Danh sách câu hỏi
Có 7442 câu hỏi trên 149 trang
1. Các nhà khoa học Canada tìm ra một nguyên nhân đến từ ngoài vũ trụ giúp cho sự sống có thể sinh sôi và duy trì trên Trái Đất, thay vì các hành tinh gần nhất là Sao Kim.
2. Theo Science Daily, các nhà khoa học ở đại học British Columbia (UBC) công bố nghiên cứu mới trên Tạp chí khoa học Nature Geoscience hôm 21/7 về nguyên nhân hình thành sự sống trên Trái Đất.
Nghiên cứu cho thấy bề mặt Trái Đất được bao phủ bởi các nguyên tố phóng xạ và sản sinh nhiệt lượng lớn như urani và kali ở thời kì mới hình thành. Tuy nhiên, một bước ngoặt xảy ra khiến cho một lượng rất lớn các nguyên tố này biến mất khỏi bề mặt Trái Đất.
Bước ngoặt này chính là những cơn mưa thiên thạch liên tục bắn phá khiến cho urani và kali bị tách ra khỏi bề mặt hành tinh và văng vào trong không gian. Điều này giúp cho bề mặt Trái Đất trở nên ổn định hơn.
"Sự kiện này đã góp phần định hình và kiến tạo nên địa chất, khí hậu và từ trường của Trái Đất như ngày nay chúng ta đang sống," Mark Jellinek, giáo sư Phòng Khoa học Trái Đất, Đại dương và Khí quyển thuộc UBC nói.
3. Các mảng kiến tạo nguội dần và ổn định hơn. Điều này giúp Trái Đất duy trì được từ trường mạnh và kích hoạt sự phun trào của các núi lửa. Núi lửa phun trào giải phóng khí nhà kính từ sâu trong lòng đất tạo nên khí hậu ấm áp và điều hòa thích hợp cho sự sống xuất hiện và phát triển. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa Trái Đất và các hành tinh đá khác.
Ngày nay, sao Kim là một "vùng đất chết" nhưng các nhà khoa học đã đặt ra câu hỏi liệu hành tinh này có phải lúc nào cũng không phù hợp cho sự sống như vậy hay không?
Sao Kim - "người hàng xóm" gần chúng ta nhất, được gọi là anh em sinh đôi của Trái Đất bởi sự tương đồng về kích cỡ và mật độ của cả hai hành tinh. Tuy nhiên, xét trên những mặt khác, hai hành tinh này hoàn toàn khác nhau. Mọi thứ trên hành tinh này lại không diễn ra tương tự như hành tinh của chúng ta. Khi Trái Đất đã ổn định và có sự sống sinh sôi nảy nở, bầu khí quyển của Sao Kim chỉ toàn khí CO2 với nhiệt độ bề mặt lên đến 470 độ C.
4. Để hiểu về việc hai hành tinh đá này vì sao lại khác nhau như vậy, một nhóm các nhà vật lý thiên văn đã quyết định mô phỏng lại từ đầu thời điểm các hành tinh trong Hệ Mặt trời của chúng ta hình thành cách đây 4,5 tỷ năm.
Họ đã sử dụng mô hình khí hậu, tương tự như những gì các nhà nghiên cứu sử dụng khi mô phỏng sự thay đổi khí hậu trên Trái Đất, để nhìn lại thời điểm sao Kim và Trái Đất khi vẫn còn là các hành tinh trẻ. Nghiên cứu mới này đã được công bố trên tạp chí Nature ngày 13/10.
5. Các đại dương chỉ có thể hình thành khi nhiệt độ đủ lạnh để nước ngưng tụ và rơi xuống thành mưa trong hàng nghìn năm. Đó là cách mà đại dương trên Trái Đất hình thành trong hơn 10 triệu năm. Trong khi đó, sao Kim vẫn vô cùng nóng.
Vào thời điểm đó, Mặt Trời mờ hơn bây giờ 25%. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa đủ để giúp sao Kim nguội bớt bởi nó là hành tinh nằm gần Mặt Trời thứ hai. Các nhà nghiên cứu đã đặt câu hỏi liệu các đám mây có giúp gì để nhiệt độ trên sao Kim giảm bớt hay không.
6. Mô hình khí hậu của các nhà nghiên cứu cho thấy, các đám mây đã đóng vai trò nhất định nhưng theo một cách không ngờ tới. Chúng tập hợp ở mặt tối của sao Kim và vì thế không thể bảo vệ hành tinh này khỏi Mặt trời ở phía ban ngày. Trong khi sao Kim không bị khóa thủy triều với Mặt Trời - hiện tượng mà một mặt của hành tinh luôn đối mặt với Mặt Trời, thì nó có tốc độ quay vô cùng chậm.
Thay vì che chắn cho sao Kim khỏi hơi nóng, những đám mây ở mặt tối của sao Kim góp phần gây ra hiệu ứng nhà kính, khiến hơi nóng bị mắc kẹt trong bầu khí quyển đậm đặc của hành tinh này và làm cho nhiệt độ luôn ở mức cao. Với khí nóng bị mắc kẹt liên tục như vậy, sao Kim quá nóng nên không thể có mưa. Thay vào đó, nước chỉ có thể tồn tại ở thể khí và hơi nước trong khí quyển.
7. "Nhiệt độ cao đồng nghĩa với việc nước chỉ có thể hình thành thể hơi giống như trong một cái nồi với áp suất khổng lồ", Martin Turbet, tác giả dẫn đầu nghiên cứu tại Khoa Khoa học thuộc Phòng Thiên văn học của Đại học Geneva nhận định.
"Trái Đất lẽ ra cũng có kết cục giống như Sao Kim," Jellinek nói và giải thích về nguyên nhân khiến cho hai hành tinh đã tiến hóa khác nhau, "mấu chốt của vấn đề chính là mức độ xói mòn khác nhau trên bề mặt."
Không bị bắn phá như Trái Đất, bề mặt Sao Kim nguội đi rất chậm theo thời gian. Các núi lửa biến động phức tạp, khí hậu đảo lộn liên tục trong hàng tỷ năm khiến cho sự sống không có cơ hội xuất hiện.
"Từ những ảnh hưởng của sự xói mòn bề mặt, chúng tôi nhận ra rằng những điều chỉnh về thành phần cấu tạo của hành tinh trong thời kì sơ khai sẽ để lại những hệ quả sâu sắc tới quá trình tiến hóa của nó. Chính những hoàn cảnh đặc biệt trong buổi sơ khai đã tạo nên Trái Đất ngày nay," Jellinek kết luận.
(Nguồn: khoahoc.tv)
Ý nào dưới đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:Cách mạng trong thám hiểm vũ trụ bằng lực đẩy ánh sáng(1) Ánh sáng là khởi nguồn của vũ trụ. Những tia sáng đầu tiên rọi chiếu vũ trụ bắt đầu cách đây khoảng 13,7 tỷ năm. Ánh sáng mang đến cho vũ trụ mọi thứ và kiến tạo nên sự sống trên các hành tinh. Đó là nguồn năng lượng vô tận. Cũng giống như hàng trăm tỷ ngôi sao khác trong dải Ngân hà, Mặt trời mang nguồn năng lượng vô giá cho Trái đất. Ánh sáng mặt trời cho phép một Trái đất phì nhiêu sức sống, từ những loài vi khuẩn vô cùng nhỏ bé đến những cơ thể sống khổng lồ, từ đại dương bao la đến núi rừng xanh ngát. Loài người biến ánh sáng mặt trời thành nguồn năng lượng dồi dào cho cuộc sống. Đó là một nguồn năng lượng sạch và không thể cạn kiệt cho ít nhất 5 tỷ năm nữa.(2) Với các nhà khoa học vũ trụ, ánh sáng mặt trời giúp “nuôi sống” các cỗ máy khoa học tối tân, những phi thuyền đang lao vút trong không gian và những xe tự hành đang lăn bánh trên bề mặt các hành tinh. Nhưng xa hơn thế, họ đang nung nấu một giấc mơ ấp ủ suốt nửa thế kỷ. Đó là biến ánh sáng mặt trời thành những cơn gió giúp các phi thuyền “căng buồm” vào không gian liên hành tinh và xa hơn nữa là liên sao. Giấc mơ đó không phải là không có cơ sở. (3) Cách đây hơn một thế kỷ, Albert Einstein đã phát triển thuyết lượng tử ánh sáng lên một nấc thang mới. Mô hình về photon ánh sáng mà nhà khoa học thiên tài này đưa ra nhằm giải thích những quan sát thực nghiệm mà không thể giải thích thỏa đáng bởi mô hình sóng cổ điển. Bản chất lưỡng tính sóng - hạt của ánh sáng đã tháo những nút thắt cơ bản trong vật lý đương đại. Bên cạnh tính chất sóng thì ánh sáng cư xử như những hạt gọi là những lượng tử ánh sáng - photon. Einstein chỉ ra rằng, lượng tử năng lượng photon cũng phải mang động lượng, do vậy chúng có đầy đủ tính chất của một hạt. Thời gian sau đó, động lượng của photon đã được quan sát bằng thực nghiệm bởi nhà vật lý Arthur Compton. Năm 1927, chính thí nghiệm này đã giúp ông được trao giải Nobel trong lĩnh vực Vật lý. (4) Đó chính là mấu chốt của vấn đề giúp các nhà khoa học mơ về một tương lai thế hệ tàu vũ trụ di chuyển nhờ áp lực của ánh sáng. Theo đó, các photon ánh sáng của Mặt trời cũng như những ngôi sao mang động lượng, khi gặp vật cản phản xạ, chúng chuyển động lượng theo hướng ngược lại với ánh sáng dội lại. Động lượng của nó sẽ tạo thành một lực đẩy. Mặc dù rất nhỏ nhưng với tiết diện phản xạ lớn, khối lượng tàu vũ trụ nhỏ và trong môi trường chân không thì lực đẩy này sẽ trở nên đáng kể, giúp phi thuyền di chuyển trong không gian. Điều này giống như việc chúng ta ném những quả bóng tenis vào một tấm phản gắn dựng đứng trên một chiếc thuyền nhỏ. Khi ném liên tục những quả bóng sẽ tác động lực lên tấm phản làm cho thuyền di chuyển trên mặt nước. Trong trường hợp này, các photon được ví như những quả bóng tennis. Đối với những con tàu vũ trụ thì những tấm khiên nhẹ với tiết diện phản xạ như những cánh buồm no gió. Như vậy, chúng ta sẽ có một phi thuyền vũ trụ hoạt động mà không cần động cơ, nhiên liệu. Vào năm 1976, nhà thiên văn học huyền thoại Carl Sagan trong chương trình Tonight Show với Johnny Carson đã đề cập đến một phương pháp đẩy cho các phi thuyền không gian mới gọi là cánh buồm mặt trời. (5) Đã 4 thập kỷ trôi qua, những điều tưởng như chỉ là trong giấc mơ đã dần thành hiện thực. Đó là điều tuyệt vời nhất mà các nhà khoa học vũ trụ có được trong kỷ nguyên chinh phục không gian. Tháng 8/2008, Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) cũng đã công bố một “chiếc thuyền buồm” vũ trụ hình khối nhỏ có tên Nanosail-D. NanoSail-D là một vệ tinh nhỏ (CubeSat) được Trung tâm Nghiên cứu Ames của NASA sử dụng để nghiên cứu triển khai một cánh buồm mặt trời trong không gian. Đó là một CubeSat 3 đơn vị (3U) có kích thước 30 x 10 x 10 cm, với khối lượng 4 kg. Vệ tinh đã bị mất ngay sau khi phóng do sự cố tên lửa Falcon 1 mang nó. Sau đó, NASA đã thay thế một sứ mệnh mới với NanoSail-D2 đã được triển khai thành công vào đầu năm 2011.(6) Tháng 6/2010, Cơ quan Hàng không vũ trụ Nhật Bản (JAXA) đã phóng thành công “du thuyền mặt trời” Ikaros vào không gian. Dự án đầy tham vọng này đã chứng minh rằng, một màng mỏng gắn vào thân tàu vũ trụ có thể đẩy phương tiện về phía trước bằng cách thu thập động lượng từ lực đẩy của các hạt ánh sáng của Mặt trời. Tuy nhiên, có một dự án tham vọng hơn được các nhà khoa học có cùng ước mơ “cánh buồm mặt trời” âm thầm thực hiện. Vào năm 2005, Hội Khoa học hành tinh đã nỗ lực gửi một vệ tinh cánh buồm mặt trời mang tên Cosmos 1 lên vũ trụ trong một chương trình hợp tác Nga - Mỹ. Tuy nhiên, kết quả đã trở thành công cốc khi tên lửa đẩy Volna mang theo vệ tinh đã tắt chỉ 83 giây sau khi phóng từ một tàu ngầm của Nga trên biển Barents. Tên lửa bị tắt ngay trong giai đoạn khởi động tầng đầu tiên và đã không đạt được quỹ đạo. Năm 2009, Hội Khoa học hành tinh lại tiếp tục làm một cánh buồm mặt trời thử nghiệm với CubeSat dựa trên dự án NanoSail-D của NASA Ikaros và “cánh buồm” của nó.(7) Năm 2011, dự án đầy tham vọng mang tên LightSail đã ra đời để chứng minh việc chèo thuyền mặt trời có kiểm soát trong quỹ đạo Trái đất thấp bằng cách sử dụng CubeSat. Dự án LightSail được phát triển bởi Hội Khoa học hành tinh bao gồm 2 tàu vũ trụ LightSail 1 và LightSail 2. Cả hai tàu vũ trụ LightSail có kích thước 10 × 10 × 30 cm. Sau khi triển khai, diện tích của buồm là 32 m 2 . (8) Ngày 20/5/2015, LightSail 1 (còn được gọi là LightSail-A) đã được công bố. Tháng 6/2015, ngay sau khi được phóng, LightSail 1 đã triển khai cánh buồm mặt trời và quay trở lại bầu khí quyển. LightSail 1 thực chất là một nhiệm vụ trình diễn kỹ thuật được thiết kế để thử nghiệm phương pháp triển khai cánh buồm mới trong không gian, nó không thực hiện nhiệm vụ “chèo thuyền mặt trời”.(9) Từ kinh nghiệm cũng như kiến thức đúc rút sau sứ mệnh LightSail 1, tháng 3/2016, Hội Khoa học hành tinh tiếp tục công bố tàu vũ trụ thứ hai mang tên LightSail 2. Đây là dự án đầy ắp đam mê của các nhà khoa học nhằm chứng minh rằng, chèo thuyền mặt trời là một kỹ thuật đẩy khả thi cho tàu vũ trụ. LightSail 2 là một tàu vũ trụ với đầy đủ chức năng nhằm trình diễn khả năng chèo thuyền mặt trời thực sự. LightSail 2 trong phòng kiểm tra kỹ thuật.(10) Thời khắc lịch sử cũng đã đến. Ngày 23/7/2019, LightSail 2 được phóng thành công. Tên lửa Falcon Heavy của Tập đoàn công nghệ thám hiểm không gian SpaceX đã đưa tàu Prox-1 mang theo LightSail 2 lên không gian. Sau đó, LightSail 2 tách khỏi Prox-1 và bay theo quỹ đạo quanh Trái đất. Như vậy, sau hơn 10 năm nỗ lực nghiên cứu với kinh phí 7 triệu USD, phi thuyền loại nhỏ LightSail 2 đã trở thành tàu vũ trụ đầu tiên bay lên quỹ đạo chỉ nhờ vào sức mạnh của ánh sáng mặt trời. Tên lửa đẩy Falcon của SpaceX đưa LightSail 2 lên không gian.(11) Một con tàu vũ trụ cỡ nhỏ LightSail 2 có kích thước bằng một ổ bánh mì cuối cùng đã tự biến thành một cánh buồm mặt trời. LightSail 2 đã lên quỹ đạo được hơn một tháng và lần đầu tiên trong lịch sử nó đã mở cánh buồm rộng 32 m 2 , được chế tạo bằng Mylar NanoSail-D - một loại polyester nhẹ và mỏng như tơ nhện, giúp nó có thể tận dụng tốt động lượng của photon. Khoảng một tuần tiếp đó, tàu vũ trụ đã tăng quỹ đạo lên 1,7 km, và lực đẩy có được nhờ các photon của ánh sáng mặt trời. Những photon từ ánh sáng mặt trời phản xạ lên bề mặt cánh buồm vào tạo ra lực đẩy giúp LightSail 2 di chuyển.(12) Thực tế, LightSail 2 đã thành công trong việc sử dụng nguyên lý lực đẩy photon. LightSail 2 có sự đột phát về công nghệ trong việc kiểm soát lực đẩy để thay đổi quỹ đạo một cách hiệu quả. Theo giám đốc dự án Dave Spencer, LightSail 2 được kiểm soát tự động bằng các thuật toán. Bằng cách xoay tàu vũ trụ 90 o cứ sau 50 phút, phần mềm này có thể thay đổi hướng của tàu để nó nhận đủ năng lượng từ Mặt trời cho dù ở bất cứ vị trí nào trong không gian. Trước đó Ikaros chỉ có thể xoay được khoảng 4-5 o .(13) Thuật toán ấn tượng này vẫn đang được cập nhật và điều chỉnh. Một trong những thách thức lớn nhất là tinh chỉnh động lượng của tàu vũ trụ được điều khiển bởi một bánh xe quay. Bánh xe động lượng này được sử dụng để thay đổi hướng của tàu. Khi cánh buồm mặt trời tạo ra quá nhiều lực đẩy, cần có một lực đối kháng lại để làm chậm tốc độ quay. Điều này được thực hiện bằng cách sử dụng các thanh mô men xoắn điện từ, định hướng tàu vũ trụ sử dụng từ trường của Trái đất. (14) Các nhà khoa học hiện khó dự đoán chính xác tàu vũ trụ sẽ có thể nâng quỹ đạo bao nhiêu nữa. Theo dự đoán, khi lực đẩy mặt trời cộng lại, nó sẽ giúp tăng quỹ đạo của tàu lên khoảng 0,5 km mỗi ngày. Đây không phải là mục tiêu quá xa vời, trên thực tế, tàu vũ trụ đã tăng thêm khoảng 900 m chỉ trong một ngày.(15) Những gì mà các sứ mệnh không gian trên làm được là minh chứng rõ ràng nhất trong việc sử dụng lực đẩy ánh sáng cho các sứ mệnh du hành vũ trụ tương lai. Tất cả không chỉ là giấc mơ mà đang hiện hữu và hiện thực hóa trong niềm đam mê không dứt và sự tiến bộ không ngừng của các đột phá về khoa học và công nghệ vũ trụ.(16) Việc phát triển tàu vũ trụ sử dụng lực đẩy ánh sáng hứa hẹn mở ra những tiềm năng vô cùng lớn trong nghiên cứu và thám hiểm vũ trụ. Điều dễ dàng nhận thấy là ứng dụng trong việc tìm kiếm sự sống ngoài hành tinh, theo dõi thời tiết trên Mặt trời, triển khai hệ thống cảnh báo tiểu hành tinh gần Trái đất, thậm chí là những sứ mệnh thám hiểm không chỉ giới hạn trong phạm vi hệ Mặt trời mà còn vươn tới không gian liên sao.(17) Các nhà nghiên cứu tin rằng, những con tàu tương lai được chế tạo và bảo vệ bởi những vật liệu có khả năng chịu được nhiệt độ và bức xạ cao. Tàu vũ trụ như vậy có thể tiếp cận rất gần Mặt trời, sau đó chúng sẽ nhận được một lực đẩy lớn để tạo đà cho nó di chuyển xa hơn và với tốc độ cao hơn nhiều vào không gian sâu thẳm.(18) Tàu vũ trụ tiểu hành tinh gần Trái đất (NEA Scout ) của NASA dự kiến sẽ được phóng vào giữa năm 2020, là ứng dụng sớm nhất cho công nghệ lực đẩy ánh sáng này. Những nhiệm vụ táo bạo có kế hoạch sử dụng cánh buồm mặt trời là những vệ tinh nhỏ CubeSat loại 6U, hoặc tàu vũ trụ có kích thước nhỏ để thu thập dữ liệu về các tiểu hành tinh gần Trái đất có tiềm năng cho các nhiệm vụ nghiên cứu không gian của con người trong tương lai.(19) Trong tương lai, thế hệ tàu vũ trụ nhỏ mang cánh buồm mặt trời sẽ trở thành một hướng đi đầy tiềm năng trong việc thực hiện các nhiệm vụ thám hiểm ngoài hệ Mặt trời. Các cánh buồm vừa có chức năng tạo lực đẩy, vừa đóng vai trò như các tấm pin mặt trời sẽ cung cấp năng lượng cho các chức năng khác của vệ tinh như chụp ảnh và liên lạc với mặt đất... Khi quay quanh Trái đất, tàu vũ trụ sẽ tăng độ cao nhờ áp lực của bức xạ mặt trời trên cánh buồm. Các tàu vũ trụ CubeSate với kích thước nhỏ gọn, vừa giúp giảm chi phí, vừa linh động trong nghiên cứu, đồng thời phù hợp với nguyên lý sử dụng lực đẩy ánh sáng nhờ buồm sẽ tạo nên cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu trong nghiên cứu không gian(Nguồn: “Cách mạng trong thám hiểm vũ trụ bằng lực đẩy ánh sáng”, Nguyễn Đức Phường, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 11, năm 2019)Những tia sáng đầu tiên rọi chiếu vũ trụ bắt đầu cách đây khoảng bao nhiêu năm?
Đôi điều hiểu biết về sinh vật ngoại lai ở Việt Nam
(1) Sinh vật ngoại lai (exotic, allochthonous species) là một thuật ngữ để chỉ một loài sinh vật (vi sinh, nấm, thực vật hay động vật) từ một đơn vị địa lý hành chính (vùng lãnh thổ) khác xâm nhập vào và gây ra những tác hại, tiêu cực cho môi trường hay con người. Ở cấp quốc gia thì gọi là sinh vật ngoại lai cho quốc gia đó; ở cấp vườn quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên thì gọi là sinh vật ngoại lai cho vườn/khu bảo tồn đó...
(2) Theo quy luật tự nhiên, sinh vật không bao giờ “đứng yên” một chỗ. Chúng thường xuyên và liên tục vận động, phát tán một cách chủ động do quần thể tăng trưởng mạnh mà mở rộng vùng phân bố hoặc di cư hay du cư... Cũng có thể chúng được phát tán nhờ gió, dòng hải lưu, chim, thú... Đặc biệt, nhiều sinh vật đã nhờ con người để đến nay trở thành loài phân bố toàn cầu như gián Mỹ ( Periplaneta americana ) hay nhiều loài côn trùng và sinh vật khác.
(3) Nói chung, sinh vật không quan tâm đến “quy định hành chính của con người”. Khả năng phát tán và tồn tại của một loài sinh vật cụ thể tùy thuộc vào chính khả năng thích nghi sinh thái của loài đó. Do vậy, trong sinh thái học mới có khái niệm như “loài rộng sinh cảnh” (habitat) hay “hẹp sinh cảnh”; “loài rộng nhiệt hay hẹp nhiệt”, “loài đơn thực” (monophaga), “loài hẹp thực” (oligophaga) hay loài “đa thực” (polyphaga)... Người ta thường sử dụng khái niệm “thế năng sinh thái/tiềm năng sinh thái” hoặc “ổ sinh thái/tổ sinh thái” để đánh giá khả năng thích nghi, tồn tại của một loài sinh vật trong một khu vực địa lý nào đó. Như vậy, mỗi loài có giới hạn vùng phân bố riêng phụ thuộc vào các yếu tố sinh thái mà con người cần biết để bảo tồn, khai thác hay khống chế.
(4) Trong hơn 20 năm gần đây có một bộ phận các nhà sinh học và môi trường đã quan tâm tới sinh vật ngoại lai. Đặc biệt từ khi bùng nổ nạn ốc bươu vàng gây hại cho nông nghiệp. Thật ra, từ khi thành lập các cơ quan kiểm dịch động, thực vật đã có danh sách những loài động, thực vật cần kiểm dịch, tức không cấp “visa” vào Việt Nam. Bởi vì đó là những loài động, thực vật ngoại lai, nếu chúng theo hàng hóa (ví dụ mọt kho, cỏ dại...) xâm nhập vào Việt Nam sẽ phát dịch, khó ngăn chặn và gây tổn hại cho kinh tế. Bản danh sách kiểm dịch rất cụ thể, chi tiết và theo tiêu chuẩn quốc tế trong giao thương.
(5) Từ thời Pháp thuộc, người Pháp đã đưa một số cây trồng từ châu Phi, châu Đại Dương vào Việt Nam. Trong khoảng thời gian mấy chục năm gần đây, do “mở cửa” phát triển kinh tế, chúng ta du nhập một số cây, con để phát triển kinh tế. Ví dụ, cây Ca cao, Mắc ca, Cao lương, Sachi hay cây Phong lá đỏ trồng ở Hà Nội, cây Anh Đào Nhật Bản ở Đà Lạt... Một số cá, chim và thú cảnh cũng được du nhập như một thời chúng ta đã nuôi vẹt Hồng Kông, chó Nhật... Điều này thể hiện việc chuyển giao động, thực vật từ nơi này đến nơi khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác diễn ra thường xuyên và liên tục. Vấn đề đáng quan tâm là cần có trình độ khoa học và công nghệ phù hợp để đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế bền vững. Hiện nay trên mạng internet, nếu tra từ khóa “sinh vật ngoại lai ở Việt Nam”, sẽ có rất nhiều thông tin từ danh sách những loài nguy hại chính, vùng phát triển gây hại và đề xuất các biện pháp phòng ngừa... Ví dụ, Nguyễn Hồng Sơn (2015) có bài “Hiện trạng và đề xuất giải pháp phòng ngừa sinh vật ngoại lai xâm hại ở Việt Nam” đã nêu đối tượng cây trinh nữ (cây dương), ốc bươu vàng, bèo lục bình là những loài sinh vật ngoại lai nguy hiểm và đề xuất biện pháp ngăn ngừa. Hiếu Công (2017) ở Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II đã cung cấp danh sách 5 loài sinh vật ngoại lai nguy hại ở Sóc Trăng là cá chim trắng, lau kính, rô phi thường, rô phi vằn và ốc bươu vàng... Tuy có nhiều thông tin về sinh vật ngoại lai ở Việt Nam, nhưng cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu hệ thống và thống kê đầy đủ những loài sinh vật ngoại lai gây hại và không gây hại ở Việt Nam. Nhìn chung các kết quả còn phân tán và phiến diện.
(6) Dưới đây chúng tôi xin chia sẻ một vài mẩu chuyện đã được chứng kiến để suy ngẫm và các cơ quan nghiên cứu, các cơ quan quản lý có thể tham khảo.
Câu chuyện thứ nhất:cách đây gần 30 năm, Cục Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đau đầu vì những người buôn thức ăn nuôi chim cảnh đã nhập từ Trung Quốc về loại sâu bột (Tenebrio mo - litor). Loài này có trong danh sách kiểm dịch thực vật. Bởi chúng có thể ăn nhiều loại thức ăn như hạt hay bột ngũ cốc, ngô hoặc quả tươi và rau như cà rốt, khoai tây, đậu tương... Ấu trùng loài này thường được sử dụng làm thức ăn cho bò sát, cá, gia cầm và cả con người. Ở Việt Nam, sâu bột được coi là có nguồn gốc từ Địa Trung Hải, nhưng chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc theo đường tiểu ngạch. Một số báo địa phương do nhầm lẫn (không phân biệt được sâu bột với sâu quy) đã có những bài viết cảnh báo cộng đồng về nguy cơ tương tự như ốc bươu vàng. Chúng tôi đã từng nuôi thử nghiệm để thu con trưởng thành, nhưng thất bại. Qua đây có thể thấy, mặc dù nằm trong danh mục kiểm dịch thực vật, nhưng sâu bột cũng có những mặt lợi nếu chúng ta biết khai thác hợp lý.
(7) Câu chuyện thứ hai: khoảng vào năm 2001-2002, chúng tôi nhận được yêu cầu của Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lên Lạng Sơn. Bởi vì, Trạm kiểm dịch động vật ở Lạng Sơn thu giữ 200 hộp nuôi loài Kiến gai đen (Polyrhachis dives) do người Trung Quốc ở bên kia biên giới gửi sang, nhờ nuôi gia công 3 tháng, rồi chuyển trở lại để họ thu “trứng kiến” (đúng ra là nhộng kiến). Thời giá lúc ấy 1 kg trứng kiến là 350 USD, tương đương gần 8 triệu đồng. Khi đó ở Lạng Sơn có việc “tạm nhập, tái xuất” kiến đông lạnh, mỗi lần khoảng 5,5 tấn kiến. Chúng tôi đã ở lại Lạng Sơn gần 1 tuần để điều tra, khảo sát về Kiến gai đen giống như mẫu kiến đang nuôi chuyển từ Trung Quốc sang, có mặt trong tự nhiên ở vùng Lạng Sơn hay không? Kết quả chúng tôi tìm được một tổ kiến ở ven suối, cách TP Lạng Sơn khoảng 15 km. Như vậy, Kiến gai đen đã phân bố ở Việt Nam từ trước. Năm 2017, Bùi Thanh Vân đã bảo vệ luận án tiến sỹ về kiến cũng tìm thấy Kiến gai đen ở ngoại ô Hà Nội.
(8) Trong cuộc họp với các đơn vị hữu quan ở Hà Nội, chúng tôi có đề nghị nên khoanh vùng để tiếp tục nuôi Kiến gai đen, tranh thủ học tập kỹ thuật nhân nuôi từ Trung Quốc. Khi chúng tôi trở lại Lạng Sơn để muốn cùng Trạm kiểm dịch động vật Lạng Sơn tiếp tục nhân nuôi và theo dõi, học tập cách nhân nuôi và khai thác Kiến gai đen, thì đáng tiếc 200 hộp nuôi kiến đã bị đốt vì áp lực từ nhiều phía. Sau này có một vài nhóm cán bộ khoa học thuộc lĩnh vực hóa học và y học cổ truyền biết được giá trị của Kiến gai đen đã nghiên cứu và đưa ra sản phẩm bổ dưỡng từ Kiến gai đen thu được ở Vĩnh Phúc. Ở các nước phát triển họ rất giỏi trong nhân nuôi động, thực vật để khai thác, ví dụ nuôi côn trùng bằng thức ăn nhân tạo (lập công ty, thành hàng hóa và có cả sách hướng dẫn đầy đủ) còn chúng ta lại ít quan tâm đến vấn đề này.
(9) Câu chuyện thứ ba:khi làm luận án tiến sỹ ở CHDC Đức (1969- 1973), chúng tôi đã nhân nuôi loài mọt Cứng đốt ( Trogoderma grana - rium , một đối tượng được coi là rất nguy hiểm vì có trong danh mục kiểm dịch quốc tế) để nghiên cứu về cơ chế giao tiếp sinh học của chúng. Ở các nước phát triển người ta còn du nhập một số loài bọ cánh cứng ăn thịt (những đối tượng được coi là nguy hại cho sản xuất) để tiêu diệt đối tượng gây hại trên đồng ruộng (biện pháp phòng trừ sinh học)... Ở Việt Nam cũng đã du nhập một loài côn trùng (có trong danh mục kiểm dịch thực vật) để tiễu trừ sâu hại dừa ở miền Trung. Điều này có nghĩa, chúng ta cần phải tiếp cận và hiểu biết những sinh vật lạ để sử dụng hay khống chế một cách khoa học và thông minh, chủ động.
(10) Một số câu chuyện như vậy để thấy đề tài sinh vật ngoại lai ở Việt Nam rất đa dạng và phức tạp. Việc nghiên cứu về những sinh vật này ở nước ta hiện nay chưa đầy đủ, thiếu cơ sở khoa học. Không thể một đơn vị nghiên cứu, hay một nhà khoa học có thể nắm bắt và giải quyết được hết các vấn đề của sinh vật ngoại lai. Do vậy, để sử dụng hay khống chế chúng một cách khoa học, thiết nghĩ cần tập hợp một lực lượng chuyên gia thuộc các lĩnh vực liên quan tổng điều tra, khảo sát, đánh giá, phân tích để có giải pháp xử lý phù hợp, hiệu quả.
(Nguồn: “Đôi điều hiểu biết về sinh vật ngoại lai ở Việt Nam”, Bùi Công Hiển, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Nội dung chính của văn bản trên là?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:Đẩy mạnh nội địa hóa các thiết bị của nhà máy nhiệt điện(1) Theo Quy hoạch điện VII đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1208/QĐ- TTg ngày 21/7/2011, từ 2011- 2030 sẽ có trên 50 nhà máy nhiệt điện than được đầu tư xây dựng với tổng số vốn khoảng 100 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư cho phần xây dựng và thiết bị khoảng 60-70 tỷ USD. Đây là một cơ hội lớn để phát triển cácngành cơ khí phụ trợ nói chung, cơ khí chế tạo nhiệt điện nói riêng. Để có thể tự chủ trong thiết kế, chế tạo thiết bị nhiệt điện, giảm giá thành đầu tư và tránh lệ thuộc nhà thầu nước ngoài, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1791/ QĐ-TTg ngày 29/11/2012 về “Cơ chế thí điểm thực hiện thiết kế, chế tạo trong nước thiết bị các nhà máy nhiệt điện trong giai đoạn 2012-2025” (Quyết định 1791). Mục tiêu chung của cơ chế là giúp các doanh nghiệp cơ khí trong nước nâng cao năng lực, tiến tới làm chủ thiết kế, chế tạo thiết bị cho nhà máy nhiệt điện, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp cơ khí trong nước. Mục tiêu cụ thể là đảm bảo làm chủ 80% giá trị thiết kế, 70% giá trị chế tạo cho 11 hạng mục thiết bị của nhà máy nhiệt điện vào năm 2025. Quyết định nêu rất rõ về cơ chế thực hiện như: phân chia gói thầu, cách thức nhận chuyển giao công nghệ, hình thức lựa chọn nhà thầu, chỉ định thầu, đơn giá gói thầu, trách nhiệm của chủ đầu tư và các cơ chế hỗ trợ khác. (2) Triển khai thực hiện Quyết định số 1791, trên cơ sở đề xuất của các doanh nghiệp, Bộ Công Thương, Bộ KH&CN đã phê duyệt cho một số doanh nghiệp cơ khí trong nước thực hiện Dự án KHCN “Nghiên cứu làm chủ công nghệ thiết kế, chế tạo và đưa vào vận hành một số hệ thống thiết bị phụ nhà máy nhiệt điện chạy than công suất đến 600 MW” với 12 nhiệm vụ là các đề tài/dự án thành phần nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu hoặc nhận chuyển giao công nghệ làm chủ việc thiết kế, chế tạo các thiết bị nêu trên. Cụ thể: (3) Hệ thống bốc dỡ than:hệ thống bốc than cho các nhà máy nhiệt điện có giá trung bình từ 60 đến 100 triệu USD tùy thuộc vào cấu hình cụ thể của nhà máy. Hệ thống bao gồm thiết bị bốc dỡ than từ tàu lên cảng, băng tải vận chuyển từ cảng vào nhà kho, trong nhà kho có các máy đánh đống, phá đống, trộn; trước khi vào nhà kho than được sàng tuyển phân loại, loại bỏ kim loại. Than chứa trong nhà kho sẽ được băng tải vận chuyển đưa vào két chứa than để đưa vào đốt trong lò hơi. Để vận hành các thiết bị của hệ thống bốc dỡ than, hệ thống điện động lực và điện điều khiển cũng được trang bị. Vấn đề của các doanh nghiệp Việt Nam là không làm chủ được thiết kế hệ thống, không làm chủ được việc chế tạo các thiết bị chính của thiết bị bốc dỡ than cũng như hệ thống điện điều khiển... Để nội địa hóa thiết bị bốc dỡ than, Viện Nghiên cứu Cơ khí (Narime) đã được giao thực hiện đề tài “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, tổ hợp và đưa vào vận hành hệ thống bốc dỡ, vận chuyển than cho nhà máy nhiệt điện đốt than có công suất tổ máy đến khoảng 600 MW”. Viện đã nhận chuyển giao công nghệ của Công ty FAM (Đức), đồng thời ký hợp đồng thiết kế, chế tạo, cung cấp hệ thống bốc dỡ than cho Dự án Nhiệt điện Sông Hậu. Đến nay, Narime đã làm chủ thiết kế hệ thống, có khả năng tự thiết kế hệ thống điện, hệ thống điều khiển, băng tải vận chuyển, tháp chuyển tiếp, giàn kết cấu thép (làm chủ được 60% công việc thiết kế, 50% tỷ lệ chế tạo thiết bị)... (4) Hệ thống khử lưu huỳnh: thông thường giá thành của hệ thống này khoảng 70-100 triệu USD và chúng ta phải nhập 100% của nước ngoài. Để thiết kế, chế tạo trong nước thiết bị này cần một số điều kiện sau: phải chỉ định thầu cho một doanh nghiệp trong nước thực hiện gói thầu (theo Quyết định số 1791), nhận chuyển giao công nghệ thiết kế thiết bị từ nhà thầu phụ nước ngoài. Để hỗ trợ nhận chuyển giao và làm chủ công nghệ, Bộ KH&CN đã giao cho Narime thực hiện đề tài “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và đưa vào vận hành hệ thống khử ô xít lưu huỳnh trong khói lò (FGD) cho nhà máy nhiệt điện đốt than có công suất tổ máy đến khoảng 600 MW”. Viện đã chủ động liên kết với nhiều đối tác nước ngoài như MHPS của Nhật Bản, KC Cotrell của Hàn Quốc, Andritz của Áo để tiếp thu công nghệ, tham gia đấu thầu các gói thầu về cung cấp hệ thống FGD cho các dự án đại tu, lắp mới hệ thống FGD cho các nhà máy nhiệt điện đang vận hành tại Việt Nam như các dự án nhiệt điện Quảng Ninh, Hải Phòng, Phả Lại, Uông Bí... Việc làm chủ công nghệ đối với hệ thống khử lưu huỳnh hiện còn phụ thuộc vào địa chỉ áp dụng. Viện hy vọng sẽ sớm tìm được địa chỉ ứng dụng để thực hiện thành công đề tài.(5) Thiết bị thải tro xỉ:trong các dự án nhiệt điện, thiết bị thải tro xỉ phải nhập khẩu đồng bộ từ nước ngoài (trừ một vài dự án do Nhật Bản hoặc Hàn Quốc làm tổng thầu, các nhà thầu Việt Nam được thuê lại làm phần kết cấu thép). Để khắc phục tình trạng trên, Bộ KH&CN đã giao Narime thực hiện đề tài: “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và đưa vào vận hành hệ thống thải tro xỉ đồng bộ cho nhà máy nhiệt điện đốt than phun có công suất tổ máy đến khoảng 600 MW”. Về thiết kế, Narime đã có thể thực hiện việc thiết kế trên cơ sở thiết kế của nước ngoài, riêng phần điện, tự động hóa đã làm chủ toàn bộ thiết kế. Về chế tạo, trừ các thiết bị tiêu chuẩn như bơm, động cơ, hộp số, van... phần còn lại có thể được chế tạo trong nước với tỷ lệ nội địa hóa đến 50% cả hệ thống.(6) Thiết bị ống khói:Bộ KH&CN đã giao Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama) thực hiện nhiệm vụ: “Nghiên cứu thiết kế, chế tạo và đưa vào vận hành hệ thống thải khói cho các nhà máy nhiệt điện đốt than có công suất tổ máy đến 600 MW”. Đến thời điểm hiện tại, Lilama đang thực hiện thiết kế, chế tạo và cung cấp hệ thống ống khói cho Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu.(7) Hệ thống nước làm mát tuần hoàn:đã được Lilama 18 thực hiện thiết kế chi tiết dựa trên thiết kế cơ sở của nhà thầu nước ngoài. Về chế tạo, ngoài phần bơm, động cơ, hộp số phải mua của nước ngoài, phần còn lại do Lilama 18 tự thực hiện.(8) Trạm phân phối và máy biến áp: Công ty chế tạo thiết bị điện Đông Anh thiết kế, chế tạo máy biến áp cho các tổ máy 600 MW không chỉ phục vụ cho nhiệt điện mà còn phục vụ cho truyền tải và các nhà máy thủy đi ện. Hệ thống bốc dỡ và vận chuyển than tại nhà máy nhiệt điện.(9) Hệ thống phòng cháy, chữa cháy:Narime đã kết hợp với Công ty Thăng Long, đơn vị thực hiện hợp đồng cung cấp hệ thống phòng cháy, chữa cháy cho Dự án nhiệt điện Sông Hậu 1. Đến nay, Narime và Công ty Thăng Long có khả năng thiết kế và chế tạo hệ thống phòng cháy, chữa cháy với tỷ lệ nội địa hóa tới trên 70%.(10) Thiết bị lọc bụi tĩnh điện:đã được Narime thiết kế, chế tạo với tỷ lệ nội địa hóa gần 80%. Với sản phẩm này, Narime đã làm chủ công nghệ sản xuất các thành phần chính và khó, quyết định đến chất lượng của thiết bị như: tấm cực lắng, thanh gai cực phóng, quả búa bộ phận gõ rũ bụi. Ngoài ra, Viện còn chế tạo và tích hợp thành công hệ thống thiết bị máy cán chuyên dụng sản xuất điện cực lắng, thiết bị máy cán - đột chuyên dụng sản xuất điện cực phóng, thiết bị đồ gá gia công chuyên dụng sản xuất các chi tiết bộ búa gõ rũ bụi.Thành công từ sự vào cuộc của các bộ, ngành và doanh nghiệp(11) Có được những kết quả nêu trên là do sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ thông qua việc ban hành hàng loạt các chính sách nhằm hỗ trợ doanh nghiệp cơ khí chế tạo trong nước tham gia nội địa hóa thiết bị nhà máy nhiệt điện (điển hình là Quyết định 1791). Bên cạnh đó, việc triển khai 12 nhiệm vụ thuộc dự án KHCN “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và đưa vào vận hành một số hệ thống thiết bị phụ nhà máy nhiệt điện chạy than có công suất tổ máy khoảng 600 MW” đã thể hiện quyết tâm lớn của Bộ KH&CN, Bộ Công Thương, Narime cùng các nhà khoa học và doanh nghiệp tham gia trong quá trình nội địa hóa thiết bị nhà máy nhiệt điện. Từ chỗ chưa có nhiều kinh nghiệm trong thiết kế hệ thống, đồng bộ một nhà máy nhiệt điện đốt than công suất đến 600 MW, nhưng qua thực tế đầu tư xây dựng các nhà máy nhiệt điện trong một vài năm gần đây, chúng ta đã từng bước nắm bắt được công nghệ thiết kế, chế tạo và thu được nhiều kinh nghiệm trong quản lý dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện đốt than. Đến thời điểm hiện tại chúng ta đã làm chủ được thiết kế và chế tạo thiết bị lọc bụi tĩnh điện với tỷ lệ nội địa hóa khoảng 80%; làm chủ thiết kế, chế tạo hệ thống bốc dỡ, vận chuyển than với tỷ lệ nội địa hóa trên 50%; làm chủ thiết kế, chế tạo hệ thống thiết bị thải tro xỉ với tỷ lệ nội địa hóa trên 50%...(12) Đặc biệt, chủ đầu tư của các dự án nhiệt điện đã thay đổi nhận thức, mạnh dạn giao cho các nhà thầu trong nước thực hiện thiết kế, chế tạo một số thiết bị trong các nhà máy nhiệt điện. Các tổng thầu EPC (trong đó có chủ đầu tư và nhà thầu nước ngoài) cũng đã giao cho các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam thực hiện các gói thầu chế tạo thiết bị theo hình thức nhà thầu phụ; nhiều dự án đã được giao cho các doanh nghiệp trong nước là tổng thầu EPC như tại các dự án Vũng Áng 1, Thái Bình 1, Vĩnh Tân 4, Sông Hậu 1, góp phần tăng tỷ lệ nội địa hóa, mang lại hiệu quả chung của các dự án. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tham gia dự án đã kết hợp tốt việc thực hiện hợp đồng kinh tế với thực hiện nhiệm vụ KH&CN để nghiên cứu, nhận chuyển giao công nghệ, từ đó làm chủ công nghệ. Kết hợp được đấu thầu mua bán thiết bị, công nghệ kèm theo điều kiện chuyển giao công nghệ, biết cách nhận chuyển giao công nghệ qua việc thực hiện hợp đồng kinh tế. Các doanh nghiệp đã nghiêm túc đào tạo nguồn nhân lực để thực hiện việc nội địa hóa. (13) Mặc dù đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, nhưng cũng còn một số vấn đề bất cập như: nhiều chủ đầu tư dự án nhiệt điện đã không thực hiện nghiêm túc Quyết định 1791. Một số chủ đầu tư chỉ nhìn thấy những lợi ích trước mắt mà “phớt lờ” những rủi ro có thể gặp như bị tăng vốn đầu tư, giải ngân chậm tiến độ, chất lượng thiết bị không đảm bảo... Bên cạnh đó, một số nhà thầu trong nước khi được chỉ định thầu thực hiện các hạng mục của dự án nhiệt điện không thực hiện tốt công việc của mình (tiến độ, chất lượng, công nghệ các thiết bị phụ trợ do doanh nghiệp cơ khí trong nước sản xuất không đáp yêu cầu...), dẫn đến các chủ đầu tư không tin tưởng để bóc tách các hạng mục giao cho các nhà thầu trong nước. (14) Việc nội địa hóa thiết bị nhà máy nhiệt điện có thành công hay không tùy thuộc vào việc Chính phủ chỉ đạo các bộ/ngành thực hiện đúng các nội dung trong Quyết định số 1791/QĐ-TTg, nếu Quyết định này không được thực hiện nghiệm túc, chương trình có thể không đạt được mục tiêu và việc đầu tư, xây dựng các nhà máy nhiệt điện sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào nhà thầu nước ngoài. Nếu chúng ta thực hiện Quyết định 1791 một cách nghiêm túc, sự thành công của chương trình nội địa hóa thiết bị nhiệt điện sẽ đem lại lợi ích kinh tế lớn tương tự như các lợi ích chúng ta đã đạt được trong chương trình nội địa hóa thiết bị nhà máy thủy điện trước đây.(Nguồn: “Đẩy mạnh nội địa hóa các thiết bị của nhà máy nhiệt điện”, Nguyễn Chỉ Sáng, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)Nội địa hóa thiết bị được hiểu là gì?
1. Ngày 20.07.1969 Neil Armstrong đặt chân lên Mặt Trăng, đánh dấu cột mốc quan trọng của nhân loại. Nhưng đằng sau đó là một cuộc đua quyết liệt giữa Mỹ và Liên Xô.
2. Công nghệ tên lửa vũ trụ hiện đại được khởi nguồn từ Viện nghiên cứu quân sự của Đức Quốc xã với giám đốc kỹ thuật Wernher von Braun khi đó tuổi đời còn rất trẻ. Đỉnh cao trong sự nghiệp của ông là việc phát triển thành công tên lửa cỡ lớn dài 14 mét có tên V2. Tháng 10/1942 V2 được phóng thành công lên tới độ cao 84,5 km (vượt qua ranh giới bầu khí quyển 80 km - theo tiêu chuẩn của NASA hiện nay), và đạt đến độ cao 174,6 km hai năm sau đó. Từ năm 1944, tên lửa này bị coi là mối nguy tiềm tàng đối với nhiều nước.
3. Cả người Nga và người Mỹ đều ý thức được sự vượt trội về công nghệ tên lửa của Đức. Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, họ đã tìm mọi cách Vơ vét tất cả những gì liên quan đến tên lửa V2. Ngay đến bảo tàng của Đức ở Peeneminde cũng chỉ có bản sao của V2 để giới thiệu với công chúng.
4. Người ta không chỉ lấy đi các nguyên liệu, bản vẽ mà cả những tác giả của công nghệ tên lửa. Những chuyên gia tên lửa hàng đầu của Đức đã cùng với Wernher von Braun nhanh chóng chạy về vùng Bayern để đầu hàng quân đội Mỹ. Một số người khác, tài năng không kém, thì rơi vào tay quân Nga. Nhưng bọn họ đã nhanh chóng được thả sau khi khai báo mọi thông tin cho Sergei Pavlovich Korolev (1906-1966).
5. Sergei Pavlovich Korolev có một thời gian dài ở Đông Đức để nghiên cứu về V2, nhờ đó ông đã phát triển thành công tên lửa R1 của Liên Xô. Không lâu sau đó cuộc chạy đua phát triển tên lửa liên lục địa quân sự giữa Mỹ và Liên Xô đã nổ ra đều dựa trên nền tảng V2.
6. Bước ngoặt xảy ra khi Liên Xô Poing Sputnik I am 1957. Nó trở thành củ SỐC lớn đối với nước Mỹ. Sau đó Liên Xô tiếp tục dẫn trước: "Luna 2" thực hiện chuyến hạ cánh cứng đầu tiên lên Mặt Trăng vào năm 1959, Yuri Gagarin là người đầu tiên bay quay quanh Trái Đất vào năm 1961 trên tàu vũ trụ "Vostok 1". Để đối chọi với “Sputnik” Mỹ tung ra dự án “Vanguard”. Tuy nhiên đây là một thất bại, trong số 12 cuộc phóng thì 9 không thành công. Các chuyên gia tên lửa của Đức không tham gia dự án này, họ được giao phát triển tên lửa quân sự Redstone trên nền so tàng V2.
7. 1961 là năm bản lề đối với hành trình chinh phục Mặt Trăng của loài người. Ngày 25.05.1961, Tổng thống Kennedy tuyên bố mục tiêu ngay trong thập niên này sẽ đưa người lên Mặt Trăng và trở về an toàn. Đây là một dự án đầy tham vọng và vô cùng tốn kém nhưng được khích lệ bởi quyết tâm không để thua Liên Xô một lần nữa.
8. Cũng trong năm đó Liên Xô đưa ra một chương trình Mặt Trăng tương tự, nhưng giữ bí mật. Chương trình chinh phục Mặt Trăng Apollo của Mỹ do Cơ quan không gian dân dụng NASA, ra đời năm 1958, chịu trách nhiệm. Wernher von Braun và đội ngũ của ông đóng một vai trò then chốt cho dù NASA thời kỳ đầu có tới 450.000 nhân sự tham gia giải quyết một khối lượng công việc khổng lồ mà thoạt đầu tưởng chừng to không thể kham nổi.
9. Von Braun có nhiệm vụ phát triển tên lửa Saturn V với chiều cao 111 mét, cho đến nay vẫn là loại tên lửa đẩy lớn nhất thế giới. Các bộ phận riêng lẻ được lắp ráp với nhau trong một nhà xưởng cao tới 160 mét ở Trung tâm Vũ trụ John F. Kennedy (KFC). Ngay trong chuyến bay thử đầu tiên vào ngày 9.11.1967 Saturn V đã thành công. Có thể nói toàn bộ chương trình tên lửa đẩy khổng lồ của Mỹ hầu như không gặp trục trặc đáng kể nào. Phải chăng von Braun và các cộng sự của ông đã gặp nhiều may mắn? Nhưng, may mắn chỉ đến với những người thực sự tài năng và có quyết tâm.
10. Trong khi đó Liên Xô vẫn lặng lẽ bí mật xúc tiến chương trình của mình. Đối thủ của Apollo khi đó là tàu vũ trụ Sojus, vẫn còn hoạt động cho tới ngày nay. Ngay trong 1 chuyến bay đầu tiên đã xảy ra một tai nạn chết người, khi hạ cánh dù không hoạt động. Để phục vụ cho các chuyến bay lên Mặt Trăng, Liên Xô dự định sử dụng loại tên lửa đẩy N1, cao 105 mét. Trong khi dự án đang được triển khai, ngành du hành vũ trụ Liên Xô đã bị một cú đánh trời giáng. Tổng công trình sư thiên tài Sergei Pavlovich Korolev qua đời vào năm 1966 trong một ca phẫu thuật bệnh tim.
11. Hai kỳ phùng địch thủ Korolev và von Braun nay đã chỉ còn lại một. Nếu như Korolev không phải rời khỏi cuộc đua vì bệnh tật và cái chết, điều gì sẽ xảy ra? Sau đó thì phía Liên Xô ngày càng bế tắc. Tất cả bốn cuộc thử tên lửa từ 1969 đến 1972 đều trục trặc, không thành công, đến đây cuộc chạy đua coi như đã bị thất bại, Liên Xô ngừng chương trình Mặt Trăng.
(Theo Xuân Hoài lược dịch, Lịch sử cuộc đua lên Mặt Trăng, Tạp chí Tia sáng, ngày 08/03/2021)
Ý nào sau đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước
(1) Trong giai đoạn 2015- 2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đứng trước những thử thách to lớn, đó là một mặt phải đứng vững, phát triển trong cơ chế tự chủ theo tinh thần Nghị định 115 (sau này là Nghị định 54) của Chính phủ; mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ bám sát thực tế, triển khai hoạt động ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển kinh tế của đất nước. Trong Điều lệ hoạt động của Viện đã được Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành kèm theo Quyết định số
2712/QĐ-BKHCN ngày 19/9/2018 ghi rõ nhiệm vụ của Viện là: “Nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ cao, công nghệ mới về các lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao vào sản xuất và đời sống, trong đó tập trung vào công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh và an ninh quốc phòng”. Tại Kế hoạch hành động của Bộ KH&CN thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, ban hành theo Quyết định số 1749/QĐ-BKHCN ngày 30/6/2017 của Bộ trưởng Bộ KH&CN, Viện Ứng dụng Công nghệ được giao chủ trì và tham gia thực hiện các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và đô thị thông minh. Bám sát các định hướng trên, Viện Ứng dụng Công nghệ đã đồng thời đẩy mạnh hoạt động trên cả hai hướng nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, dịch vụ KH&CN.
(2) Riêng từ 2015-2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp xây dựng, tổ chức thực hiện hàng loạt nhiệm vụ KH&CN các cấp: 20 nhiệm vụ cấp quốc gia, hơn 50 nhiệm vụ cấp bộ, 03 nhiệm vụ cấp tỉnh và hàng chục nhiệm vụ cấp viện. Nhiều kết quả từ các nhiệm vụ trên đã tạo ra sản phẩm KH&CN có ý nghĩa thiết thực, nổi trội.
(3) Ngoài các thiết bị laser công nghiệp và điện tử y tế đã được xã hội thừa nhận rộng rãi và đánh giá cao hàng chục năm qua, sản phẩm nổi bật gần đây được phát triển là thiết bị vi điểm phẫu thuật Fractional Laser - sản phẩm tiêu biểu về thiết bị laser phục vụ y tế, được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chứng nhận đạt Top 10 sản phẩm tại Triển lãm “ Tự hào trí tuệ lao động Việt Nam ” lần thứ hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng “ Bằng lao động sáng tạo” ; thiết bị quang đông cầm máu Argon Plasma (APC) - là công trình tiêu biểu nổi bật trong Chương trình Ấn tượng KH&CN Việt Nam năm 2018. Hợp đồng hàn tấm lọc nhiễu điện thoại di động cho Tập đoàn Samsung của Trung tâm Công nghệ Laser với độ chính xác cao đã được đối tác Hàn Quốc ký kết hợp đồng gia công sản xuất sản phẩm linh phụ kiện cho điện thoại di động; các hợp đồng lắp đặt thiết bị y tế (máy laser He-Ne nội mạch và đa kênh trị liệu, thiết bị phẫu thuật laser CO 2 , thiết bị vi điểm phẫu thuật, thiết bị tán sỏi ngoài cơ thể...) đã được thực hiện, thiết thực phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
(4) Ứng dụng công nghệ fiber laser tiên tiến, một nhóm chuyên gia của Viện đang hợp tác chặt chẽ với Công ty Cổ phần thiết bị TAT chế tạo máy cắt 3D kim loại fiber laser có nguồn 1 kW đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường chế tạo ô tô, xe máy, sản xuất pin xe điện...
(5) Trong công nghệ mạ màng mỏng, Viện đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công công nghệ mạ màng phản xạ và màng bảo vệ gương kích thước lớn (đường kính 600 mm) sử dụng cho hệ Lidar tầm xa được phát triển tại Viện Vật lý (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), góp phần đưa Việt Nam lên vị trí dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong lĩnh vực thiết kế chế tạo hệ Lidar quan trắc môi trường; sản phẩm về mạ gương từ được Bộ Quốc phòng đặt hàng đang ở giai đoạn hoàn thiện cuối cùng.
(6) Bên cạnh đó, dự án “Cải tiến máy chỉ huy K59-03 phục vụ đánh đêm” do Quân chủng Phòng không Không quân là chủ đầu tư, Trung tâm Tích hợp Công nghệ tham gia thực hiện đã được nghiệm thu thành công. Kết quả kiểm tra bắn đạn thật tại Trường bắn TB1 tháng 11/2018 cho thấy máy chỉ huy cải tiến điều khiển đại đội pháo phòng không 57 mm bắn trúng mục tiêu ở cả điều kiện ban ngày và ban đêm, đạt mọi yêu cầu kỹ - chiến thuật được phê duyệt; hợp đồng chế tạo thiết bị quang điện tử cải tiến khí tài tên lửa do Trung tâm Công nghệ Laser thực hiện, đã thay thế công nghệ thu ảnh bằng linh kiện quang điện tử thế hệ mới, nâng cao khả năng quan sát, phát hiện mục tiêu của hệ thống quang truyền hình trên khí tài tên lửa Volga lên đến khoảng cách 80 km (trước kia chỉ đến 40 km) trong cả điều kiện ánh sáng yếu (0,01 Lux). Sản phẩm đã được triển khai lắp đặt và trang bị tại các đơn vị bộ đội tên lửa.
(7) Lĩnh vực vi điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa
Các nhiệm vụ KH&CN được triển khai khá nhiều và đa dạng. Một số các nhiệm vụ tập trung nghiên cứu chế tạo các thiết bị cảm biến dựa trên công nghệ MEMS/NEMS ứng dụng trong môi trường và y tế. Một số các nhiệm vụ khác thực hiện theo đặt hàng của các bộ/ngành như: Bộ Giao thông Vận tải (hệ thống thiết bị cảnh báo xe khách, hệ thống phòng vệ đoàn tàu tự động kiểu điểm, hệ thống điều khiển chạy tàu ga điện khí tập trung ứng dụng công nghệ vi điều khiển, phần mềm 3D mô phỏng hỗ trợ huấn luyện lái đầu máy diesel...); Bộ Công thương (bộ Duplexer, bộ khuyếch đại công suất và bộ tản nhiệt hiệu suất cao cho hệ thống RRU - Remote radio unit); Bộ Công an (phần mềm nhận dạng mặt người từ video); Bộ Quốc phòng (trạm thu thập dữ liệu trực tuyến đa kênh phục vụ điều khiển bắt bám mục tiêu di động); các địa phương như Phú Thọ (hệ thống thiết bị công nghệ cao phục vụ khai thác phát triển du lịch đền Hùng), Hà Nam (điều khiển tín hiệu nút giao thông thông minh, chiếu sáng thông minh); các doanh nghiệp như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (hoán cải toa xe than, giám sát băng tải), Tập đoàn Panasonic (hệ thống tự động phát hiện lỗi mạch điện thoại bằng xử lý ảnh)...
(8) Lĩnh vực sinh học, công nghệ chế biến và môi trường
Đây là lĩnh vực được nhiều địa phương quan tâm, mong muốn ứng dụng công nghệ cao để tạo ra sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng. Tiêu biểu là nhiệm vụ: “Nghiên cứu chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt” thuộc Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 theo đặt hàng của Công ty TNHH dừa Lương Quới (Bến Tre). Trong đó, Viện đã nghiên cứu, chế tạo thành công dây chuyền tách chiết dầu dừa ứng dụng công nghệ không gia nhiệt. Hệ thống đã đi vào hoạt động từ tháng 8/2017 tại Công ty TNHH dừa Lương Quới, với năng suất đạt 5.000.000 l/năm. Chất lượng sản phẩm dầu dừa tinh khiết không gia nhiệt đạt tiêu chuẩn quốc tế (theo APCC), đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ và châu Âu. Hiện tại, Công ty TNHH dừa Lương Quới đang cùng Viện tiếp tục thực hiện dự án “Hoàn thiện công nghệ chế biến và đóng gói Tetra - Pak cho sản phẩm nước dừa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long” để xuất khẩu. Hiện nay Viện đang hợp tác với Tập đoàn NTT-AT (Nhật Bản) thử nghiệm công nghệ chế biến thạch dừa đông khô phục vụ chế tạo sợi nano sử dụng trong pin năng lượng thân thiện môi trường.
(9) Với các địa phương khác, Viện đang nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ các giống cây trồng, vật nuôi chủ lực của địa phương như chế biến hành tím, lòng trắng trứng vịt muối cho tỉnh Sóc Trăng; sả hương cho Quảng Nam; dưa lưới, trầu không cho Hà Nam; bò Mông cho các tỉnh miền núi phía Bắc hoặc tạo ra các công nghệ, sản phẩm hỗ trợ như công nghệ nuôi tảo Spirulina nước lợ và sản suất một số sản phẩm thực phẩm từ sinh khối tảo này cho Thanh Hóa; sản phẩm Nacen Phos+Nacen Cu+Nacen Tricho giúp phòng ngừa triệt để bệnh đốm trắng gây hại trên Thanh Long tại Bình Thuận...
(10) Hướng bảo tồn, phát triển cây dược liệu cũng được Viện quan tâm, như đã hoàn thành nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen lan Kim Tuyến (Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl.); Chi nhánh phía Nam của Viện đã hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm kích thích hạt lúa nảy mầm Nacen-GA và chế phẩm kích thích ra hoa đậu quả Nacen-Pa, đưa ra thị trường hàng chục tấn sản phẩm, được nông dân các tỉnh phía Nam đánh giá cao.
(11) Viện cũng đã hợp tác với đối tác Hàn Quốc nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến ứng dụng trong lĩnh vực xử lý môi trường và nông nghiệp hữu cơ, đã triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải y tế công suất 100 m 3 /ngày đêm, đáp ứng nhu cầu cho một bệnh viện tại Hải Dương.
(12) Nhìn lại chặng đường 5 năm qua, hoạt động KH&CN của Viện Ứng dụng Công nghệ có những đặc điểm và kết quả sau: 1) Các nhiệm vụ KH&CN đã có bước chuyển biến mạnh mẽ trong đáp ứng nhu cầu thực tế của phát triển kinh tế - xã hội trong nước, bám sát các chương trình công tác phối hợp giữa Bộ KH&CN với các bộ, ngành, địa phương. Từ đó nhận đặt hàng từ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; số lượng các nhiệm vụ cấp quốc gia tăng mạnh so với thời gian trước; quan hệ hợp tác với các địa phương tăng cường mở rộng ở khắp các vùng miền trong nước, một số sản phẩm KH&CN bước đầu đã có hiệu quả, được thị trường đánh giá cao; 2) Nội hàm ứng dụng các công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như IoT, trí tuệ nhân tạo, Blockchain... đang gia tăng mạnh trong các nội dung nhiệm vụ KH&CN; 3) Nhiều nhiệm vụ KH&CN đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ các hướng nghiên cứu khác nhau như công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học... đã được thực hiện. Đây cũng là một lợi thế từ tính đa dạng về lĩnh vực nghiên cứu của Viện.
(13) Có thể nói, trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ KH&CN, các bộ/ngành cùng sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, viên chức và người lao động, Viện Ứng dụng Công nghệ đã toàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đạt được nhiều thành tích quan trọng trong nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập, nhất là việc chuyển đổi mô hình hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, với truyền thống đoàn kết, vượt khó, đi đầu trong nhiều lĩnh vực KH&CN, tập thể cán bộ, viên chức và người lao động Viện Ứng dụng Công nghệ quyết tâm phấn đấu xây dựng Viện trở thành một trong những Viện nghiên cứu ứng dụng tầm cỡ quốc gia.
(Nguồn: “Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước”, Lê Hùng Lân, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Những sáng chế trong lĩnh vực vi điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa phục vụ cho?
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước
(1) Trong giai đoạn 2015- 2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đứng trước những thử thách to lớn, đó là một mặt phải đứng vững, phát triển trong cơ chế tự chủ theo tinh thần Nghị định 115 (sau này là Nghị định 54) của Chính phủ; mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ bám sát thực tế, triển khai hoạt động ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển kinh tế của đất nước. Trong Điều lệ hoạt động của Viện đã được Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành kèm theo Quyết định số
2712/QĐ-BKHCN ngày 19/9/2018 ghi rõ nhiệm vụ của Viện là: “Nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ cao, công nghệ mới về các lĩnh vực thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao vào sản xuất và đời sống, trong đó tập trung vào công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, đô thị thông minh và an ninh quốc phòng”. Tại Kế hoạch hành động của Bộ KH&CN thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, ban hành theo Quyết định số 1749/QĐ-BKHCN ngày 30/6/2017 của Bộ trưởng Bộ KH&CN, Viện Ứng dụng Công nghệ được giao chủ trì và tham gia thực hiện các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp công nghệ cao và đô thị thông minh. Bám sát các định hướng trên, Viện Ứng dụng Công nghệ đã đồng thời đẩy mạnh hoạt động trên cả hai hướng nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, dịch vụ KH&CN.
(2) Riêng từ 2015-2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp xây dựng, tổ chức thực hiện hàng loạt nhiệm vụ KH&CN các cấp: 20 nhiệm vụ cấp quốc gia, hơn 50 nhiệm vụ cấp bộ, 03 nhiệm vụ cấp tỉnh và hàng chục nhiệm vụ cấp viện. Nhiều kết quả từ các nhiệm vụ trên đã tạo ra sản phẩm KH&CN có ý nghĩa thiết thực, nổi trội.
(3) Ngoài các thiết bị laser công nghiệp và điện tử y tế đã được xã hội thừa nhận rộng rãi và đánh giá cao hàng chục năm qua, sản phẩm nổi bật gần đây được phát triển là thiết bị vi điểm phẫu thuật Fractional Laser - sản phẩm tiêu biểu về thiết bị laser phục vụ y tế, được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chứng nhận đạt Top 10 sản phẩm tại Triển lãm “ Tự hào trí tuệ lao động Việt Nam ” lần thứ hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng “ Bằng lao động sáng tạo” ; thiết bị quang đông cầm máu Argon Plasma (APC) - là công trình tiêu biểu nổi bật trong Chương trình Ấn tượng KH&CN Việt Nam năm 2018. Hợp đồng hàn tấm lọc nhiễu điện thoại di động cho Tập đoàn Samsung của Trung tâm Công nghệ Laser với độ chính xác cao đã được đối tác Hàn Quốc ký kết hợp đồng gia công sản xuất sản phẩm linh phụ kiện cho điện thoại di động; các hợp đồng lắp đặt thiết bị y tế (máy laser He-Ne nội mạch và đa kênh trị liệu, thiết bị phẫu thuật laser CO 2 , thiết bị vi điểm phẫu thuật, thiết bị tán sỏi ngoài cơ thể...) đã được thực hiện, thiết thực phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
(4) Ứng dụng công nghệ fiber laser tiên tiến, một nhóm chuyên gia của Viện đang hợp tác chặt chẽ với Công ty Cổ phần thiết bị TAT chế tạo máy cắt 3D kim loại fiber laser có nguồn 1 kW đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường chế tạo ô tô, xe máy, sản xuất pin xe điện...
(5) Trong công nghệ mạ màng mỏng, Viện đã nghiên cứu và thử nghiệm thành công công nghệ mạ màng phản xạ và màng bảo vệ gương kích thước lớn (đường kính 600 mm) sử dụng cho hệ Lidar tầm xa được phát triển tại Viện Vật lý (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), góp phần đưa Việt Nam lên vị trí dẫn đầu khu vực Đông Nam Á trong lĩnh vực thiết kế chế tạo hệ Lidar quan trắc môi trường; sản phẩm về mạ gương từ được Bộ Quốc phòng đặt hàng đang ở giai đoạn hoàn thiện cuối cùng.
(6) Bên cạnh đó, dự án “Cải tiến máy chỉ huy K59-03 phục vụ đánh đêm” do Quân chủng Phòng không Không quân là chủ đầu tư, Trung tâm Tích hợp Công nghệ tham gia thực hiện đã được nghiệm thu thành công. Kết quả kiểm tra bắn đạn thật tại Trường bắn TB1 tháng 11/2018 cho thấy máy chỉ huy cải tiến điều khiển đại đội pháo phòng không 57 mm bắn trúng mục tiêu ở cả điều kiện ban ngày và ban đêm, đạt mọi yêu cầu kỹ - chiến thuật được phê duyệt; hợp đồng chế tạo thiết bị quang điện tử cải tiến khí tài tên lửa do Trung tâm Công nghệ Laser thực hiện, đã thay thế công nghệ thu ảnh bằng linh kiện quang điện tử thế hệ mới, nâng cao khả năng quan sát, phát hiện mục tiêu của hệ thống quang truyền hình trên khí tài tên lửa Volga lên đến khoảng cách 80 km (trước kia chỉ đến 40 km) trong cả điều kiện ánh sáng yếu (0,01 Lux). Sản phẩm đã được triển khai lắp đặt và trang bị tại các đơn vị bộ đội tên lửa.
(7) Lĩnh vực vi điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa
Các nhiệm vụ KH&CN được triển khai khá nhiều và đa dạng. Một số các nhiệm vụ tập trung nghiên cứu chế tạo các thiết bị cảm biến dựa trên công nghệ MEMS/NEMS ứng dụng trong môi trường và y tế. Một số các nhiệm vụ khác thực hiện theo đặt hàng của các bộ/ngành như: Bộ Giao thông Vận tải (hệ thống thiết bị cảnh báo xe khách, hệ thống phòng vệ đoàn tàu tự động kiểu điểm, hệ thống điều khiển chạy tàu ga điện khí tập trung ứng dụng công nghệ vi điều khiển, phần mềm 3D mô phỏng hỗ trợ huấn luyện lái đầu máy diesel...); Bộ Công thương (bộ Duplexer, bộ khuyếch đại công suất và bộ tản nhiệt hiệu suất cao cho hệ thống RRU - Remote radio unit); Bộ Công an (phần mềm nhận dạng mặt người từ video); Bộ Quốc phòng (trạm thu thập dữ liệu trực tuyến đa kênh phục vụ điều khiển bắt bám mục tiêu di động); các địa phương như Phú Thọ (hệ thống thiết bị công nghệ cao phục vụ khai thác phát triển du lịch đền Hùng), Hà Nam (điều khiển tín hiệu nút giao thông thông minh, chiếu sáng thông minh); các doanh nghiệp như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (hoán cải toa xe than, giám sát băng tải), Tập đoàn Panasonic (hệ thống tự động phát hiện lỗi mạch điện thoại bằng xử lý ảnh)...
(8) Lĩnh vực sinh học, công nghệ chế biến và môi trường
Đây là lĩnh vực được nhiều địa phương quan tâm, mong muốn ứng dụng công nghệ cao để tạo ra sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng. Tiêu biểu là nhiệm vụ: “Nghiên cứu chiết tách dầu dừa tinh khiết bằng công nghệ không gia nhiệt” thuộc Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 theo đặt hàng của Công ty TNHH dừa Lương Quới (Bến Tre). Trong đó, Viện đã nghiên cứu, chế tạo thành công dây chuyền tách chiết dầu dừa ứng dụng công nghệ không gia nhiệt. Hệ thống đã đi vào hoạt động từ tháng 8/2017 tại Công ty TNHH dừa Lương Quới, với năng suất đạt 5.000.000 l/năm. Chất lượng sản phẩm dầu dừa tinh khiết không gia nhiệt đạt tiêu chuẩn quốc tế (theo APCC), đáp ứng được yêu cầu của thị trường Mỹ và châu Âu. Hiện tại, Công ty TNHH dừa Lương Quới đang cùng Viện tiếp tục thực hiện dự án “Hoàn thiện công nghệ chế biến và đóng gói Tetra - Pak cho sản phẩm nước dừa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long” để xuất khẩu. Hiện nay Viện đang hợp tác với Tập đoàn NTT-AT (Nhật Bản) thử nghiệm công nghệ chế biến thạch dừa đông khô phục vụ chế tạo sợi nano sử dụng trong pin năng lượng thân thiện môi trường.
(9) Với các địa phương khác, Viện đang nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ các giống cây trồng, vật nuôi chủ lực của địa phương như chế biến hành tím, lòng trắng trứng vịt muối cho tỉnh Sóc Trăng; sả hương cho Quảng Nam; dưa lưới, trầu không cho Hà Nam; bò Mông cho các tỉnh miền núi phía Bắc hoặc tạo ra các công nghệ, sản phẩm hỗ trợ như công nghệ nuôi tảo Spirulina nước lợ và sản suất một số sản phẩm thực phẩm từ sinh khối tảo này cho Thanh Hóa; sản phẩm Nacen Phos+Nacen Cu+Nacen Tricho giúp phòng ngừa triệt để bệnh đốm trắng gây hại trên Thanh Long tại Bình Thuận...
(10) Hướng bảo tồn, phát triển cây dược liệu cũng được Viện quan tâm, như đã hoàn thành nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen lan Kim Tuyến (Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl.); Chi nhánh phía Nam của Viện đã hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm kích thích hạt lúa nảy mầm Nacen-GA và chế phẩm kích thích ra hoa đậu quả Nacen-Pa, đưa ra thị trường hàng chục tấn sản phẩm, được nông dân các tỉnh phía Nam đánh giá cao.
(11) Viện cũng đã hợp tác với đối tác Hàn Quốc nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến ứng dụng trong lĩnh vực xử lý môi trường và nông nghiệp hữu cơ, đã triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải y tế công suất 100 m 3 /ngày đêm, đáp ứng nhu cầu cho một bệnh viện tại Hải Dương.
(12) Nhìn lại chặng đường 5 năm qua, hoạt động KH&CN của Viện Ứng dụng Công nghệ có những đặc điểm và kết quả sau: 1) Các nhiệm vụ KH&CN đã có bước chuyển biến mạnh mẽ trong đáp ứng nhu cầu thực tế của phát triển kinh tế - xã hội trong nước, bám sát các chương trình công tác phối hợp giữa Bộ KH&CN với các bộ, ngành, địa phương. Từ đó nhận đặt hàng từ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; số lượng các nhiệm vụ cấp quốc gia tăng mạnh so với thời gian trước; quan hệ hợp tác với các địa phương tăng cường mở rộng ở khắp các vùng miền trong nước, một số sản phẩm KH&CN bước đầu đã có hiệu quả, được thị trường đánh giá cao; 2) Nội hàm ứng dụng các công nghệ nền tảng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như IoT, trí tuệ nhân tạo, Blockchain... đang gia tăng mạnh trong các nội dung nhiệm vụ KH&CN; 3) Nhiều nhiệm vụ KH&CN đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ các hướng nghiên cứu khác nhau như công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học... đã được thực hiện. Đây cũng là một lợi thế từ tính đa dạng về lĩnh vực nghiên cứu của Viện.
(13) Có thể nói, trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ KH&CN, các bộ/ngành cùng sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, viên chức và người lao động, Viện Ứng dụng Công nghệ đã toàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, đạt được nhiều thành tích quan trọng trong nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh phát triển và hội nhập, nhất là việc chuyển đổi mô hình hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, với truyền thống đoàn kết, vượt khó, đi đầu trong nhiều lĩnh vực KH&CN, tập thể cán bộ, viên chức và người lao động Viện Ứng dụng Công nghệ quyết tâm phấn đấu xây dựng Viện trở thành một trong những Viện nghiên cứu ứng dụng tầm cỡ quốc gia.
(Nguồn: “Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển KT-XH đất nước”, Lê Hùng Lân, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Trong giai đoạn 2015- 2019, Viện Ứng dụng Công nghệ đã định hướng phát triển khoa học công nghệ theo hướng nào?