Danh sách câu hỏi ( Có 59,814 câu hỏi trên 1,197 trang )

Máy quang phổ khối Bainbridge có sơ đồ như hình bên là một thiết bị dùng để xác định khối lượng nguyên tử. Các nguyên tử bị mất electron trở thành các ion dương. Một chùm ion dương tạo ra từ ống phóng điện được đi vào bộ chọn vận tốc. Bộ chọn vận tốc bao gồm hai tấm phẳng song song $P_1$ và $P_2$ tạo ra điện trường đều có cường độ $\vec{E}$ và một nam châm điện tạo ra từ trường đều có cảm ứng từ $\vec{B}$, trong đó $\vec{E}$ và $\vec{B}$ vuông góc với nhau và vuông góc với hướng bay của chùm ion dương. Những ion không bị lệch quỹ đạo trong bộ chọn vận tốc mới tiếp tục thoát ra và đi vào buồng từ trường đều $\vec{B'}$ theo phương vuông góc với đường sức từ. Các ion này chuyển động theo các quỹ đạo là các nửa đường tròn. Các ion có khối lượng khác nhau có bán kính quỹ đạo khác nhau và tạo ra các vạch tối trên tấm kính ảnh. Khoảng cách giữa lỗ mờ $S$ của buồng và vị trí của vạch tối chính là đường kính $2R$ của quỹ đạo của ion. a) Tất cả các ion đều được tăng tốc khi đi qua bộ chọn vận tốc. b) Vận tốc của những ion thoát ra khỏi bộ chọn vận tốc là $v=\dfrac{E}{B}$. c) Lực từ do từ trường đều $\vec{B'}$ tác dụng lên ion đi vào nó gây ra gia tốc hướng tâm cho ion. d) Khối lượng của ion chuyển động theo quỹ đạo bán kính $R$ trong từ trường đều $\vec{B'}$ là $m=\dfrac{|q|\,B\,B'\,R}{E}$.

Xem chi tiết 19 lượt xem 1 tuần trước

Ngày 12/9/2014, một sự cố nghiêm trọng xảy ra tại TP.HCM khi Công ty TNHH Apave Châu Á – Thái Bình Dương báo cáo bị thất lạc một thiết bị chứa nguồn phóng xạ Iridium-192Ir dùng trong kiểm tra mối hàn công nghiệp. Theo hồ sơ ghi nhận vào thời điểm bàn giao thiết bị, nguồn $^{192}\mathrm{Ir}$ có khối lượng ban đầu 5,0 g, được cất giữ trong một thiết bị bọc chì chuyên dụng. Chu kỳ bán rã của $^{192}\mathrm{Ir}$ là khoảng 74 ngày và mỗi phân rã phát ra tia gamma mạnh. Một năm sau sự cố, các nhà chức trách tiến hành rà soát lại các thiết bị còn tồn đọng, đồng thời đo hoạt độ còn lại để xác định mức độ nguy hiểm. a. Hằng số phóng xạ của $^{192}\mathrm{Ir}$ xấp xỉ bằng $9,4 \cdot 10^{-3}\ \mathrm{s}^{-1}$. b. Bức xạ gamma trong quá trình phân rã có khả năng gây tổn thương sinh học ở khoảng cách vài mét nếu không được che chắn đúng cách. c. Sau đúng 1 năm (365 ngày), lượng $^{192}\mathrm{Ir}$ còn lại trong nguồn ban đầu chỉ khoảng 4,84 g. d. Sau khi tìm lại được nguồn phóng xạ, cơ quan chức năng đo được hoạt độ còn lại là $0,038\ \mathrm{TBq}$. Biết giới hạn cho phép để công bố “nguồn an toàn” là dưới $0,005\ \mathrm{TBq}$. Vậy cần ít nhất 217 ngày mới có thể tháo gỡ cách ly và xử lý như chất thải thông thường.

Xem chi tiết 20 lượt xem 1 tuần trước

Vào thời kháng chiến chống Mỹ, địa đạo Củ Chi là nơi đóng quân chiến lược, trong đó có các bệnh viện dã chiến nằm sâu dưới lòng đất. Địa đạo được thiết kế hẹp và kín, nhằm tránh sự phát hiện từ phía trên, nên không khí lưu thông rất hạn chế. Để đảm bảo sự sống cho thương binh và y bác sĩ, lực lượng du kích phải dùng ống thông khí dẫn từ mặt đất xuống. Một bệnh viện dã chiến có một căn hầm nhỏ kín có thể tích khoảng 15 m$^3$, bên trong chứa khí O$_2$ tinh khiết ở nhiệt độ 30$^\circ$C, áp suất 1 atm. Do bị bom đánh phá, đường ống thông khí bị sập, không thể dẫn thêm khí vào trong. Nhiệt độ trong hầm do hơi người và thiết bị tăng dần đến 42$^\circ$C sau 6 giờ. Xem khí O$_2$ là khí lý tưởng và thể tích của ống dẫn rất nhỏ so với thể tích của căn hầm. a. Áp suất của khí O$_2$ trong hầm sau 6 giờ xấp xỉ bằng 1,04 atm. b. Nếu cửa thông khí sau 6 giờ bất ngờ được khai thông trở lại, khí O$_2$ trong hầm sẽ có xu hướng thoát nhanh ra ngoài theo đường thông khí. c. Tổng số phân tử O$_2$ trong căn hầm xấp xỉ $3,63 \cdot 10^{26}$ phân tử. d. Nếu một chiến sĩ cần $6,0 \cdot 10^{22}$ phân tử O$_2$/phút để duy trì sự sống cơ bản thì căn hầm có thể cung cấp đủ O$_2$ cho 20 người trong 6 giờ.

Xem chi tiết 54 lượt xem 1 tuần trước