Danh sách câu hỏi

Có 7442 câu hỏi trên 149 trang
Những tiến bộ trong nghiên cứu vắc-xin và thuốc điều trị để chống lại căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS (1) Tháng  7/2017,  Hội  nghị  khoa  học  toàn  cầu  về  HIV/AIDS  (IAS  2017)  đã  diễn  ra tại Paris, Pháp với 1.700 bài  báo khoa học được trình bày. Các  nghiên  cứu  đã  chỉ  ra  các  cách  tiếp cận và công cụ mới để tăng  cường  kiểm  soát  HIV  trên  toàn  cầu. (2) Bà  Linda-Gail  Bekker,  Chủ  tịch  Hiệp  hội  quốc  tế  về  AIDS  (IAS)  và  là  Chủ  tịch  Hội  đồng  khoa học quốc tế của IAS 2017  cho biết: “Mỗi nghiên cứu đang  tập trung hiện nay đều đưa chúng  ta đến một bước gần hơn với sự  kết thúc của HIV. Nghiên cứu bao  gồm nhiều hướng khác nhau như  vắc-xin, các phương pháp điều trị  mới. Bằng chứng thực tế cho thấy,  những nỗ lực hiện tại của chúng  ta để mở rộng các thử nghiệm và  điều trị đang được đánh giá cao”.   (3) Hướng  sản  xuất  vắc-xin  HIV  đã mang lại nhiều hứa hẹn mới:  Đó  là  kết  quả  từ  nghiên  cứu  APPROACH,  một  nghiên  cứu  pha  1/2a  đánh  giá  7  loại  vắc- xin phòng ngừa HIV khác nhau  (vắc-xin tái tổ hợp dựa trên gen  đặc trưng của virus HIV). Nghiên  cứu APPROACH được thực hiện  trên  393  người  lớn  có  nguy  cơ  nhiễm HIV thấp ở Mỹ, Rwanda,  Uganda, Nam Phi và Thái Lan.  Loại vắc-xin này bao gồm hai gen  đầu tiên với Ad26.Mos.HIV và hai  tái tổ hợp với  Ad26.Mos.HIV và  Clade  C  gp140  được  bổ  sung  thêm nhôm đáp ứng được miễn  dịch mạnh nhất. Loại vắc-xin này  đã được chứng minh là bảo vệ tốt  nhất cho loài linh trưởng. (4) Tiến bộ trong nghiên cứu thuốc  điều  trị  HIV  dạng  tiêm  có  thời  gian tác dụng kéo dài, đó chính  là LATTE-2. Đây là một nghiên  cứu mở giai đoạn II b, dùng phối  hợp hai thuốc cabotegravir (chất  ức  chế  integrase)  và  rilpivirine  (NNRTI - ức chế men sao chép  ngược non-nucleotide thế hệ thứ  hai) như là một liệu pháp duy trì  cho những người đã điều trị ARV  (ARV là thuốc điều trị dùng cho  những người bị HIV, có tác dụng  làm giảm sự phát triển của virus  HIV và làm chậm giai đoạn HIV  sang AIDS) có tải lượng virus HIV  dưới  ngưỡng  phát  hiện.  Nghiên  cứu  cho  thấy,  liệu  trình  điều  trị  bằng thuốc tiêm, có tác dụng kéo  dài sẽ thuận tiện hoặc ít bị kỳ thị  hơn so với thuốc uống hàng ngày,  điều này có thể giúp cải thiện tỷ  lệ tuân thủ điều trị ở người nhiễm  HIV. (5) Giáo  sư  Joseph  Eron  thuộc  Đại học North Carolina (Chapel  Hill,  Mỹ)  đã  trình  bày  kết  quả  nghiên cứu về LATTE-2 được thử  nghiệm  trong  96  tuần.  Nghiên cứu cho thấy, thuốc có tác dụng kéo dài trên những bệnh nhân sử dụng thuốc. Trong đó dạng tiêm  dung nạp tốt và đạt được tỷ lệ đáp  ứng  virus  dưới  ngưỡng  ức  chế  cao, bất kể tiêm với tần suất bốn  tuần một lần hoặc tám tuần một  lần. Liệu trình liều lượng bốn tuần hiện đang được đánh giá  trong  các nghiên cứu giai đoạn III. (6) Có thể thấy, với những kết quả  nghiên cứu trong sản xuất vắc-xin  và thuốc điều trị HIV dạng tiêm  cùng các chiến lược tốt hơn để  chống lại các bệnh nhiễm trùng  cơ  hội  sẽ  mang  lại  những  hiệu  quả  nhất  định  trong  việc  kiểm  soát căn bệnh này trong thời gian  tới. (Nguồn: “Những tiến bộ trong nghiên cứu vắc-xin và thuốc điều trị để chống lại căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS”, Nguyễn Văn Kính, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 1, năm 2018) Nội dung chính được văn bản đề cập là gì?
Thí sinh đọc bài đọc và trả lời các câu hỏi dưới đây:Triển vọng sử dụng thuốc kháng CDK4/6 trong điều trị ung thư vú(1) Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhiều hướng điều trị mới đã được nghiên cứu áp dụng cho bệnh nhân ung thư vú dương tính với thụ thể nội tiết. Một trong số đó là các nghiên cứu nhằm tác động lên đường dẫn truyền tín hiệu tế bào Cyclin-CDK, tiêu biểu cho cơ chế này là nhóm thuốc ức chế CDK4/6 - nhóm thuốc mới nhất trong điều trị bệnh nhân ung thư vú giai đoạn tiến xa.(2) Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Ung thư vú là dạng u vú ác tính, đa số các trường hợp bị ung thư vú thường bắt đầu từ các ống dẫn sữa, một phần nhỏ phát triển ở túi sữa hoặc các tiểu thùy. Ung thư vú nếu phát hiện và điều trị muộn có thể sẽ di căn vào xương và các bộ phận khác. Trong đó, thể ung thư vú thụ thể nội tiết dương tính chiếm tới 70-75% số ca. Điều trị nội tiết (tamoxifen, fulvestrant và các thuốc ức chế aromatase) là lựa chọn hàng đầu cho nhóm bệnh nhân này. Tuy nhiên, ở giai đoạn ung thư tiến triển xa, tỷ lệ bệnh nhân không đáp ứng với thuốc điều trị nội tiết có thể lên tới 50%. Do vậy, việc quan trọng là phải phát hiện sớm ung thư vú thông qua quá trình tầm soát tế bào ở những phụ nữ bình thường, điều này giúp cải thiện đáng kể quá trình chẩn đoán và điều trị bệnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy, ung thư vú đang ngày càng có những diễn biến theo chiều hướng gia tăng, với ước tính số ca mắc mới trong năm 2020 lên tới hơn 276.000 ca [1, 2]. Đây là một căn bệnh hết sức phức tạp, luôn nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều quốc gia nhằm tìm cách phòng chống và điều trị.(3) Chu kỳ tế bào là một quá trình được kiểm soát chặt chẽ và được chia ra làm 4 pha: G1, S (tổng hợp DNA), G2, và M (nguyên phân). Giai đoạn chuyển từ pha G1 tới pha S là bước quan trọng trong quá trình nhân lên của tế bào và được điều hòa bởi đường dẫn truyền tín hiệu tế bào Cyclin-CDK [viết tắt từ “cylcin-dependent kinase (CDK) 4/6-INK4-retinoblastoma.(4) Cyclin D là một protein điều hòa có vai trò hoạt hóa CDK. Khi có tín hiệu ngoại bào (ví dụ như các nhân tố tăng trưởng), Cyclin D sẽ kết hợp với CDK4 và CDK6 để hoạt hóa các enzyme này. CDK4/6 được hoạt hóa sẽ kích hoạt Rb và E2F. E2F thúc đẩy tế bào chuyển từ pha G1 sang pha S. Sự hoạt hoá E2F quá mức có thể thúc đẩy quá trình phân chia tế bào nhanh chóng và không chọn lọc, là một yếu tố nguy cơ phát triển khối u. Nhóm thuốc kháng CDK4/6 có vai trò ức chế phức hợp CyclinD- CDK4/6, qua đó ức chế hoạt hóa E2F, dẫn tới ức chế chu trình nhân lên của tế bào tại pha G1 và có tác dụng ngăn cản sự phát triển của khối u. Rối loạn trục Cyclin/CDK/E2F xảy ra ở 50-70% các trường hợp ung thư vú. Sự bộc lộ quá mức Cyclin D1 cũng được nhận thấy ở 50-60% bệnh nhân ung thư vú và 50% bệnh nhân thiếu hụt gene ức chế CDK4/6.(5) Nghiên cứu cho thấy, các thuốc kháng CDK4/6 thế hệ đầu tiên (như flavopiridol) không cho kết quả như mong đợi do khả năng chọn lọc kém, dẫn tới nguy cơ về tác dụng phụ. Flavopriridol trong các thử nghiệm cũng cho thấy hiệu quả khiêm tốn dưới dạng đơn chất và không mang lại hiệu quả khi phối hợp hóa trị.(6) Thế hệ thứ 2 của nhóm thuốc này, dù tính chọn lọc cao hơn nhưng lại có nhiều nguy cơ về biến cố bất lợi nghiêm trọng. Dinaciclib được xác nhận có liên quan lần lượt từ 60 và 70% tác dụng phụ nghiêm trọng trong các thử nghiệm lâm sàng pha I và pha II.(7) Phải đến thế hệ thứ 3, thuốc kháng CDK4/6 mới được chấp thuận trong điều trị ung thư vú tiến triển trên bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính và HER2 âm tính. Một ưu điểm của thế hệ này là các thuốc đã được sử dụng ở dạng uống. Ba hoạt chất được chấp thuận gồm: palbociclib (PD0332991, Pfizer, Inc.), ribociclib (LEE011, Novartis International AG) và abemaciclib (LY2835219, Eli Lilly and Company).(8) Các nghiên cứu cho thấy hiệu quả và an toàn của palbociclib bao gồm các thử nghiệm PALOMA-1, PALOMA-2 và PALOMA-3.(9) Thử  nghiệm  PALOMA-1  là  thử nghiệm pha II gồm 165 bệnh nhân, so sánh palbociclib kết hợp letrozole so với letrozole đơn độc ở bệnh nhân bị ung thư vú giai đoạn tiến xa (dương tính thụ thể nội tiết và âm tính với protein HER2), hậu mãn kinh chưa được điều trị trước đó. Thời gian sống của bệnh nhân không nặng hơn mức trung bình là 20,2 tháng (13,8-27,5) đối với nhóm palbociclib kết hợp letrozole và 10,2 tháng (5,7-12,6) đối với nhóm letrozole. Kết quả mang tính bước ngoặt này đã dẫn đến việc Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) nhanh chóng phê duyệt palbociclib kết hợp letrozole trong bệnh ung thư vú giai đoạn tiến xa ở bệnh nhân hậu mãn kinh.(10) Sau khi PALOMA-1 thành công với phác đồ palbociclib và letrozole, thử nghiệm pha III gồm 666 bệnh nhân là PALOMA-2 được phát triển để xác nhận lại lợi ích của việc kết hợp thuốc này so với letrozole đơn độc trên bệnh nhân ung thư  vú giai đoạn tiến xa chưa được điều trị trước đó. Trong thử nghiệm này, palbociclib + letrozole đạt được tiêu chí chính là cải thiện thời gian sống, bệnh không nặng hơn so với letrozole + giả dược (trung bình lần lượt là 24,8 so với 14,5 tháng, p
1. Việt Nam có nhiều dược chất tự nhiên hoạt tính kháng ung thư cao, nhưng hầu hết không tan tốt trong nước (là môi trường chính trong cơ thể). Điều này hạn chế khả năng ứng dụng các dược chất tự nhiên trong chữa trị lâm sàng bệnh nhân ung thư. 2. Nhận thấy hạn chế này, trong thời gian nghiên cứu sau tiến sĩ tại Đại học UCLA (Mỹ) từ năm 2017, TS. Đoàn Lê Hoàng Tân (34 tuổi) đã tìm hiểu ứng dụng vật liệu nano trong y sinh. Đầu năm 2019, anh về nước và xây dựng nhóm nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu vật liệu cấu trúc nano và phân tử (INOMAR), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, chế tạo hạt nano xốp phân hủy sinh học, làm chất mang và dẫn truyền chất kháng ung thư đến khối u một cách chính xác và có kiểm soát, hạn chế hoàn toàn tác dụng phụ và tăng hiệu quả dược chất. 3. Theo TS Tân, nhóm nghiên cứu chọn hạt nano làm chất mang thuốc bởi kích thước hạt (50-400 nanomet) có thể tải được lượng chất lớn, tính tương thích sinh học cao. Cụ thể, hạt nano nhắm vào các mô bị bệnh (khối u) bằng cách kết hợp kháng nguyên mục tiêu và có thể chứa nhiều tác nhân dược chất. "Trong khi các phương pháp thông thường không thể thực hiện được điều này", TS Tân nói. 4. Loại nano silica hữu cơ do nhóm nghiên cứu có đường kính trong khoảng 50-300 nanomet. Kích thước siêu nhỏ này giúp phân tán và di chuyển dễ dàng trong môi trường cơ thể. Vật liệu chứa hàng nghìn lỗ xốp tải được lượng lớn dược chất có kích thước phân tử và độ tan trong nước khác nhau. 5. Để các hạt nano có thể mang dược chất đến chính xác mục tiêu tế bào ung thư ở khối u và ức chế chúng, TS Tân và cộng sự phải tối ưu kích thước hạt sao cho phù hợp với từng loại tế bào ung thư, đặc biệt nghiên cứu kích thước lỗ xốp cho từng loại dược chất cụ thể. 6. Lỗ xốp có chức năng lưu trữ thuốc chống ung thư (như doxorubicin, camptotlecin và taxol), sau đó di chuyển chính xác đến các khối u và dẫn truyền thuốc để ức chế sự phát triển của chúng. Kích thước lỗ xốp có thể được điều khiển trong quá trình tổng hợp dược chất. Một số chất kém bền trong môi trường cơ thể được hạt nano bảo vệ trong lỗ xốp, tránh bị phân hủy trước khi đến khối u. 7. Ưu điểm nổi trội của các hạt nano do nhóm chế tạo là khả năng phân huỷ sinh học để giảm sự tích tụ ở nồng độ cao. Các hạt nano sau khi hoàn thành quá trình vận chuyển thuốc có thể tự phân huỷ và giảm kích thước còn vài nanomet để dễ dàng đào thải qua thận. Đây là đặc tính quan trọng của thế hệ mang chất mới khi hạn chế khả năng tích tụ sinh học của chất mang thuốc trong cơ thể. 8. Để đánh giá khả năng của các hạt nano, TS Tân và cộng sự phối hợp với nhóm - chuyên gia nước ngoài (Mỹ) để sử dụng mô hình khối u trứng gà, được tạo ra bằng cách cấy các tế bào ung thư vào màng ối (chorioallantoic membrane) bao quanh phôi bên trong trứng gà đã thụ tinh. TS Tân cho biết, mô hình này có giá thành thấp hơn nhiều so với mô hình trên chuột nhưng lại cho ra kết quả thí nghiệm nhanh chóng. 9. Do hệ thống miễn dịch chưa phát triển và sự hiện diện của một cấu trúc có mạch - máu cao, khối u được hình thành chỉ trong vòng ba ngày, chứa các mạch máu, tế bào ngoại bào và hình khối giống khối u ở người. Kết quả cho thấy vật liệu nano dẫn truyền các dược chất kháng ung thư (nguồn gốc tổng hợp và thiên nhiên) đến đúng mục tiêu khối u, giải phóng có kiểm soát, không gây tác dụng phụ. 10. Nhờ khả năng dẫn truyền và giải phóng dược chất trúng đích đến khối u và tự phân hủy sau khi hoàn thành nhiệm vụ, các hạt nano giúp tăng hiệu quả điều trị của dược chất, giảm chi phí điều trị ung thư và hạn chế hoàn toàn các tác dụng phụ trong quá trình chữa bệnh bằng phương pháp hóa trị và xạ trị. 11. TS Tân cho biết, nhóm đang trong quá trình phối hợp với chuyên gia trong nước và Nhật Bản để ứng dụng hệ chất mang nano trong điều trị lâm sàng và phát triển - nền tảng hệ vật liệu nano phân hủy sinh học mang dược chất kháng ung thư nguồn gốc nhân tạo và thiên nhiên. (Theo Nguyễn Xuân, Tạo vật liệu lưu dược chất kháng ung thư trong cơ thể, Báo VnExpress, ngày 2/2/2021) Nội dung chính của bài đọc trên là?
Tiêm trộn lẫn vắc xin covid-19 có an toàn? (1) Đại dịch Covid-19 vẫn đang hoành hành, gây ra cái chết của hàng triệu người trên khắp thế giới. Tình trạng nguồn cung vắc xin khan hiếm dẫn đến việc thiếu hụt ở nhiều quốc gia; tác dụng phụ hiếm gặp của một số loại vắc xin khiến cho không ít người lo lắng nếu tiếp tục tiêm liều thứ 2 cùng loại; sự xuất hiện các biến chủng mới... Tất cả những lý do này khiến cho ý tưởng tiêm trộn lẫn các loại vắc xin Covid-19 ngày càng được nhiều nước quan tâm. (2) Ngày càng nhiều quốc gia đang xem xét việc sử dụng các loại vắc xin Covid-19 khác nhau để tiêm liều thứ hai hoặc tiêm nhắc lại trong bối cảnh nguồn cung bị chậm trễ và lo ngại về an toàn đã làm chậm các chiến dịch tiêm chủng của họ. Theo cập nhật của Hãng tin Reuter, nhiều quốc gia đang cân nhắc hoặc đã quyết định áp dụng giải pháp này, cụ thể như: - Bahrain: ngày 4/6/2021 nước này thông báo các công dân đủ điều kiện có thể nhận được 1 mũi tiêm nhắc lại Pfizer của BioNTech, hoặc vắc xin của Tập đoàn Dược phẩm quốc gia Trung Quốc (Sinopharm), bất kể họ đã tiêm mũi nào ban đầu. - Canada: ngày 17/6/2021, Ủy ban Tư vấn quốc gia về tiêm chủng đã khuyến nghị những người nhận liều vắc xin đầu tiên của AstraZeneca sử dụng một loại vắc xin khác cho liều thứ hai của họ. - Ý: ngày 14/6/2021, Cơ quan y tế của Ý cho biết những người dưới 60 tuổi được tiêm liều đầu tiên của Astra Zeneca có thể nhận được mũi tiêm thứ hai từ loại vắc xin khác. - Đức: ngày 22/6/2021 phát ngôn viên của Thủ tướng Angela Merkel cho biết bà Merkel đã được tiêm vaccine Moderna sau khi tiêm mũi đầu tiên là AstraZeneca. Đức đã chính thức khuyến cáo người dân chọn sử dụng vắc xin Pfizer hoặc Moderna cho liều thứ hai sau khi tiêm AstraZeneca. - Hàn Quốc: ngày 18/6/2021 nước này cho biết, khoảng 000 người đã được tiêm liều đầu tiên của AstraZeneca sẽ được tiêm mũi thứ hai của Pfizer do chương trình chia sẻ vắc xin toàn cầu COVAX bị chậm trễ. - Tây Ban Nha: Bộ trưởng Bộ Y tế Carolina Darias ngày 19/5/2021 khẳng định, nước này sẽ cho phép những người dưới 60 tuổi đã được tiêm mũi AstraZeneca sẽ được tiêm liều thứ hai của vắc xin AstraZeneca hoặc - Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất đã cung cấp vắc-xin Pfizer như một mũi tiêm tăng cường cho những người được chủng ngừa ban đầu bằng vắc-xin do Sinopharm phát triển. - Vương quốc Anh: ngày 21/5/2021, nhà sản xuất vắc xin Novavax (NVAX.O) tuyên bố họ sẽ tham gia vào một cuộc thử nghiệm kết hợp vắc xin bắt đầu từ tháng 6 để kiểm tra việc sử dụng một liều vắc xin bổ sung từ một nhà sản xuất khác làm liều tăng cường. - Hoa Kỳ: ngày 1/6/2021, Viện Y tế quốc gia Hoa Kỳ (NIH) thông báo họ đã bắt đầu thử nghiệm lâm sàng trên những người trưởng thành được tiêm chủng đầy đủ để đánh giá tính an toàn và khả năng sinh miễn dịch của việc tiêm nhắc lại một loại vắc xin khác. (3) Trên khắp thế giới, các nghiên cứu đang được tiến hành trên động vật và người để điều tra mức độ an toàn, các loại phản ứng miễn dịch được tạo ra và thời gian miễn dịch kéo dài khi một người nhận hai loại vắc xin Covid-19 khác nhau. (4) Theo công bố hôm 18/5/2021 tại Tây Ban Nha, một kết quả thử nghiệm trên 600 người đã chỉ ra rằng, việc tiêm phòng vắc xin AstraZeneca ở liều thứ nhất và vắc xin Pfizer dựa trên mRNA ở liều thứ 2 sẽ kích hoạt phản ứng miễn dịch mạnh mẽ chống lại vi rút SARS-CoV-2. Tại Đức, một nghiên cứu cho thấy, việc tiêm vắc xin AstraZeneca trước, sau đó là vắc xin Pfizer giúp tạo ra nhiều kháng thể hơn, có khả năng chống lại các biến thể đáng lo ngại so với việc tiêm hai liều cùng của AstraZeneca. Tại Anh, Đại học Oxford đã thực hiện nghiên cứu mang tên Com-CoV2 nhằm xác định mức độ an toàn và hiệu quả của việc tiêm kết hợp vắc xin AstraZeneca và Pfizer/BioNTech. Phát hiện ban đầu cho thấy người được tiêm cả 2 loại xuất hiện phản ứng phụ ở mức độ nhẹ hoặc trung bình so với nhóm tiêm đủ liều của một loại vắc xin. Trong cuộc nghiên cứu mở rộng Com-CoV2, các chuyên gia đang thử nghiệm kết hợp các vắc xin khác ngoài 2 loại trên, chẳng hạn như Moderna và Novavax... (5) Việc tiêm trộn lẫn các liều vắc xin khác nhau nghe có vẻ bất thường, nhưng đối với các nhà miễn dịch học thì không có gì mới mẻ. Các nhà nghiên cứu về HIV từ lâu đã khám phá ra điều này. Họ nhận thấy rằng việc bảo vệ cơ thể người chống lại vi rút HIV đòi hỏi một phản ứng miễn dịch phức tạp gần như không thể đạt được với một loại vắc xin vì chúng có xu hướng chỉ tạo ra một loại phản ứng miễn dịch hoặc kích thích một nhóm tế bào miễn dịch. Do đó, các nhà khoa học đã nghĩ đến việc trộn nhiều loại vắc xin với nhau. Rodolphe Thiébaut, GS y tế công cộng tại Đại học Bordeaux (Pháp), cho biết: về cơ bản, ý tưởng của việc trộn vắc xin là bạn đang trình bày kháng nguyên (phần có thể nhận biết của mầm bệnh) cho hệ thống miễn dịch theo một cách khác, giúp hệ thống miễn dịch có cái nhìn tổng quan hơn về kháng nguyên và điều chỉnh phản ứng của nó. Mặc dù chúng ta chưa có vắc xin phòng chống HIV/AIDS hiệu quả nhưng loại vắc xin hiệu quả nhất được phát triển cho đến nay là sử dụng kết hợp nhiều loại vắc xin với nhau - vào năm 2012, nó đã được chứng minh là làm giảm sự lây truyền khoảng 30% trong các thử nghiệm trên người ở giai đoạn 3. TS Pierre Meulien (Giám đốc điều hành Sáng kiến thuốc đổi mới - IMI) nhấn mạnh: "Các quốc gia đã đưa ra quyết định phối trộn vắc xin Covid-19 sau khi cân nhắc giữa rủi ro và lợi ích. Đây không phải là điều hoàn toàn mới, chúng ta đã có kinh nghiệm đối với phương pháp này trong nhiều thập kỷ cả ở tiền lâm sàng và lâm sàng". (6) Mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề cần theo dõi, nghiên cứu thêm, song theo các nhà chuyên môn, việc trộn vắc xin có thể giúp tránh miễn dịch chống lại vắc xin. Bởi vì một số loại vắc xin được đưa vào cơ thể bằng cách sử dụng một loại vi rút đã biến đổi, hệ thống miễn dịch có thể tự tấn công vắc xin đó. Trộn các vắc xin có thể làm giảm nguy cơ này. Việc trộn vắc xin còn chứng tỏ là có thể tạo ra phản ứng mạnh hơn, lâu dài hơn so với việc dùng 1 vắc xin đơn lẻ. Vắc xin Ebola do Johnson & Johnson phát triển là một ví dụ về vắc xin hỗn hợp hiệu quả đang được sử dụng ngày nay. Nó được chọn để cung cấp khả năng miễn dịch lâu dài. Lần tiêm đầu tiên sử dụng vectơ adenovirus (tương tự như vắc xin của AstraZeneca) và mũi thứ hai sử dụng phiên bản sửa đổi của vi rút poxvirus có tên là Ankara (MVA). GS Thiébaut (cũng là điều phối viên của EBOVAC2 - một chương trình đánh giá tính an toàn và hiệu quả của vắc xin này) khẳng định: “Vắc xin đã có phản ứng rất tốt. Ít nhất một nửa số tế bào đang tạo ra kháng thể sẽ tồn tại tối thiểu 5 năm”. (7) Đặc biệt, việc kết hợp vắc xin này còn được hy vọng là sẽ giúp nhân loại chống lại được các biến thể của Covid-19. Theo TS Meulien, động cơ chính để trộn vắc xin là hy vọng tạo ra khả năng miễn dịch rộng hơn. TS Frédéric Martinon (nhà nghiên cứu miễn dịch học tại Viện Y tế và Nghiên cứu y học quốc gia Pháp - INSERM) cho biết, vắc-xin được cải tiến cho các biến thể khác nhau đã xuất hiện ở Anh, Brazil, Nam Phi và gần đây nhất là ở Ấn Độ. Ông hy vọng, thế hệ tiếp theo của vắc xin có thể sẽ chống lại một số biến thể của Covid-19 và việc trộn các loại vắc xin này sẽ tạo ra khả năng miễn dịch tập thể rộng rãi, khiến các biến thể khó lưu hành hoặc khó xuất hiện biến thể mới. Trong khi đó, từ góc độ sức khỏe cộng đồng, GS Thiébaut tin tưởng việc trộn vắc xin có thể giúp thế giới vượt qua đại dịch bằng cách đẩy nhanh việc triển khai tiêm chủng vì các chính phủ có thể phân phối ngay các liều vắc xin mà họ nhận được mà không cần lo lắng về việc dành ra mũi thứ hai của các loại vắc xin cụ thể để tiêm cho người dân vài tuần hoặc vài tháng sau đó. Đối với hàng triệu cá nhân đã tiêm liều ban đầu bằng vắc xin AstraZeneca đang băn khoăn không biết phải làm gì tiếp theo: tiêm liều thứ hai hay chuyển sang một loại vắc xin khác? Cũng sẽ dễ dàng đưa ra quyết định để không làm mất đi cơ hội của chính mình. (Nguồn: “Tiêm trộn lẫn vắc xin covid-19 có an toàn?” Hoàng Yến, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 7, năm 2021) Ý nào nói đúng nhất nội dung chính của bài đọc trên?
Thí sinh đọc bài đọc và trả lời các câu hỏi dưới đây:Nghiên cứu thuốc ức chế virus sars-coV-2 từ thảo dược(1) Ngày 10/8/2021, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam đã tổ chức họp báo trực tuyến công bố kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng thuốc điều trị Covid-19 từ thảo dược. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh tính an toàn và khả năng ức chế phát triển virus SARS-CoV-2 cũng như tác dụng tăng cường miễn dịch của thuốc.(2) Tình hình đại dịch do virus SARS-CoV-2 gây ra đang diễn biến rất phức tạp. Tính đến ngày 3/9/2021, cả thế giới đã có hơn 220 triệu người nhiễm Covid-19, trong đó có gần 4,6 triệu người đã tử vong. Tại Việt Nam, kể từ đầu dịch đến ngày 4/9/2021 đã có hơn 500 nghìn ca nhiễm, đứng thứ 53/222 quốc gia và vùng lãnh thổ (bình quân cứ 1 triệu người có 5.103 ca nhiễm), trong đó có khoảng 7,2 nghìn ca đã tử vong. Trước tình hình này, việc nghiên cứu tạo vắc-xin, đồng thời rút ngắn thời gian thử nghiệm để sớm có được vắc-xin đối phó  với tình hình đại dịch hiện nay là nhiệm vụ cấp bách. Tuy nhiên, dù có nhiều loại vắc-xin đã được cấp phép sử dụng, nhưng với sự xuất hiện các biến chủng với tốc độ lây lan nhanh và gây mức độ bệnh trầm trọng đã đặt ra những thách thức lớn đối với công tác nghiên cứu sản xuất vắc-xin. Vì vậy, việc nghiên cứu sản xuất thuốc hỗ trợ điều trị virus SARS- CoV-2 được xác định là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.(3) Là một cơ quan chủ chốt về KH&CN của đất nước, từ khi bùng phát dịch Covid-19 đến nay, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã tích cực triển khai các nghiên cứu phục vụ phòng chống dịch như: nghiên cứu thành công bộ KIT phát hiện virus SARS-CoV-2 (3/3/2020), nghiên cứu giải trình tự toàn bộ hệ gen của bốn chủng virus SARS-CoV-2 (1/6/2021) làm cơ sở thực hiện nghiên cứu vắc-xin và các chế phẩm ức chế virus SARS-CoV-2. Và mới đây, góp phần vào nỗ lực của các nhà khoa học Việt Nam trong nghiên cứu thuốc, vắc-xin và sinh phẩm phục vụ công tác phòng chống đại dịch Covid-19, nhóm nghiên cứu do PGS.TS Lê Quang Huấn (Viện Công nghệ sinh học thuộc Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam) dẫn đầu đã liên kết với Công ty CP Dược phẩm Vinh Gia, Công ty CP Hóa dược Việt Nam nghiên cứu thử nghiệm thuốc điều trị Covid-19 nhằm mục đích phòng và hỗ trợ điều trị các bệnh do virus có hệ gen ARN gây ra, đặc biệt là virus SARS-CoV-2 đang gây đại dịch Covid-19 trên toàn thế giới.(4) Nhận thấy tiềm năng từ các thảo dược truyền thống, PGS.TS. Lê Quang Huấn cùng các cộng sự đã sử dụng công nghệ tin sinh học để sàng lọc các hoạt chất chính có ái lực liên kết mạnh với các phân tử đích (là các phân tử liên quan tới quá trình xâm nhập và tăng sinh của virus SARS- CoV-2) trong thảo dược. Qua đó lựa chọn được tổ hợp các loại thảo dược không chỉ có dược tính mạnh mà còn có khả năng cộng hưởng để nâng hiệu quả điều trị lên mức cao nhất. Từ cao chiết của các thảo dược này, nhóm nghiên cứu đã điều chế thành công sản phẩm dưới dạng viên nang cứng.g/ml sản phẩm nghiên cứu có khả năng ức chế được sự phát triển của SARS-CoV-2 ở nồng độ tới 10 PFU (đây là nồng độ virus mà khi xét nghiệm mẫu sinh phẩm cho kết quả dương tính - F0) tương ứng với giá trị Ct=20,5 khi xét nghiệm bằng kỹ thuật real- time PCR. Nghĩa là, sản phẩm nghiên cứu có tác dụng ức chế mạnh sự tăng sinh của vurus SARS-CoV-2.(5) Kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy, ở nồng độ 50 (6) Kết quả đánh giá khả năng tăng cường miễn dịch trên động vật thí nghiệm của sản phẩm nghiên cứu cho thấy: với liều 2,88 viên/kg/ngày (tương đương với liều dự kiến điều trị trên lâm sàng) uống liên tục trong 7 ngày có xu hướng kích thích miễn dịch trên mô hình gây suy giảm miễn dịch cấp tính bằng cyclophosphamid, thể hiện như sau: (1) Xu hướng tăng cường đáp ứng miễn dịch tế bào (xu hướng tăng phản ứng bì với kháng nguyên OA); (2) Cải thiện tình trạng tổn thương lách và tuyến ức.(7) Với liều 5,76 viên/kg/ngày (gấp 2 lần liều tương đương với liều dự kiến điều trị trên lâm sàng) uống liên tục trong 7 ngày có tác dụng kích thích miễn dịch trên mô hình gây suy giảm miễn dịch cấp tính bằng cyclophosphamid, thể hiện như sau: (1) Tăng cường đáp ứng miễn dịch dịch thể (tăng rõ rệt nồng độ IgM trong máu ngoại vi); (2) Tăng cường đáp ứng miễn dịch tế bào (xu hướng tăng phản ứng bì với kháng nguyên OA, tăng nồng độ TNF-α trong máu ngoại vi); (3) Cải thiện tình trạng tổn thương lách và tuyến ức.(8) Như vậy có thể thấy, sản phẩm nghiên cứu có tác dụng trên nhiều cơ chế khác nhau: (1) Phong tỏa Spike-S của virus SARS-CoV-2 và thụ thể ACE2 trên tế bào chủ để ngăn chặn sự tiếp xúc và xâm nhập của virus vào tế bào; (2) Ức chế các enzyme liên quan tới quá trình nhân lên của virus SARS- CoV-2; (3) Kích hoạt các tế bào của hệ miễn dịch ở người bệnh. Các cơ chế này sẽ cộng hưởng tác động để giúp phòng và hỗ trợ điều trị Covid-19.(Nguồn: “Nghiên cứu thuốc ức chế virus sars-coV-2 từ thảo dược” Minh Nguyệt, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2021)Câu nào dưới đây thể hiện rõ nhất chính của bài đọc trên?
1. 5 năm sau Hiệp định khí hậu Paris, sự quan tâm của xã hội tập trung vào những tiến bộ khoa học thế giới, hướng tới một tương lai không carbon. Một phần quan trọng của mục tiêu này là chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo như mặt trời, nước, gió và sóng.2. Trong các nguồn tái tạo, năng lượng mặt trời luôn được giới khoa học kỳ vọng cao nhất do là nguồn năng lượng dồi dào và đáng tin cậy nhất trên Trái Đất. Những thập kỷ gần đây, pin mặt trời trở nên rẻ, hiệu quả hơn và thân thiện môi trường.3. Những các tế bào pin mặt trời hiện nay không trong suốt, ngăn cản việc sử dụng rộng rãi hơn và tích hợp vào những trang thiết bị thông dụng trong đời sống, những hạn chế này khiến pin mặt trời chỉ được lắp đặt trên mái nhà và triển khai ở những trang trại năng lượng mặt trời chiếm diện tích rộng hơn và xa khu dân cư.4. Sẽ rất tuyệt vời nếu các tấm pin mặt trời thế hệ tiếp theo được tích hợp vào cửa sổ, kính tòa nhà hoặc trên màn hình điện thoại di động. Đó là tham vọng của GS Joondong Kim thuộc Khoa Điện Trường Đại học Quốc gia Incheon, Hàn Quốc. Ý tưởng về pin mặt trời trong suốt được nhiều nhà khoa học quan tâm, nhưng biến ý tưởng mới lạ này thành hiện thực là một phát minh mới có ý nghĩa quan trọng.5. Những vật liệu khiến pin mặt trời không trong suốt là các lớp bán dẫn, có nhiệm vụ hấp thụ ánh sáng và chuyển thành dòng điện. GS Joondong Kim và các đồng nghiệp cùng nghiên cứu hai vật liệu bán dẫn tiềm năng, được các nhà nghiên cứu trước đó xác định về những đặc tính mong muốn để có thể trở thành vật liệu trong pin điện mặt trời.6. Vật liệu đầu tiên được nghiên cứu là titanium dioxide (TiO2). Ngoài các tính năng điện học tuyệt vời, TiO2 còn là vật liệu thân thiện với môi trường và không độc hại. Vật liệu này hấp thụ ánh sáng UV (một phần của quang phổ ánh sáng không nhìn thấy bằng mắt thường) và cho phép hầu hết dải ánh sáng nhìn thấy được đi qua.7. Vật liệu thứ hai được nghiên cứu là niken oxit (NiO), một chất bán dẫn khác có độ trong suốt quang học cao. Niken cũng là một trong những nguyên tố phong phú nhất trên Trái đất. Oxit nikel có thể được sản xuất công nghiệp ở nhiệt độ thấp. Do đó NiO cũng là vật liệu tuyệt vời để chế tạo các tế bào quang điện thân thiện môi trung Tế bào năng lượng mặt trời do các nhà nghiên cứu chế tạo bao gồm một tầng tình nền và một điện cực oxit kim loại, phía trên được lắng đọng các lớp Thông bán dẫn đầu tiên là THO, sau đó là NGO) và lớp phủ cuối cùng là các dây hoạt động như một điện cực thứ hai tạo thành tế bào pin mặt trời.8. Các nhà khoa học đã thực hiện một số thử nghiệm đánh giá khả năng hấp thụ và truyền ánh sáng, cũng như hiệu quả hoạt động của pin mặt trời trong suốt này. Những kết quả thu được rất đáng phấn khởi. Hiệu suất chuyển đổi năng lượng là 2,1% tương đối cao trong điều kiện nó chỉ được thiết kế để hấp thụ một phần nhỏ, phổ ánh sáng.9. Tế bào quang điện cũng có độ phản hồi cao và hoạt động hiệu quả trong điện ánh sáng yếu. Hơn 57% ánh sáng nhìn thấy được truyền qua các lớp tế bào, khi bào quang điện trở lên trong suốt. Trong phần cuối cùng của thí nghiệm, các nhà học đã kiểm tra khả năng hoạt động của tấm pin bằng cách sử dụng nó để cung năng lượng cho một động cơ nhỏ.10. GS Joondong Kim bình luận: “Mặc dù loại pin mặt trời sáng tạo này đang còn sơ khai, nhưng kết quả thử nghiệm cho thấy có thể cải tiến hơn nữa bằng cách tối, hóa những tính chất quang và điện của tế bào”.11. Điểm đặc biệt quan trọng, các nhà khoa học Hàn Quốc chứng minh được tính tại tiễn của pin mặt trời trong suốt và có khả năng cải thiện hơn nữa hiệu quả hoạt độ của sản phẩm trong tương lai gần.Ý nào sau đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?