim, cho phép chúng bám chặt vào cành cây vừa không mất sức lại vừa chắc chắn. 7. Không chỉ những giống chim có tư thế đậu thẳng, những loài ngủ treo như vẹt cũng được hưởng lợi không ít từ cơ chế này. Cơ chế khóa cũng hữu ích trong một số trường hợp khác. Ví dụ như những giống chim săn mồi, chúng có thể quặp chặt con mồi trong  khi bay. Một số loài chim cũng nhờ đó leo trèo, bơi, lội nước hay treo mình dễ dàng. 8. Đã có hàng chục nghiên cứu tìm thấy cơ chế đậu tự động ở nhiều loài chim khác nhau. Tuy nhiên, một nghiên cứu xuất bản năm 2012 cho thấy chim sáo châu Âu (European Starling) khi ngủ lại không sử dụng cơ chế này. Các nhà khoa học quan sát được rằng chim sáo chỉ hơi cong đầu gối, không đủ để kích hoạt cơ chế khóa. Kết quả là, các ngón chân của chúng hầu như không cong và con chim giữ thăng bằng ở trung tâm miếng đệm bàn chân khi nó ngủ. Phát hiện này cho thấy rằng có nhiều cách để chim giữ thăng bằng trên cây khi ngủ hơn là chỉ đơn giản gắng sức bám chặt vào cành cây. 9. Các nhà nghiên cứu gặp nhiều thách thức khi tìm hiểu giấc ngủ của các loài chim. Đầu tiên phải kể đến số lượng loài lớn và sự khác nhau về cơ chế, đặc điểm sinh lý học và hành vi giữa các loài. Chu kỳ giấc ngủ cũng khác biệt rất lớn. Việc so sánh cách ngủ của đà điểu, với chim sẻ hay hồng hạc không có nhiều ý nghĩa. Ngay cả khi xem xét đến cơ chế đậu tự động, hình dáng chân chim cũng là một vấn đề. Chân của chúng cần phải thích ứng cho nhiều mục đích khác nhau, vì vậy, cách chúng đi đứng, chuyển động chân cũng có thể sẽ khác nhau. (Theo Shirley, Tại sao chim không rời khỏi cành cây khi ngủ?, Báo VnReview ngày 29/12/2020) Diễn đạt nào dưới đây thể hiện rõ nhất ý chính của bài đọc trên?
1. Trong thời cổ đại, mọi người thường tin rằng sự sống không những chỉ phát sinh bằngcách sinh sản của cha mẹ, mà còn có thể được phát sinh từ vật chất không sống. Ví dụ, ếch dường như sinh ra từ đất ẩm, chuột từ dẻ bẩn, côn trùng từ sương và giòi từ thịt thối rữa. Nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng mặt trời và thậm chí cả ánh sao đã được đề cập đến như những yếu tố thúc đẩy cho sự hình thành của các sinh vật sống. Nội dung này còn được gọi là thuyết Tự sinh.2. Nhà dinh dưỡng thực vật người Bỉ Jean Baptiste van Helmont (1648) là một trong những người đầu tiên đưa ra công thức chế tạo chuột từ các vật vô sinh như sau: ...Ép một miếng đồ lót dính mồ hôi cùng với một ít lúa mì vào một cái lọ mở, sau khoảng 21 ngày, mùi thay đổi và lên men. . . . biến lúa mì thành chuột. . . không phải là chuột con, thậm chí không phải là chuột trưởng thành bị dị tật hoặc chuột bị sinh non, mà là chuột trưởng thành xuất hiện!3. Năm 1861, Louis Pasteur đã chứng minh các sinh vật sống không thể dễ dàng phát sinh một cách tự phát từ vật chất không sống. Trong các thí nghiệm của mình, Pasteur đã đưa vật liệu có thể lên men vào một bình có cổ dài hình chữ S để hở ra ngoài không khí, đoạn cong chữ S khi chứa nước sẽ ngăn cản sự xâm nhập của không khí từ bên ngoài vào trong bình. Bình ban đầu và các chất bên trong được đun sôi để tiêu diệt vi sinh vật, đồng thời hơi nước đọng lại ở điểm cong chữ S của cổ bình, sau đó để nguội. Dung dịch trong bình sau khi đun không thể lên men vì vi sinh vật mới không thể xâm nhập qua cổ của bình. Nhưng khi bỏ cổ hình chữ S, vi sinh vật trong không khí có thể xâm nhập vào dung dịch để sinh sôi và lên men. Do đó, Pasteur đã chỉ ra rằng sự sống đến từ các sinh vật đã tồn tại trước đóvà các yếu tố sinh sản của chúng, chẳng hạn như trứng và bào tử, hoặc trong trường hợp “công thức” của van Helmont thì những con chuột trưởng thành có được là do chúng tự chui vào trong lọ. Thông báo kết quả của mình cho Viện hàn lâm Pháp, Pasteur đã thẳng thắn bác bỏ tất cả lập luận của thuyết tự sinh từ vật vô sinh được đưa ra trước đó.4. Với thí nghiệm và lập luận sắc bén, Pasteur đã xuất sắc trong việc chứng minh việc sinh vật được sinh ra từ sinh vật, nhưng khoa học hiện đại đã chứng minh suy luận đó không hoàn toàn chính xác. “Sự sống” đầu tiên, nếu chúng ta có thể gọi nó như vậy, dường như đã được tổng hợp từ những va chạm ngẫu nhiên của các phân tử trong biển nguyên thủy của Trái đất sơ khai trong hàng triệu năm, cho đến khi, một cách ngẫu nhiên tạo ra phân tử có khả năng tự nhân đôi chính nó. Những đơn vị tự nhân đôi đầu tiên này, xuất hiện cách đây gần 4 tỷ năm, rất có thể là tổ tiên chung của con người và mọi sinh vật trên trái đất ngày nay. Nhưng không có nhà khoa học chứng kiến, làm sao chúng ta có thể biết rằng buổi bình minh của sự sống đã xảy ra theo cách đó? Bằng chứng để chứng minh được ẩn giấu trong các đại phân tử chất hữu cơ có trong tất cả các sinh vật — DNA, RNA, protein, lipid, hormone — có thể được truy ngược trở lại để xác định chất hóa học đơn giản hơn được hình thành trước chúng và từ đó xây dựng một cây phả hệ phân tử được hình thành trong tiến hóa. Thậm chí, ở mức độ cao hơn, các nhà vật lý thiên văn giờ đây có thể lần theo dấu vết của các “viên gạch” đầu tiên của sự sống — carbon, nitơ và oxy — ngược trở lại thời kì nó được sinh ra ngoạn mục từ sự phát nổ bên trong những ngôi sao cổ đại!Diễn đạt nào dưới đây thể hiện rõ nhất ý chính của bài đọc trên?
1. Khi nghĩ đến Siberia, điều gì xuất hiện trong tâm trí bạn? Một vùng đất phủ tuyết trắng dày đặc với những rừng cây lá thông. Nếu bạn hỏi những tổ tiên từng săn bắn, hái lượm của chúng ta - người Neanderthals - họ sẽ kể cho bạn về một Siberia hoàn toàn khác, với những đồng cỏ xanh mướt trải dài tận chân trời. Vùng đồng cỏ này được gọi là "thảo nguyên ma-mút". Tuy nhiên, sự biến mất của những loài ăn cỏ khổng lồ như voi ma-mút khỏi vùng thảo nguyên này đã góp phần vào sự hình thành nên lãnh nguyên Bắc cực băng tuyết mà chúng ta thấy ngày nay.2. Xuyên suốt Kỷ băng hà lớn nhất và gần đây nhất của Trái đất (kỳ Pleistocene), thảo nguyên ma-mút từng là hệ sinh thái rộng lớn nhất. Bạn có thể gọi nó là "Kỷ cỏ" cũng được! Khi ấy, thảo nguyên ma-mút là một vùng đồng bằng phủ cỏ xanh mướt, khô ráo, kéo dài từ vùng đảo Bắc cực đến Trung Quốc và từ Tây Ban Nha đến Canada. Hệ sinh thái đồng cổ được duy trì tốt này là nơi sinh sống của nhiều loài động vật như bò rừng, tuần lộc, voi ma-mút, sói, và hổ. Bạn có thể ví nó như phiên bản siêu lạnh của vùng thảo nguyên châu Phi.3. Hệ sinh thái thảo nguyên ma-mút chỉ phụ thuộc một phần vào khí hậu. Các loài động vật ăn cỏ duy trì thảm thực vật bằng cách dẫm đạp lên những cây bụi và rêu - về cơ bản, có thể xem chúng như những chiếc máy xén cỏ của tự nhiên vậy. Chúng còn là những người làm vườn hiệu quả khi góp phần phát tán hạt giống và làm giàu cho đất bằng những đống phân giàu dưỡng chất. Chính vì vậy, kể cả khi trải qua thời kỳ lạnh giá nhất của kỷ Băng hà, hệ sinh thái này vẫn duy trì được một lượng khổng lồ các loài ăn cỏ cỡ lớn.4. Ấy thế nhưng, sau 100.000 năm sống sót trước những thay đổi khốc liệt của khí hậu, thảo nguyên ma-mút và nhiều loài đặc trưng bỗng biến mất khỏi bề mặt Trái đất. Ngày nay, phía Bắc Siberia, Alaska và Yukon (Canada) là những nơi duy nhất có những đặc điểm gần với hệ sinh thái thảo nguyên này. Bởi những khu vực nói trên đã chống chịu lại được những biến đổi khí hậu đang diễn ra trên hành tinh của chúng ta, một số nhà nghiên cứu tin rằng thảo nguyên ma-mút hẳn cũng có thể tồn tại qua kỷ Pleistocene.5. Giả thuyết hàng đầu hiện nay là khi khí hậu trở nên ấm hơn vào cuối kỳ Danet cuối cùng, tức xấp xỉ 14.500 năm trước, loài người đã tiến xa hơn về phía Bắc. Được trang bị những ngọn giáo sắc lẻm, họ sớm leo lên đỉnh của chuỗi thức ăn.6. Những loài động vật ngây thơ không có khả năng phòng vệ trước loài săn mồi mới này. Không lâu sau, dân số loài ăn cỏ ở vùng thảo nguyên ma-mút nhanh đi, sụt giảm, nhiều loài thậm chí tuyệt chủng. Điều đó đã tạo nên hiệu ứng domino, mà đỉnh điểm là hình thành nên một hệ sinh thái hoàn toàn mới. Trước đây, nhớt, loài ăn cỏ khổng lồ thường xuyên dẫm đạp lên các loại thực vật bên dưới khi chúng chuyển. Khi không còn những con thú này nữa, cỏ ở thảo nguyên ma-mut cũng là khả năng cạnh tranh với những cây bụi mọc quanh năm, những đám rêu phat tu chậm, và những cây thông rụng lá của lãnh nguyên Bắc cực. Hàng triệu hecta đồng sinh trưởng mạnh với đất đai màu mỡ đã bị thay thế bằng thảm thực vật Sinh trường yếu, phát triển chậm. Những loài còn sót lại, như voi ma-mut và tê giác lông vận không thể thích ứng với thảm thực vật mới này và không thể sống sót qua những tri đông lạnh giá.7. Số lượng động vật hiện nay ở Bắc cực thấp hơn ít nhất 100 lần so với trước đi, bởi hệ sinh thái mới chỉ có thể nuôi sống một số lượng sinh vật giới hạn. Hơn thế nữa hiện tượng băng tan ở Bắc cực vì biến đổi khí hậu đang đẩy một lượng lớn carbon và bầu khí quyển. Các nhà khoa học tin rằng khôi phục lại hệ sinh thái đồng cỏ ở Bé cực có thể đảo ngược xu hướng này.8. Nhằm giải thích tầm quan trọng của việc khôi phục hệ sinh thái đồng cỏ, Giám đốc của Trạm khoa học Đông Bắc nước Nga, Sergei Zimov, đã thành lập Công viên Pleistocene ở phía Bắc Siberia. Ông dự định mang những vùng đồng cỏ trở lại bằng cách tái giới thiệu những loài ăn cỏ cỡ lớn vào các khu vực đã rào lại bên trong công viên theo một kế hoạch cụ thể.9. Hiện tại, công viên đang trải rộng hơn 20 km vuông và là nhà của 8 loài ăn cỏ chính: tuần lộc, nai sừng tấm, bò rừng, ngựa Yukutian, bò Kalmykian, bò xạ hương, bò Tây Tạng, và cừu. Với việc dự án đảo ngược tuyệt chủng đối với voi ma-mút lông rậm đang được tiến hành, Zimov hi vọng một ngày nào đó sẽ đưa được chúng vào công viên. Hiện không có loài họ hàng gần nào, hay phần thi thể đóng băng nào còn sót lại của các loài động vật đã tuyệt chủng khác từng sống trong khu vực này. Chính vì vậy, những động vật như hổ răng kiếm đã vĩnh viễn không còn cơ hội quay lại nữa.Ý nào sau đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
Không phải Amazon, Trái đất còn có một lá phổi lớn hơn trong lòng đại dương nhưng ít người biết đến1. Sống trên bề mặt đất, con người chúng ta thường nghĩ rằng rừng mưa nhiệt đới là những lá phổi xanh của hành tinh. Trong hàng trăm triệu năm, rừng nhiệt đới đã liên tục hấp thụ một lượng lớn khí carbon dioxide (CO2) từ bầu khí quyển và tạo ra oxy để hỗ trợ sự sống cho các loài động vật.Tuy nhiên, công bằng mà nói, hóa ra Trái đất còn đang thở bằng những lá phổi lớn hơn trong lòng đại dương, một hệ sinh thái mà ít người trong số chúng ta biết đến: Đó là những cánh đồng cỏ biển.2. Cỏ biển không phải rong biển, cũng không phải tảo hay san hô. Chúng là thực vật và từng sống trên cạn. Cỏ biển thuộc nhóm thực vật một lá mầm. Chúng có rễ, có lá, có hoa và thậm chí hoa vẫn thụ phấn được khi ở dưới nước.Loài thực vật này từng có tổ tiên chung với cỏ trên mặt đất, nhưng khoảng 100 triệu năm trước, những cây cỏ biển lại tìm đường lặn xuống và mọc dưới đáy đại dương. Ở đây, chúng vẫn giữ truyền thống quang hợp, trao đổi CO2và oxy như bình thường.3. Mỗi một mét vuông cỏ biển có thể tạo ra 10 lít khí oxy mỗi ngày thông qua quang hợp. Và chúng cũng hấp thụ carbon nhanh gấp 35 lần so với rừng mưa nhiệt đới. Hệ sinh thái cỏ biển nằm trong số những bể chứa carbon lớn nhất hành tinh. Dù chỉ chiếm 0,1% diện tích đáy biển, loài sinh vật này lại đang lưu trữ 11% carbon có trong lòng đại dương.Đến các nhà khoa học cũng phải bất ngờ trước năng suất hấp thụ carbon của cỏ biển4. Thế nhưng, điều gì đã giúp cỏ biển đánh bại rừng nhiệt đới trong nhiệm vụ thanh lọc CO2cho Trái đất? Hoá ra ẩn dưới những cánh đồng cỏ biển vẫn còn có một anh hùng ẩn giấu. Thiếu vắng sự hiện diện của loài sinh vật này, cỏ biển sẽ héo úa và mất đi gần như toàn bộ khả năng thu giữ carbon của chúng.Trong một nghiên cứu mới trên tạp chí Nature, các nhà khoa học đã phát hiện trong rễ của loài cỏ biển Neptune (Posidonia oceanica) có một loại vi khuẩn tên là Celerinatantimonas neptuna. Vi khuẩn này đã biến nitơ thành một chất dinh dưỡng mà cỏ biển biển cần để quang hợp.Quá trình đó được gọi là cố định nitơ hay cố định đạm. Vi khuẩn C. neptuna dường như đã đi theo cỏ biển trong quá trình chúng di cư từ mặt đất trở lại đại dương khoảng 100 triệu năm về trước. Và tình bạn mật thiết giữa hai loài sinh vật này hóa ra đã giúp Trái đất trở nên xanh hơn bao giờ hết.5. Trong chuyến di cư về lòng biểnChúng ta biết tất cả các loài thực vật trên cạn thực ra đã tiến hóa từ một nhóm tảo lục cách đây khoảng 450 triệu năm. Khi còn là tảo dưới biển, chúng không có rễ, không có hoa và lấy chất dinh dưỡng thông qua quá trình thẩm thấu nước chứ không phải từ rễ đâm sâu vào đáy biển.Lên khỏi bề mặt nước, các loài thực vật mới bắt đầu trang bị cho mình những bộ máy hấp thụ và trao đổi chất sinh sản đặc thù như rễ, thân, lá, hoa và hạt. Giống như tảo, thực vật cũng quang hợp nhưng chúng không sử dụng sắc tố phycobilin mà chỉ sử dụng diệp lục và carotenoid.6. Thực vật trên mặt đất rõ ràng là một hình thức tiến hóa hơn nhiều so với tảo dưới biển. Tảo có thể ở dạng đơn bào, dạng sợi và sống một đời sống trôi nổi trong lòng đại dương, nhưng thực vật thì không, chúng chắc chắn phải ở dạng đa bào, có cơ thể phức tạp và rễ bám cố định vào mặt đất.Nhưng vào khoảng 70-100 triệu năm trước, có một nhóm thực vật đang sống quanh các đầm lầy ngập mặn, bỗng nhiên lại muốn từ bỏ bầu không khí và di cư ngược trở lại lòng đại dương. Chúng chiếm lĩnh các khu vực nước nông để tiếp tục hứng lấy ánh sáng mặt trời và quang hợp.7. Dần dần, loài thực vật này đã lần mò được tới tận độ sâu 60 mét, sinh sôi nảy nở và phát triển thành hơn 60 loài thuộc 5 phân họ khác nhau. Chúng phủ kín những khu vực biển rộng lớn, có thể lên tới 4.500km vuông, tạo thành các cánh đồng dưới thềm của tất cả các lục địa ngoại trừ Nam Cực.Tới đây, không cần phải nhắc lại có lẽ bạn cũng biết chúng ta đang nói về cỏ biển và chuyến di cư đáng ngưỡng mộ của chúng. Nhưng điều chúng ta chưa nói đến là sự thành công trong việc xâm lấn lại đại dương của cỏ biển còn có công của một loài cộng sinh với chúng, vi khuẩn cố định đạm.8. Cỏ biển cần đạm, nhưng chúng lấy đạm từ đâu?Đạm hay các chất chứa nitơ là một thành phần thiết yếu cho mọi quá trình sống, của cả động vật cũng như thực vật. Trong cơ thể con người chúng ta, nitơ là các khối xây dựng lên DNA, protein và từng amino axit, nucleotide.Trong thực vật, nitơ là thành phần không thể thiếu để tạo nên diệp lục, hợp chất đang giúp chúng quang hợp, hút lấy CO2, cô lập carbon và nhả ra oxy. Thiếu nitơ hay thiếu đạm, các loài thực vật sẽ trở nên còi cọc, không thể trổ lá. Thiếu diệp lục khiến lá cây trở nên vàng úa và quá trình quang hợp sẽ bị ảnh hưởng.Điều này lẽ ra đã phải xảy đến với cỏ biển trong quá trình chúng đi từ mặt đất xuống đáy đại dương. Đó là bởi khác với tảo có thể lấy nitơ từ nước và tự chuyển đổi ni tơ thành ammonia hay nitrate để sử dụng, cỏ biển là hậu duệ của thực vật nên chúng bắt buộc phải lấy nitơ từ đất, thông qua quá trình cố định đạm mà vi khuẩn thực hiện.9. Ngay cả bầu khí quyển chứa đầy nitơ, nhưng thực vật cũng không thể hút khí đó để sống. Chúng cần các vi khuẩn chuyển đổi nitơ thành các dạng hợp chất mà rễ hút như ammonia hay nitrate để cây sử dụng được. Quá trình chuyển đổi này được gọi là cố định đạm. Nhưng tin buồn là ở dưới đáy biển lại không chứa nhiều các vi khuẩn cố định đạm hiệu quả như trên mặt đất.Điều này cho thấy phải có một cái gì đó khác đã chuyển đổi và cung cấp nitơ cho cỏ biển phát triển. Wiebke Mohr, một nhà sinh vật học đại dương đến từ Viện Max Planck ở Bremen, Đức đã rất tò mò với câu hỏi này.10. Trong một nghiên cứu của mình, ông và các đồng nghiệp đã thu thập cỏ biển Neptune (Posidonia oceanica) ở vùng Địa Trung Hải và các lớp trầm tích xung quanh nó. Sau khi mang chúng về phòng thí nghiệm, họ sẽ nhuộm các mẫu vật với các chất nhuộm màu khác nhau, làm nổi bật từng loài vi khuẩn có mặt.Kết quả cho thấy sự hiện diện của một chủng vi khuẩn hoàn toàn mới trong rễ của cỏ biển. Mohr và các đồng nghiệp của mình đã đặt tên cho vi khuẩn này là Celerinatantimonas neptuna và họ để ý C. neptuna thường xuất hiện rất nhiều trong rễ cỏ biển vào mùa hè, khoảng thời gian mà nitơ khan hiếm nhất. Có vẻ như đây chính là những vi khuẩn giúp cỏ biển cố định nitơ."Trước đây các nhà khoa học khác cho rằng cái gọi là nitơ cố định mà cỏ biển sử dụng đến từ các vi khuẩn sống xung quanh gốc rễ của chúng dưới đáy biển. Nhưng bây giờ, chúng tôi đã chứng minh được đây là một mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn nhiều: Vi khuẩn cố định đạm sống ngay bên trong rễ của cỏ biển chứ không phải phía bên ngoài và ở trong đất. Đây là lần đầu tiên một sự cộng sinh mật thiết như vậy được chứng minh ở cỏ biển", Mohr nói.11. Hai người bạn song hànhỞ trên cạn, chúng ta có các loài cây họ đậu cũng nuôi vi khuẩn cố định đạm ngay bên trong rễ của mình, nơi chúng tạo thành các nốt sần. Nhưng kiểu quan hệ cộng sinh này chưa từng được quan sát thấy ở bất kỳ loài thực vật biển nào.Bây giờ, Mohr và các đồng nghiệp của ông đã chứng minh được cỏ biển ở vùng Địa Trung Hải cũng mang một loại vi khuẩn cố định đạm là C. neptuna trong rễ của chúng. Nhưng vì họ hàng của loài vi khuẩn này xuất hiện ở mọi nơi trên thế giới, Mohr cho rằng các mối quan hệ cộng sinh tương tự cũng có thể xảy ra với các loài cỏ biển khác, ở những vùng biển khác.Vi khuẩn C. neptuna được lợi rất lớn từ quá trình cộng sinh với cỏ biển. Chúng cần năng lượng để hoạt động, bởi quá trình biến đổi nitơ thành amonia hay nitrit rất tốn năng lượng. Cỏ biển đã cung cấp một ngôi nhà, và cả các phân tử đường để nuôi sống loài vi khuẩn này.12. Đổi lại, C. neptuna sẽ cố định nitơ cho chúng. Sau khi có được nitơ từ rễ, cỏ biển sẽ nhanh chóng đưa nguyên tố này lên nuôi sống bộ lá của mình và tăng cường quang hợp. "Sự chuyển giao này diễn ra rất nhanh chóng, với khoảng 20% lượng nitơ cố định mới được đồng hóa vào sinh khối lá trong vòng 24 giờ", Mohr và các tác giả nghiên cứu mới cho biết.Hệ thống cộng sinh này đã hoạt động trơn tru trong hàng trăm triệu năm, và rõ ràng C. neptuna đóng một vai trò quyết định đến việc cỏ biển di cư từ mặt đất vào trong lòng đại dương. Nhưng nguồn gốc của vi khuẩn này đến từ đâu thì vẫn còn chưa rõ.Trong khi Mohr tìm thấy các bằng chứng về mặt di truyền cho thấy tổ tiên của C. neptuna từng cộng sinh với rong biển – một loài không có rễ, ông cũng tìm thấy các họ hàng gần nhất còn sống của vi khuẩn này đang cộng sinh với cỏ đầm lầy mặn.Do đó có hai giả thuyết, một là C. neptuna đã bỏ rong biển để đi theo cỏ biển. Hoặc là tình bạn này đã hình thành sớm hơn, khi cỏ biển còn ở trên đầm lầy ngập mặn, chúng đã kết thân với C. neptuna và sau đó mang theo người bạn của mình xuống lòng đại dương.Tại sao chúng ta cần bảo vệ tình bạn và hệ sinh thái này?13. Bất chấp cỏ biển đã có được sự giúp đỡ của C. neptuna như thế nào và từ bao giờ, sự kết hợp của chúng ngày nay  không chỉ viết nên một câu chuyện thành công cho bản thân tình bạn ấy, mà còn cho cả một hệ sinh thái trong lòng đại dương và trên bề mặt đất.Thảm cỏ biển là nơi trú ẩn và là nguồn thức ăn phong phú của nhiều loài sinh vật biển. Những tán lá cỏ biển là nơi ẩn náu, ấp ủ và sinh sống của các sinh vật không xương sống nhỏ như tôm, cua, các loài cá nhỏ, cá chưa trưởng thành và cả cá lớn hơn.14. Cỏ biển cũng chính là thức ăn của nhiều loài sinh vật biển, trong đó có các loài sắp tuyệt chủng như lợn biển, rùa xanh, rắn biển. Mỗi ngày, một con lợn biển trưởng thành có thể tiêu thụ khoảng từ 28 đến 40 kg cỏ biển, một con rùa biển trưởng thành tiêu thụ khoảng 2 kg.  Nếu cỏ biển biến mất, những con vật này sẽ không có gì để ăn.Không chỉ có vai trò quan trọng với đại dương, cỏ biển còn là một bể chứa CO2 khổng lồ cho khí quyển. Cũng giống như thực vật trên cạn, cỏ biển hấp thụ CO2 từ không khí và thải oxy trong quá trình sống của chúng.Khi cỏ biển chết và phân hủy dưới đáy biển, CO2 đã hấp thụ trước đó sẽ bị chôn vùi trong lớp trầm tích của đại dương. Hiện quần thể cỏ biển đang giúp chúng ta lưu trữ khoảng 27,4 triệu tấn CO2 trong khoảng 600.000 km2 thềm lục địa.Một điều đáng tiếc là chúng ta đang phá hủy các đồng cỏ biển với tốc độ thậm chí còn nhanh hơn các khu rừng mưa nhiệt đới. Theo thống kê, 18% diện tích cỏ biển trên toàn thế giới đã biến mất chỉ trong vài thập kỷ qua. Con số tương đương với diện tích trên 30.000 km vuông.(Nguồn: khoahoc.tv)Ý nào dưới đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
Hé lộ những phát hiện bất ngờ liên quan đến Mặt Trời 1. Lần đầu tiên, các nhà khoa học sẽ có được cái nhìn sâu hơn về gió Mặt trời và các cơn bão từ có thể tác động tiêu cực đến các vệ tinh và thiết bị điện tử trên Trái Đất, sau khi tàu thăm dò Parker Solar của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) tiếp cận gần hơn với bề mặt Mặt Trời và gửi về những dữ liệu liên quan đến quầng Mặt Trời, một vùng siêu nóng trong khí quyển. 2. Theo nghiên cứu được công bố ngày 4/12 trên tạp chí Nature, tàu vũ trụ Parker Solar - có kích cỡ bằng một chiếc ô tô và được phóng lên vũ trụ vào tháng 8/2018 - đã thực hiện được hành trình tiếp cận Mặt Trời ở khoảng cách gần nhất từ trước tới nay và sẽ thử tiến đến điểm chỉ cách bề mặt Mặt trời 6 triệu km trong các lần bay thử nghiệm được tiến hành trong 7 năm tới. Những dữ liệu mà tàu Parker Solar gửi về sẽ cung cấp những chi tiết mới về gió Mặt Trời, các cơn bão từ và cách thức Mặt Trời tạo nên thời tiết trong vũ trụ. 3. Tuy nhiên, mối quan ngại chính hiện nay liên quan đến các cuộc thăm dò là sức nóng lên tới 1 triệu độ C ở quầng Mặt Trời, cao gấp nhiều lần nhiệt độ trên chính bề mặt Mặt Trời vốn chỉ ở mức 6.000 độ C. Vì thế, theo nhà khoa học Alexis Rouillard của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS) và là đồng tác giả của một trong 4 bản báo cáo liên quan đến những phát hiện đầu tiên của tàu thăm dò Parker Solar, các nhà nghiên cứu sẽ phải tìm hiểu cách thức tại sao quầng Mặt Trời lại có thể tự nóng lên, thay vì phải nguội đi theo nguyên lý thông thường (càng xa nguồn nhiệt thì nhiệt độ càng giảm). 4. Cùng chia sẻ quan điểm này, Giáo sư chuyên ngành khoa học vũ trụ, khí hậu và kỹ sư Justin Kasper cũng cho biết, ngay khi tàu Parker Solar mới tiếp cận những quỹ đạo vòng ngoài của Mặt Trời, nhóm nghiên cứu đã bị sốc về sự biến đổi nhiệt độ của quầng Mặt trời. Một nghiên cứu của Đại học Michigan trước đây cho rằng những dao động trong từ trường của Mặt Trời có thể là nhân tố giúp quầng Mặt trời nóng lên. Tuy nhiên, các dữ liệu mới cho thấy các sóng từ trường trên thực tế mạnh hơn rất nhiều, mạnh tới mức chúng có thể đổi hướng hoàn toàn của từ trường và tạo ra năng lượng cho quầng Mặt Trời. 5. Cũng trong nghiên cứu mới của tàu Parker Solar, các nhà khoa học đã vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra nguyên lý tăng tốc của gió Mặt Trời và quỹ đạo của proton, electron và các hạt khác được phát ra từ Mặt Trời. 6. Trước đây khoa học từng cho rằng khi càng tới gần, từ trường của Mặt Trời sẽ hút gió theo cùng hướng mà nó di chuyển và hiệu ứng này sẽ yếu dần khi càng ra xa. Tuy nhiên, khi tàu thăm dò Parker Solar tới được gần Mặt Trời hơn, họ đã phát hiện ra những vòng quay lớn gấp 10-20 lần so với các mô hình mà họ dự đoán. Phát hiện mới này đã thay đổi hoàn toàn những giả thiết từ trước đến nay về cách thức gió Mặt Trời được tạo nên như thế nào. Hiểu rõ hơn về điều này sẽ giúp các nhà khoa học đưa ra dự đoán chuẩn xác hơn về thời tiết trong vũ trụ, nhất là trong việc xác định quầng Mặt Trời sẽ tác động đến Trái Đất như thế nào và chuẩn bị cho các chuyến du hành của con người lên Mặt Trăng và sao Hỏa. 7. Năm 1859, "một sự kiện thời tiết vũ trụ" đã làm tê liệt mạng lưới điện báo trên Trái Đất. Theo Giáo sư Vật lý Stuart Bale của Đại học California Berkeley, khi xã hội ngày càng phụ thuộc vào công nghệ tiên tiên, tác động từ Mặt Trời có thể sẽ trở nên rất nghiêm trọng. Nếu như có thể kịp thời dự báo thời tiết vũ trụ, con người có thể đóng sập hoàn toàn hoặc cô lập một phần lưới điện, hoặc tắt hệ thống vệ tinh có nguy cơ dễ bị tổn thương. 8. Trái Đất cách Mặt Trời 150 triệu km và tàu thăm dò Parker Solar đã tới được điểm chỉ còn cách Mặt Trời 24 triệu km để thu thập dữ liệu phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Mục tiêu cuối cùng là con tàu có thể tiếp cận tới điểm chỉ cách bề mặt Mặt Trời 6 triệu km, gần hơn 7 lần so với bất kỳ tàu vũ trụ nào trước đây. Tàu Parker Solar chịu được sức nóng khắc nghiệt khi bay xuyên qua quầng Mặt Trời, khu vực ngoài cùng và cũng là nơi tạo ra gió Mặt Trời từ sự kết hợp của các hạt điện tích vô cùng nóng phát ra từ Mặt Trời. Tàu thăm dò Parker Solar được đặt theo tên của nhà vật lý thiên văn người Mỹ chuyên nghiên cứu về Mặt Trời Eugene Parker, người đầu tiên đưa ra giả thuyết về gió Mặt Trời khi miêu tả đây là hệ thống từ trường, các hạt năng lượng và thể plasma tạo thành. (Nguồn: vtv.vn) Diễn đạt nào dưới đây thể hiện rõ nhất ý chính của bài đọc trên?