Danh sách câu hỏi ( Có 3,967 câu hỏi trên 80 trang )

 II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)  Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu cảm nhận của anh/ chị về nhân vật Uy-lít-xơ trong đoạn trích sau: Khi Uy-lít-xơ từ phòng tắm bước ra, trông người đẹp như một vị thần. Người lại trở về chỗ cũ, ngồi đối diện với Pê-nê-lốp, trên chiếc ghế bành ban nãy, rồi nói với nàng: - Nàng thật là người kì lạ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở. Thôi, già [1]ơi! Già hãy kê cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt. (Lược một đoạn: Pê-nê-lốp nói với nhũ mẫu thực hiện yêu cầu của Uy-lít-xơ).  Nàng nói vậy để thủ chồng, nhưng Uy-lít-xơ bỗng giật mình nói với người vợ chung thuỷ: -Nàng ơi, nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ. Ai đã xê dịch giường tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này. Nếu thần linh muốn xê dịch đi thì dễ thôi, nhưng người trần dù đang sức thanh niên cũng khó lòng lay chuyển được nó. Đây là một chiếc giường kì lạ, kiến trúc có điểm rất đặc biệt, do chính tay tôi làm lấy chứ chẳng phải ai. Nguyên trong sân nhà có một chồi cảm lãm'[2] lá dài: nó mọc lên, khoẻ, xanh tốt và to như cái cột. Tôi kẻ vạch gian phòng của vợ chồng mình quanh cây cảm lãm ấy, rồi xây lên với đá tảng đặt thật khít nhau. Tôi lợp kĩ gian phòng, rồi lắp những cảnh cửa bằng gỗ liền, đóng rất chắc. Sau đó tôi chặt hết cành lá của cây cảm lãm lá dài, cố đẽo thân cây từ gốc cho thật vuông vắn rồi nảy đường mực, làm thành một cái chân giường và lấy khoan khoan lỗ khắp xung quanh. Tôi bào tất cả các bộ phận đặt trên chân giường đó, lấy vàng bạc và ngà nạm vào trang tri, cuối cùng tôi căng lên mặt giường một tấm da màu đỏ rất đẹp. Đó là điểm đặc biệt mà tôi vừa nói với nàng. Nhưng nàng ơi, tôi muốn biết cái giường ấy hiện còn ở nguyên chỗ cũ, hay đã có người chặt gốc cây cảm lãm mà dời nó đi nơi khác. -Người nói vậy, và Pê-nê-lốp bủn rủn cả chân tay, nàng thấy Uy-lít-xơ tả đúng mười mươi sự thật. Nàng bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng. (Hô-me-rơ, I-li-at và Ô-đi-xê[3], NXB Văn học, Hà Nội, 2001, tr.348-350) [1] Già: Ơ-ri-clê — người nhũ mẫu. [2] Cảm lãm: còn gọi là ô liu [3] Tóm tắt sử thi Ô-đi-xể: Ô-đi-xê kể lại hành trình trở về quê hương của Uy-lít-xơ sau khi hạ thành Tơ-roa. Mười năm sau khi rời Tơ-roa, Uy-lít-xơ vẫn chưa thể đặt chân lên mảnh đất quê hương và phải trải qua nhiều gian khổ. Trong khi đó, tại quê nhà, Pê-nê-lốp – vợ của Uy-lít-xơ phải đối mặt với 108 kẻ quyền quý trong vùng đến cầu hôn. Tê-lê-mác, con trai của chàng phải đương đầu với bọn chúng để bảo vệ tài sản của gia đình. Uy-lít-xơ giả dạng làm người hành khất nên vợ chàng trị bọn cầu hôn cùng những gia nhân phản bội. Uy-lít-xơ còn phải trải qua thử thách của vợ – nói ra điều bí mật về chiếc giường mà chỉ hai vợ chồng mới biết).

Xem chi tiết 4.1 K lượt xem 4 tháng trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích tâm trạng và tư tưởng của người viết trong văn bản sau: 4.6.68 Càng đi vào thực tế càng thấy phức tạp. Con người sao sống với nhiều đòi hỏi quả đi. Không bao giờ thoả mãn được cả. Càng ngày càng muốn hoàn chỉnh, càng ngày càng lắm yêu cầu và trong những bước tiến lên ấy bao nhiêu là gai góc cản trở, nếu không vững trí bền tâm sẽ dễ dàng thất bại. Ơi cô gái sống với bao suy nghĩ kia ơi, nghĩ làm gì cho nhiều để rồi phải nặng những đau buồn. Hãy cứ tìm lấy những niềm vui đi, hãy cứ sống giàu lòng tha thứ, giàu sự hi sinh một cách tự giác đi. Đừng đòi hỏi ở cuộc đời quá nhiều nữa. Mưa vẫn cứ rơi hoài. Mưa càng thêm buồn thấm thía và mưa lạnh làm cho người ta thèm khát vô cùng một cảnh sum họp của gia đình. Ước gì có cánh bay về căn nhà xinh đẹp ở phố Lò Đúc để cùng ba má và các em ăn một bữa cơm rau muống và nằm trong tấm chăn bông ấm áp ngủ một giấc ngon lành. Đêm qua mơ thấy Hoà bình lập lại, mình trở về gặp lại mọi người. Ôi, giấc mơ Hoà bình lập lại đã cháy bỏng trong lòng cả ba mươi triệu đồng bào ta từ lâu rồi. Vì nền Hoà bình độc lập ấy mà chúng ta đã hi sinh tất cả. Biết bao người đã tình nguyện hiến dâng cả cuộc đời mình vì bốn chữ Độc lập Tự do. Cả mình nữa, mình cũng đã hi sinh cuộc sống riêng mình vì sự nghiệp vĩ đại ấy. (Trích: Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm[1], NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005, tr.54) [1] Đặng Thuỳ Trâm (1942 – 1970), quê ở Thừa Thiên Huế, sinh ra trong một gia đình trí thức và lớn lên ở Hà Nội. Tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1966, chị xung phong vào chiến trường miền Nam, trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chị được phân công phụ trách một bệnh viện ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, chuyên điều trị cho các thương, bệnh binh. Chị hi sinh vào ngày 22/6/1970 khi chưa đầy 28 tuổi trong một chuyến công tác. Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm là tập nhật kí được nữ bác sĩ viết trong những năm 1968 – 1970, ghi chép chân thực cuộc sống của bản thân và đồng đội nơi tuyến đầu, về nỗi đau của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh, về khát vọng cháy bỏng ngày đất nước hoà bình để chị được trở về Hà Nội thân yêu.  

Xem chi tiết 6.9 K lượt xem 4 tháng trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)  Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vẻ đẹp của nhân vật Thị Phương được thể hiện trong văn bản sau: Thị Phương (hát tiếp): Người chồng tôi tên gọi Trương Viên. Vua sai dẹp giặc nước Xiêm khơi chừng Bởi vì đậu chếch nón ả Hằng Thờ chồng chực tiết khăng khăng chẳng rời Bởi vì đâu binh lửa bời bời Xa miền quê quán, ngụ nơi lâm tuyền Một mình tôi nuôi mẹ truân chuyên Quyết liều phận bạc chẳng dám quên ngãi chàng Gặp những loài ác thú hổ lang Người rắp làm hại, khẩn vang lại lành Trở ra vệ miếu thần linh qua Thần đòi khoét mắt lòng thành tôi kính dâng Vậy nên mù mịt tối tăm Nàng tiên dạy hát, kiếm ăn qua tháng ngày Sự tình này trời đất có thấu hay Chàng Trương Viên có biết nông nỗi này cho chăng? Trương Viên: Nghe tiếng đàn cùng tiếng hát Chuyển động tâm thần [...] Anh khá khen em mười tám năm nay chẳng có đơn sai  Lòng thương em nhớ mẹ ngậm ngùi. Đây, ngọc kim quyết giao em nhận tích (Thị Phương cầm ngọc, ngọc nhẩy lên mắt, mắt sáng trở lại) Thị Phương: Quả lòng trời đưa lại Ngọc nhảy vào, mắt được phong quang Mẹ ơi, giờ con trông được rõ ràng Chồng con đây đã tỏ Mụ: Mẹ mừng con đã yên lành như cũ Lại thêm tình mẫu tử đoàn viên Trời có đâu nỡ phụ người hiền Thế mới biết bĩ rồi lại thái[1] . (Trích Trương Viên[2]’, in trong Tuyển tập Chèo cổ, Hà Văn Cầu sưu tầm và chú thích, NXB Sân khấu, Hà Nội, 1999, tr.160-162) [1] Bĩ: thời vận, hoàn cảnh rủi ro; thái: thời vận, hoàn cảnh may mắn, thuận lợi. [2] Trương Viên là một trong những vở chèo cổ nổi tiếng. Thị Phương, con gái quan Tể tướng đã hồi hưu được cha đồng ý cho kết duyễn với Trương Viên và cho đôi ngọc lưu li làm của hồi môn. Giữa lúc Trương Viên đang dùi mài kinh sử thì chàng nhận được chiếu đòi đi dẹp giặc. Thị Phương đã dắt mẹ chồng lưu lạc chạy giặc, trải qua nhiều thử thách trong suốt 18 năm. Thắng trận, Trương Viên về quê tìm mẹ và vợ nhưng không gặp. Tình cờ chàng gặp hai mẹ con bà hát xẩm và gọi vào nghe hát.  

Xem chi tiết 9.5 K lượt xem 4 tháng trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc điểm của nhân vật bi kịch được thể hiện qua nhân vật Vũ Như Tô trong văn bản sau: Lớp III Thêm Vũ Như Tô Vũ Như Tô (có vẻ mệt, người hốc hác, lẩm bẩm): Bao nhiêu người chết vì ta. Khốn nạn... Nhưng sao ta vội nản. Nhu nhược thì sao dựng nổi cái đài này? Thương nhau ta để trong lòng. [...]. Nhưng không thẳng tay không xong. Xây cái Cửu Trùng Đài này cũng khó như đánh trận mỗi người chúng ta là một tên lính, phải đồng lao cộng tác, không được thoái chi, không được trốn tránh. Tôi tha không khó gì, nhưng thế là dung túng cho bọn thợ trốn đi, mà thợ trốn đi thì đài xây sao được. Khi xưa vua Thục đắp thành Cổ Loa có con kê tinh cứ gây làm đổ thành, phải trừ kê tinh mới đắp nổi. Đây cũng thế, phải trừ hết cả những kẻ hèn, thấy khó đã nản. Phó Bảo: Vua Thục đắp thành để giữ nước, còn ta xây thành để cho vua chơi. Vũ Như Tô: Sao lại để vua chơi, đây là ta xây cho cả nước. Phó Bảo: Cho cả nước, nhưng chỉ ít người được đến đây, họ nhà vua, các quan, thế là hết, dân được lợi gì?  Như Tô: Chú quên hết lời anh em ta kí kết cùng nhau rồi. Sao chú đã thay đổi thế? Thảo nào mà tôi thấy... Ta xây một cái đài vĩ đại, làm vinh dự cho non sông. Đến làm một cái nhà còn tốn tiền, tốn lực huống chi là một cái đài to như núi, bền như trăng sao. (Trích: Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô,  NXB Sân khấu, Hà Nội, 2006, tr.84-89).

Xem chi tiết 4.9 K lượt xem 4 tháng trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc điểm của nhân vật hài kịch được thể hiện qua nhân vật Sai-lốc trong văn bản sau: Sai-lốc: Thế nào? Tubal? Có tin tức gì của thành Genod[1]? Anh có tìm thấy con gái tôi không? Tubal: Nghe thấy người ta nói có gặp cô ấy ở đâu là tôi đã đi khắp mà không sao tìm thấy. Sai-lốc: Thôi, thế là xong, thế là đi đời! Mất biển một viên ngọc kim cương tôi đã mua mất hai nghìn đuy ca ở Frankfurt[2]'. Chưa bao giờ tại hoạ đè nặng lên dân tộc ta, chưa bao giờ tôi bị đau xót như ngày hôm nay. Hai nghìn đuy-ca trong viên ngọc đó, và lại còn những đồ châu báu khác đắt tiền nữa, rất đắt tiền! Ôi! Tôi chỉ mong muốn được trông thấy đứa con gái tôi chết nằm dưới chân tôi, hai tai đeo ngọc kim cương, con gái tôi nằm trong quan tài ở dưới chân tôi và có tất cả những đồng đuy-ca trong mình nó! Không có tin tức gì về chúng nó? Và cùng không biết rồi tôi còn phải tổn phi bao nhiêu để tìm chúng nó nữa. Ôi chao ôi! Mất đơn mất kép, đứa ăn trộm trốn đi với bao nhiêu tiền của, và bao nhiêu kẻ để bắt nó lại mà không được thoả nguyện, không được trả thù! Và không có nỗi bất hạnh nào không đè lên lưng tôi, không có tiếng thở ngắn nào không ở miệng tôi ra, không có nước mắt nào không ở mắt tôi tuôn xuống! [...] Tubal: Theo như tôi được nghe nói, thì con gái của anh đã tiêu ở đó tám chục đuy-ca ngay một lúc. Sai-lốc: Anh đâm một nhát dao găm vào tim tôi không bằng. Tôi sẽ không bao giờ trông thấy lại số vàng của tôi. Tám chục đuy-ca một lúc, tám chục đuy-ca! (Trích Người lái buôn thành Vơ-ni-dơ, William Shakespeare, in trong Những vở kịch nổi tiếng, Tuấn Đô dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2017, tr.82-84) [1] Genoa: thành phố ở Ý, thủ đô xứ Liguria, thương cảng thịnh vượng bên bờ vịnh Genoa (trong Địa Trung Hải). [2] Frankfurt: thành phố ở nước Đức.  

Xem chi tiết 10.8 K lượt xem 4 tháng trước

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nét độc đáo của không gian, thời gian trong văn bản sau: Âm vang chiêng trầm hùng, khoan nhặt, nhịp múa và vẻ mặt thành kính trang nghiêm của những người phụ nữ khiến Suzana rùng mình. Đi nhiều nơi trên thế giới, tận mắt thấy nhiều tầng văn hoá, nhưng chưa bao giờ chị được thưởng thức một thứ âm nhạc nghi lễ nào lạ mà lại hay đến thế. Tiếng chiêng xoay xoáy vào bóng đêm, trôi lang thang vô tận giữa rừng già, lặn xuống đáy dòng sông Srêpôk sâu thẳm. Âm thanh binh boong ấy không phải là tiếng than khóc, vẫn là tiếc thương, vẫn là níu kéo đấy, nhưng lại lịch lãm và trang trọng dành cho sự tiễn biệt vĩnh viễn. Tiếng thầy cúng bỗng nổi lên trên: “Ơ Yang atáo, ơ Yang”... Suzana trôi đi, trôi đi theo nhịp điệu và âm thanh của dàn chiêng. Trong đêm tiếng chiêng loang xa khắp đất trời, rừng cây. Đỉnh núi Cư Minh như mỗi lúc một nghiêng thấp xuống, thầm lặng nghe. Một áng mây đen che khuất mặt trăng. Rừng tối lại. Gió dường như ngừng thổi. Vẳng tiếng nói khiến Suzana giật mình quay lại. Một bà lão trong bộ váy áo thổ cẩm, tóc bạc trắng xoã dài đến tận gót chân. Người phương Tây như chị là cao, mà bà cũng lớn người không kém, dáng vươn thẳng, uy nghiêm, bên cạnh là một người đàn ông mặc khổ, ở trần, dáng thấp đậm cường tráng, đầu vấn khăn đỏ, tay chống một chiếc lao dài: – Này cô kia! Người là ai? Làm gì ở đây? – Bà là ai mà lại hỏi tôi? -Ta là chủ nhân vùng này. Chính ta đã nhường phần đất đai để Y Thu Rnul đây lập buôn. Tiếng người đàn ông trầm trầm như phát ra từ rất sâu trong lồng ngực: – Chúng ta về đón linh hồn của Aê Phi và bảo vệ cho con cháu bình an trước sự có mặt của kẻ lạ. – Bà là Yă Wam ư? Tôi có nghe chồng kể về bà và ông Vua voi đây rồi. - À, người chính là kẻ xa lạ đã đến đây đem đứa con trai rời khỏi cánh tay người mẹ! Khiến cho nó khác nào “con chim ngói tìm theo nẳng, con chim két tìm theo gió mà bỏ tổ”. -Nhưng thưa bà, chúng tôi thật lòng yêu thương nhau. Bà thấy đó, chúng tôi đã về ngay khi gia đình báo tin làm lễ bỏ mả cho cha anh ta đấy thôi. [...] Tôi yêu chồng tôi! Chúng tôi đã phải rất khó khăn mới qua được những luật lệ bà đặt ra từ xưa để thành vợ chồng. Và tôi chấp nhận tất cả, thậm chí còn ngưỡng mộ những nét văn hoá đặc sắc đang diễn ra trước mắt kia. [...] -Vì người yêu nó nên bây giờ chúng ta cho phép người có mặt ở đây. Nhưng người hãy nhớ, vòng đồng người đã cầm, rượu cần dâng các Yang linh thiêng người đã uống, nếu chỉ có một lời nói, một cử chỉ nào chê bai, sẽ phải gánh lấy hình phạt theo luật tục của ta đấy. Người cũng sẽ phải chịu hình phạt nếu làm cho Y Khoan “khi uống rượu ngon nó quên, lúc ăn trâu uống heo nó không nhớ đến bố mę de". – Nhưng thưa bà, thưa ông,... Trăng ló ra khỏi đám mây, mặt đất sáng rỡ. Dào dạt gió. Mơ hồ sương. Một làn khói mong manh bay vút lên tan biến trong vòm xanh lơ mờ mờ hun hút của bầu trời. Suzana giật mình mở choàng mắt. [...] Cây cối, cỏ lau rạp mình xuống chào Thần gió Yang kngin một lần nữa lại quét ngang qua đại ngàn. Rừng khộp luyến tiếc gửi nốt theo cái đuôi dài lê thê của gió những chiếc lá đỏ cuối cùng còn sót lại trên cành, làm thành một vệt mỏng uốn lượn trên không trung. Nơi chân trời bình minh đang hồng lên rất nhanh bảo ngày đã đến. Binh boong, binh boong lẫn trong gió tiếng chiêng vẫn xa gần, gần xa,...  (Trích Pơ thi mênh mang mùa gió[1], Linh Nga Nie Dam, in trong Truyện ngắn mười năm đầu thế kỉ XXI, NXB Hội Nhà văn, 2010, tr.270-273) [1] Tóm tắt phần trước: Suzana – một phụ nữ châu Âu – tham gia dự án “Bảo tồn hệ sinh thái đa dạng rừng” ở Buôn Đôn, gặp gỡ và nên duyên với Y Khoan, chàng trai Êđê làm cùng dự án. Họ vừa từ Thụy Sĩ trở về Buôn Đôn làm lễ bỏ mả Pơthi cho bố Y Khoan. Việc bỏ mả là một lễ nghi quan trọng của dòng tộc, là cuộc chia tay vĩnh viễn với người đã khuất. Suzana yêu mến con người và mảnh đất Ban Mê nên cô say sưa, đắm mình vào những lễ nghi, phong tục này của gia đình, dòng tộc chồng. Khi đêm sâu dần, Suzana nằm đung đưa trên chiếc võng gần nhà mồ.  

Xem chi tiết 5.8 K lượt xem 4 tháng trước