Danh sách câu hỏi

Có 4780 câu hỏi trên 96 trang
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: Ở Chợ Lớn với nhiều kinh rạch nối với miền Tây, người Việt đã tổ chức đua thuyền và hát bội trong dịp lễ cầu mưa vào năm 1864. Hát bội như vậy rất được ưa chuộng trong dân chúng và thường các buổi lễ đều có trình diễn các tuồng cho dân xem. Tờ Le Monde Illustré ngày 17/02/1877 có bài viết về một buổi đi xem hát bội ở Chợ Lớn và cho biết Chợ Lớn đã có rạp hát bội này từ lâu: “... Từ lâu lắm rồi, Chợ Lớn đã có một rạp hát bội. Rạp này vừa mới được tu sửa lại. Vào mỗi buổi tối, một đám rất đông người tụ tập ở đó. Người Hoa và người An Nam là những khán giả “ruột” của rạp. Và ngay cả người Âu không khinh chê hát bội đôi khi họ cũng đến xem hát trong vài tiếng đồng hồ. Cảnh mà người ta xem trình diễn thật là lí thú. Sự lộng lẫy và đa dạng của trang phục, cái độc đáo của các nón đội, hình dáng kì dị đặc trưng của các mặt nạ trang trí với râu dài quá mức, vải lụa óng ánh rực rỡ với nhiều đường thêu; tuồng hát với các diễn viên được trời ban cho một tài năng bắt chước rất lỗi lạc; âm nhạc, hay nói đúng hơn là tiếng ồn hoang dã của dàn nhạc trên sân khấu; những tiếng cọt kẹt của đàn ba dây; những tiếng la xé tai của kèn ô-boa (hautbois); những tiếng sấm sét của cồng chiêng đánh theo giọng nói rất cao và chói tai của các nghệ sĩ; tóm lại, tất cả cái tập hợp quái lạ này, cho ta thấy một cảnh tượng ngoạn mục, thu hút và đôi khi khiến chúng ta ngạc nhiên, thảng thốt. Điều không may mắn là, để có cái thú vui này thì phải trả giá khá đắt, bởi vì ảnh sáng từ dầu dừa, tuy đem lại sự huy hoàng của sân khấu, những mùi dầu dừa bị đốt cháy choán đầy không khí lại làm thít cổ họng của những người Âu mảnh dẻ, trong những giờ diễn đầu tiên... (Nguyễn Đức Hiệp, Nghệ thuật sân khấu: hát bội, đờn ca tài tử và cải lương ở Sài Gòn và Nam Kỳ cuối thế kỉ XIX đến 1945, NXB Văn hoá – Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr. 21 – 22)   Xác định các ý chính, ý phụ trong văn bản.
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: “Chúng ta đều là anh chị em với máy móc của chúng ta, nhà sử học công nghệ Gioóc-giơ Đi-xơn (George Dyson) đã từng lưu ý như vậy. Quan hệ anh chị em rất gần gũi, và mối quan hệ với người họ hàng công nghệ của chúng ta cũng như vậy. Chúng ta yêu thích máy móc – không chỉ vì chúng có ích cho chúng ta, mà còn bởi vì chúng ta thấy chúng thân mật và thậm chí còn đẹp đẽ nữa. Trong một chiếc máy được chế tạo tốt, chúng ta thấy một số ước muốn sâu xa nhất của chúng ta được thể hiện: mong muốn hiểu được thế giới và sự vận hành của nó, mong muốn mang sức mạnh của thiên nhiên phục vụ cho những mục tiêu riêng, mong muốn bổ sung một cái gì đó mới và hợp sở thích của chúng ta vào vũ trụ, mong muốn được kinh hãi và sửng sốt. Một chiếc máy tinh xảo là khởi nguồn của sự ngạc nhiên và tự hào. Nhưng máy móc cũng có thể xấu xí, và chúng ta cảm nhận được ở chúng một mối đe doa với những thứ chúng ta yêu quý. Máy móc có thể là một kênh dẫn truyền sức mạnh con người, nhưng sức mạnh này thường bị nắm giữ bởi các nhà công nghiệp và tài chính, những người sở hữu máy móc, chứ không phải những người được trả lương để vận hành chúng. Máy móc đều lạnh lùng và vô tâm, và trong cách chúng vâng lời những kịch bản được lập trình, chúng ta thấy hình ảnh của những tình trạng đen tối hơn của xã hội. Nếu máy móc mang lại điều gì đó nhân bản cho thế giới xa xôi, thì chúng cũng mang lại điều gì đó xa lạ cho thế giới con người. Nhà toán học và triết gia Bớt-ren Ru-xen (Bertrand Russell) diễn tả một cách ngắn gọn trong một bài luận năm 1924:”Máy móc được tôn thờ vì chúng đẹp và được đánh giá cao vì chúng tạo ra sức mạnh; chúng bị căm thù vì chúng gớm ghiếc và bị ghê tởm vì chúng áp đặt tình trạng nô lệ” (Ni-cô-lat Ca – Nicholas Carr, Lồng kính tự động hoá và chúng ta, Vũ Duy Mẫn dịch, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, tr. 38 – 39)   Xác định câu chủ đề và các ý chính, ý phụ của mỗi đoạn văn trong văn bản.
Đọc nhận định về thể loại kí dưới đây và trả lời các câu hỏi: Kí gần với văn báo chí ở chỗ viết về cuộc đời thực tại, về “người thật”, “việc thật thường được viết như là sự phản ứng trực tiếp với những biến cố thời sự trước những vấn đề nóng bỏng đương được đặt ra trong cuộc sống. Giống như người viết báo, người viết kí đặc biệt quan tâm và tôn trọng những sự kiện của cuộc đời thực tại. [...] Sức thuyết phục, lay động của bài kí trước hết là ở tính sự kiện. [.] Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng sức mạnh của thể kí trước hết là ở tỉnh sự kiện: ..... cùng với cảm xúc văn học, bút kí còn chứa đựng cái cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm. Sức nặng ấy được chuyển đi, không giống như một cảm giác mĩ học, mà như một quả táo Niu-tơn (Newton) rơi xuống tâm hồn người đọc. [...] Trong thể loại này vừa có những yếu tố của truyện vừa có sự tham gia trực tiếp của tư duy nghiên cứu. Những yếu tố của truyện tựu trung là “những hình ảnh có hồn” (những truyện sinh động, những nhân vật sống, những bức tranh có không khí hoặc những hình ảnh thổi “hồn” vào đối tượng được miêu tả. Còn tư duy nghiên cứu chủ yếu cung cấp những dữ kiện, những tri thức nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người. (Hoàng Ngọc Hiến, Ki và tiểu luận, in trong Văn học và học văn, NXB Văn học, Hà Nội, 1997, tri 134 136   Những đặc điểm nào của thể loại kí được tác giả nêu trong đoạn trích?