Danh sách câu hỏi ( Có 3,967 câu hỏi trên 80 trang )

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ sau: LỜI CHÀO     Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồng     Rút những cọng rơm vàng về kết tổ     Đã dạy ta với cánh diều thơ nhỏ     Biết kéo về cả một sắc trời xanh.     Biết ơn mẹ vẫn tinh cho con thêm một tuổi sinh thành     “Tuổi của mụ”[1] con nằm tròn bụng mẹ     Để con quỷ yêu tháng ngày tuổi trẻ     Buổi mở mắt chào đời, phút nhắm mắt ra đi.     Biết ơn trò chơi tuổi nhỏ mê li     “Chuyền chuyền một...” miệng, tay buông bắt         Ngôn ngữ lung linh, quả chuyền thoăn thoắt     Nền một đời tiếng Việt mãi ngân nga...     Biết ơn dấu chân bẩm mặt đường xa     Những dấu chân trần, bùn nặng vết     Ta đi học quen giẫm vào không biết     Dáng cuộc đời in mãi dáng ta đi… (Trích Nguyễn Khoa Điềm, Mặt đường khát vọng, in trong Văn học Việt Nam thế kỉ XX (thơ ca 1945 – 1975), quyển bốn – tập VIII, NXB Văn học, Hà Nội, 2010, tr.711-712) [1] Tuổi của mụ: Cách tính tuổi của nhân dân ta, chín tháng mười ngày trong bụng mẹ cũng được tính một tuổi, quen gọi là tuổi mụ.  

Xem chi tiết 53.7 K lượt xem 4 tháng trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận của anh/ chị về tình cảm quê hương được thể hiện trong bài thơ sau.     Phiên âm:                                        Thiếu tiểu li gia, đại lão hồi,                                        Hương âm vô cải, mấn mao tồi.                                        Nhị đồng tương kiến, bất tương thức,                                        Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai? (Hạ Tri Chương, Hồi hương ngẫu thư)     Dịch thơ:                                          Khi đi trẻ, lúc về già,                                        Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.                                        Trẻ con nhìn lạ không chào,                                        Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi? (Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê, Phạm Sĩ Vĩ dịch,     theo Ngữ văn 7, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2020, tr.126)

Xem chi tiết 6.6 K lượt xem 4 tháng trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận của anh/ chị về bối cảnh đất nước được thể hiện trong đoạn thơ sau.                                                  Khi con sinh trời đã xanh rồi                                                 Có vạch trắng của đường bay tên lửa                                                 Cây lá màu nguỵ trang lúc nào chẳng rõ                                                 Mặt đất dọc ngang xẻ những chiến hào                                                 Lời mẹ ru không chỉ ngọt ngào                                                “Cái bống ngủ ngon, cánh cò bay mải,...”                                                 Bởi khi bay có cánh cò đã gãy                                                Trong lúc ngủ say cái bống vẫn giật mình. (Khi con ra đời, in trong Hoa dọc chiến hào,  Xuân Quỳnh, NXB Văn học, Hà Nội, 1968, tr.31-32)

Xem chi tiết 9.3 K lượt xem 4 tháng trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận của anh/ chị về bức tranh quê được thể hiện trong bài thơ sau.                                                   Tháng Chạp, hai mươi bốn, chợ Đồng,                                                   Năm nay chợ họp có đông không?                                                   Dở trời mưa bụi còn hơi rét,                                                   Nếm rượu, tường đền được mấy ông?                                                   Hàng quán người về nghe xáo xác,                                                   Nợ nần năm hết hỏi lung tung.                                                   Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,                                                   Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng. (Nguyễn Khuyến, Chợ Đồng, in trong Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, Hà Nội 1971, tr.102-103)

Xem chi tiết 10.2 K lượt xem 4 tháng trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích hình ảnh Bác Hồ trong đoạn thơ sau:                                                     Bác vui như ánh buổi bình minh                                                     Vui mỗi mầm non, trái chín cành                                                     Vui tiếng ca chung hoà bốn biển                                                     Nâng niu tất cả, chỉ quên mình.                                                     Bác để tình thương cho chúng con                                                     Một đời thanh bạch, chẳng vàng son                                                     Mong manh áo vải, hồn muôn trượng                                                     Hơn tượng đồng phơi những lối mòn. (Bác ơi, in trong Thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục,  Hà Nội, 2003, tr.457-458)

Xem chi tiết 7.3 K lượt xem 4 tháng trước

Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích, đánh giá bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích sau: (Giới thiệu: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc của Lưu Quang Vũ viết năm 1981 có nguồn gốc từ một tích truyện dân gian. Ông Trương Ba là một người làm vườn hồn hậu, giỏi đánh cờ, bị Nam Tào bắt chết nhầm. Nam Tào và Đế Thích sửa sai cho Trương Ba sống lại trong xác anh hàng thịt vừa mới chết. Trong thân xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: bị lí trưởng sách nhiễu và bị nhiễm một số thói xấu của anh hàng thịt khiến bản thân thay đổi, trở nên xa lạ trong mắt những người thân. Nhận thức được những điều đó, Trương Ba vô cùng đau khổ, cuối cùng ông quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết.). Đoạn trích sau là đối thoại giữa Hồn Trương Ba và người bạn lâu năm – bác Trưởng Hoạt. Nhà Trương Ba Hồn Trương Ba và Trưởng Hoạt. Nét mặt Hồn Trương Ba vẫn rầu rĩ, thần thờ. TRƯỞNG HOẠT: (Lặng lẽ nhìn Hồn Trương Ba, lắc đầu) Lúc nào bác cũng sặc sụa hơi men. Bác uống rượu nhiều quá! Hôm nay tôi sang cũng là để nói chuyện này với bác: Bác đâm nát rượu mất rồi! Những thói xấu thường ngày nó làm hư hại tâm hồn, trí não của người ta bác ạ! Bà nhà bảo bữa cơm nào không có rượu là bác lại nhạt nhạt ngơ ngẩn như người mất hồn ấy. HỒN TRƯƠNG BA: Mất hồn à? Mất hồn sao được? TRƯƠNG HOẠT: Có phải chỉ rượu suông đâu! Thức ăn kém một chút, bác cũng cau có không chịu ăn. Vợ chồng luôn dằn vặt cãi cọ nhau. Chỗ anh em, tôi hỏi thật: Sao bác đâm trái tính như vậy? HỒN TRƯƠNG BA: (Ấp úng) Tôi... tôi cũng không hiểu. Tự nhiên cứ thèm. Cái thân xác tôi ấy! Bác có ở trong tình cảnh tôi, bác mới hiểu. [...] TRƯỞNG HOẠT: Bác cứ nói thế! Cái thân bác mang bây giờ đâu còn của anh hàng thịt, mà đã là của bác, là thân bác rồi, nó làm gì, gây ra sự gì, bác phải chịu, bác còn đồ cho ai được nữa! (Bực bội) Thì bác muốn nên bác mới đứng ra lụi cụi buôn bán ở cửa hàng thịt, suốt ngày một tay lăm lăm con dao nhọn, một tay khư khư túi tiền... HỒN TRƯƠNG BA: Đấy là ý thằng con trai tôi, lệnh của ông Lý trưởng... Có thế họ mới để cho tôi yên... Với lại, gia cảnh tôi bây giờ cũng túng bấn, chợ búa đắt đỏ mà cơm nước, tiêu pha thì lại nhiều hơn trước... cái vườn không đủ, phải trông vào lờ lãi ở hàng thịt... TRƯỞNG HOẠT: Ra bây giờ bác tính toán lập luận như vậy. Người ta bảo hàng thịt của bác buôn rẻ bán đắt, cân đuối cân sai, bắt chẹt khách hàng quá lắm! Thật chẳng còn ra làm sao! Mà thôi, không nói chuyện đó nữa, kẻo lại cãi cọ, bực bội. Hay ta làm ván cờ vậy. Bây giờ chỉ còn đánh cờ là lại vui vẻ với nhau được như xưa! (Gượng cười) Bác đem bàn cờ ra đây! (Họ đem bàn cờ ra, xếp quân ngồi đánh) TRƯỞNG HOẠT: (Cau mày bối rối) Bác làm sao thế? Nước đi của bác... HỒN TRƯƠNG BA: Sao? Tôi thích đi vậy. (Một lát) Chiếu tướng! TRƯỞNG HOẠT: (Ngơ ngác) Sao bác lại chiếu thế? HỒN TRƯƠNG BA: Chiếu thế thì sao? Bác hết đường gỡ nhé! TRƯỞNG HOẠT: Người đàng hoàng không ai đòi ăn nước ấy! (Thất vọng) Vâng, tôi thua. (Đứng dậy) Nhưng bác Trương ạ, tôi không hiểu nổi. Lối đánh của bác khác hẳn ngày xưa. Thoạt trông thì thấy cách vào cờ của bác vẫn như xưa, nhưng sau thì... chẳng còn cái khoáng hoạt, dũng mãnh, thâm sâu ngày trước. Cách tiến, cách thủ của bác bây giờ vụn vặt, tủn mủn, thô phũ. Mà cái nước ăn vừa rồi, nói xin lỗi bác, nó bần tiện làm sao! HỒN TRƯƠNG BA: Bác ăn nói hay nhi? Bần tiện là thế nào? Hay ta đánh ván nữa? TRƯỞNG HOẠT: (Chán nản) Không, tôi không thích đánh nữa. Xin kiếu bác... Thảo nào! Bác thay tâm đổi tính thật rồi, bác Trương Ba ạ... (Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba, da hàng thịt, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2013, tr. 59 – 60)

Xem chi tiết 2.3 K lượt xem 4 tháng trước

Anh / Chị viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích, đánh giá yếu tố trữ tình trong tuy bút sau: HAI ĐẦU ĐẤT NƯỚC Mùa thu Hà Nội như cô gái Liêu Trai, đẹp lộng lẫy kiêu kì, ám ảnh một đời. Có lần tôi bắt đầu lữ hành, phải mặc áo len, nhưng qua nửa đường dài, phải dùng cánh tay làm mắc áo. Ngoài cửa toa tàu, dưới mây trắng máy bay, đâu là Huế có Trường Tiền cầu cong, đâu là Hải Vân lượn khúc, mà khi đặt chân lên Sài Sòn, đón mình như nhiệt huyết. Người bạn đi tiền chân nơi Thăng Long, chắc về nhà nghe đêm vang tiếng rao ngô rang lúa rang hạt dẻ,... còn mình đây nghe mùi khói dầu hôi dầu cặn nhức đầu, nhận ra nơi vừa đến khác hẳn chốn vừa đi. [...] Hà Nội có phố Trần Hưng Đạo dài hơn hai ngàn một trăm mét với bóng sấu tỏa tròn xanh mướt bốn mùa che bóng, những biệt thự có vẻ êm đềm quý tộc của khu phố cũ, nơi thoảng hương hoa sữa đêm thu cho tình ái lấy làm trú ngụ,... nơi ta quen thuộc tuổi yêu đương chẳng cần nước hoa cũng mê man cùng mái tóc... Còn Sài Gòn, phố Trần Hưng Đạo cũng có đây, con phố dài hơn mười cây số nối Chợ Cũ Sài Gòn vào sâu lòng Chợ Lớn, với bóng cây dầu thưa thớt nhưng tấp nập ngày đêm, xe cộ nườm nượp, chỗ mút đường có Đại Thế Giới còn có tên L'Arc-en-Ciel. Thuở trước, lần đầu tiên có người Sài Gòn mách nước cho khách lạ là con đường dài lắm, không thể đi chân, mà hãy gọi một cái xe, khi khách hỏi thăm đến số nhà trên một nghìn ấy còn bao xa nữa, người khách lớ ngớ, chưa quen với con số nhà trên bao nhiêu, hẻm bao nhiêu, con số nghìn, khác hẳn một Hà Nội số không nhiều vì phố ngắn, có phố chỉ một số nhà, như phố Hỏa Lò, phố Mai Xuân Thưởng, phố Hồ Hoàn Kiếm chỉ có 52 thước, nơi có món thịt bò khô nổi tiếng cho tuổi học trò... Đêm Sài Gòn, hình như người ta không ngủ. Âm nhạc và sân khấu, quán rượu và hàng ăn. Xe chuyển và chợ họp... Hai giờ sáng, người này trở về nhà thì người kia đã trở dậy ra đường. Những Hàng Xanh, Cầu Muối, những Bà Quẹo, Bà Chiểu, những Khánh Hội, Bàn Cờ,.. Đêm Hà Nội êm đềm ru ru trên hàng sao đen phố Lò Đúc, hàng hoàng lan phố Phan Đình Phùng, hàng cau cổng chùa Trấn Quốc,... có những căn gác nhỏ sáng đèn thâu đêm ở góc Hồ Tây, làng Cống Vị, ở khu tập thể (chung cư) Thành Công hay phố Lê, phố Láng,... cho bài thơ trang viết ra đời, cho kịch bản mang số phận con người [...]. Hà Nội của tôi và Sài Gòn của tôi, hai đầu đất nước, hai đĩa cân của chếc bàn cân, dập dềnh lên xuống nơi cái điểm tựa, cái đòn bẩy là Huế hay Đà Nẵng, ai cho tôi bồng bềnh, cho tôi thương nhớ... ở nơi này thì mong nơi kia, ở nơi kia thì tưởng về nơi cũ... cứ như ngày và đêm luân phiên không nghỉ... Người bạn ở cư xá Bắc Hải, người bạn ở khu tập thể Thanh Xuân, có lúc mình sao nhãng, có lúc nhớ thiết tha... Đêm nằm, bấm đốt ngón tay, hết bàn tay phải qua bàn tay trái. Ngoài kia, những cơn gió thổi qua nóc cây long não cứ rì rầm một bản nhạc đầy tâm sự chỉ có người thức thâu đêm mới hiểu... (Theo Băng Sơn, in trong Thú chơi người Hà Nội, NXB Văn hóa – thông tin, Hà Nội, 2005, tr. 540 – 542)  

Xem chi tiết 16.5 K lượt xem 4 tháng trước