Danh sách câu hỏi

Có 3,939 câu hỏi trên 79 trang
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc điểm của nhân vật bi kịch được thể hiện qua nhân vật Vũ Như Tô trong văn bản sau: Lớp III Thêm Vũ Như Tô Vũ Như Tô (có vẻ mệt, người hốc hác, lẩm bẩm): Bao nhiêu người chết vì ta. Khốn nạn... Nhưng sao ta vội nản. Nhu nhược thì sao dựng nổi cái đài này? Thương nhau ta để trong lòng. [...]. Nhưng không thẳng tay không xong. Xây cái Cửu Trùng Đài này cũng khó như đánh trận mỗi người chúng ta là một tên lính, phải đồng lao cộng tác, không được thoái chi, không được trốn tránh. Tôi tha không khó gì, nhưng thế là dung túng cho bọn thợ trốn đi, mà thợ trốn đi thì đài xây sao được. Khi xưa vua Thục đắp thành Cổ Loa có con kê tinh cứ gây làm đổ thành, phải trừ kê tinh mới đắp nổi. Đây cũng thế, phải trừ hết cả những kẻ hèn, thấy khó đã nản. Phó Bảo: Vua Thục đắp thành để giữ nước, còn ta xây thành để cho vua chơi. Vũ Như Tô: Sao lại để vua chơi, đây là ta xây cho cả nước. Phó Bảo: Cho cả nước, nhưng chỉ ít người được đến đây, họ nhà vua, các quan, thế là hết, dân được lợi gì?  Như Tô: Chú quên hết lời anh em ta kí kết cùng nhau rồi. Sao chú đã thay đổi thế? Thảo nào mà tôi thấy... Ta xây một cái đài vĩ đại, làm vinh dự cho non sông. Đến làm một cái nhà còn tốn tiền, tốn lực huống chi là một cái đài to như núi, bền như trăng sao. (Trích: Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô,  NXB Sân khấu, Hà Nội, 2006, tr.84-89).
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc điểm của nhân vật hài kịch được thể hiện qua nhân vật Sai-lốc trong văn bản sau: Sai-lốc: Thế nào? Tubal? Có tin tức gì của thành Genod[1]? Anh có tìm thấy con gái tôi không? Tubal: Nghe thấy người ta nói có gặp cô ấy ở đâu là tôi đã đi khắp mà không sao tìm thấy. Sai-lốc: Thôi, thế là xong, thế là đi đời! Mất biển một viên ngọc kim cương tôi đã mua mất hai nghìn đuy ca ở Frankfurt[2]'. Chưa bao giờ tại hoạ đè nặng lên dân tộc ta, chưa bao giờ tôi bị đau xót như ngày hôm nay. Hai nghìn đuy-ca trong viên ngọc đó, và lại còn những đồ châu báu khác đắt tiền nữa, rất đắt tiền! Ôi! Tôi chỉ mong muốn được trông thấy đứa con gái tôi chết nằm dưới chân tôi, hai tai đeo ngọc kim cương, con gái tôi nằm trong quan tài ở dưới chân tôi và có tất cả những đồng đuy-ca trong mình nó! Không có tin tức gì về chúng nó? Và cùng không biết rồi tôi còn phải tổn phi bao nhiêu để tìm chúng nó nữa. Ôi chao ôi! Mất đơn mất kép, đứa ăn trộm trốn đi với bao nhiêu tiền của, và bao nhiêu kẻ để bắt nó lại mà không được thoả nguyện, không được trả thù! Và không có nỗi bất hạnh nào không đè lên lưng tôi, không có tiếng thở ngắn nào không ở miệng tôi ra, không có nước mắt nào không ở mắt tôi tuôn xuống! [...] Tubal: Theo như tôi được nghe nói, thì con gái của anh đã tiêu ở đó tám chục đuy-ca ngay một lúc. Sai-lốc: Anh đâm một nhát dao găm vào tim tôi không bằng. Tôi sẽ không bao giờ trông thấy lại số vàng của tôi. Tám chục đuy-ca một lúc, tám chục đuy-ca! (Trích Người lái buôn thành Vơ-ni-dơ, William Shakespeare, in trong Những vở kịch nổi tiếng, Tuấn Đô dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2017, tr.82-84) [1] Genoa: thành phố ở Ý, thủ đô xứ Liguria, thương cảng thịnh vượng bên bờ vịnh Genoa (trong Địa Trung Hải). [2] Frankfurt: thành phố ở nước Đức.  
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nét độc đáo của không gian, thời gian trong văn bản sau: Âm vang chiêng trầm hùng, khoan nhặt, nhịp múa và vẻ mặt thành kính trang nghiêm của những người phụ nữ khiến Suzana rùng mình. Đi nhiều nơi trên thế giới, tận mắt thấy nhiều tầng văn hoá, nhưng chưa bao giờ chị được thưởng thức một thứ âm nhạc nghi lễ nào lạ mà lại hay đến thế. Tiếng chiêng xoay xoáy vào bóng đêm, trôi lang thang vô tận giữa rừng già, lặn xuống đáy dòng sông Srêpôk sâu thẳm. Âm thanh binh boong ấy không phải là tiếng than khóc, vẫn là tiếc thương, vẫn là níu kéo đấy, nhưng lại lịch lãm và trang trọng dành cho sự tiễn biệt vĩnh viễn. Tiếng thầy cúng bỗng nổi lên trên: “Ơ Yang atáo, ơ Yang”... Suzana trôi đi, trôi đi theo nhịp điệu và âm thanh của dàn chiêng. Trong đêm tiếng chiêng loang xa khắp đất trời, rừng cây. Đỉnh núi Cư Minh như mỗi lúc một nghiêng thấp xuống, thầm lặng nghe. Một áng mây đen che khuất mặt trăng. Rừng tối lại. Gió dường như ngừng thổi. Vẳng tiếng nói khiến Suzana giật mình quay lại. Một bà lão trong bộ váy áo thổ cẩm, tóc bạc trắng xoã dài đến tận gót chân. Người phương Tây như chị là cao, mà bà cũng lớn người không kém, dáng vươn thẳng, uy nghiêm, bên cạnh là một người đàn ông mặc khổ, ở trần, dáng thấp đậm cường tráng, đầu vấn khăn đỏ, tay chống một chiếc lao dài: – Này cô kia! Người là ai? Làm gì ở đây? – Bà là ai mà lại hỏi tôi? -Ta là chủ nhân vùng này. Chính ta đã nhường phần đất đai để Y Thu Rnul đây lập buôn. Tiếng người đàn ông trầm trầm như phát ra từ rất sâu trong lồng ngực: – Chúng ta về đón linh hồn của Aê Phi và bảo vệ cho con cháu bình an trước sự có mặt của kẻ lạ. – Bà là Yă Wam ư? Tôi có nghe chồng kể về bà và ông Vua voi đây rồi. - À, người chính là kẻ xa lạ đã đến đây đem đứa con trai rời khỏi cánh tay người mẹ! Khiến cho nó khác nào “con chim ngói tìm theo nẳng, con chim két tìm theo gió mà bỏ tổ”. -Nhưng thưa bà, chúng tôi thật lòng yêu thương nhau. Bà thấy đó, chúng tôi đã về ngay khi gia đình báo tin làm lễ bỏ mả cho cha anh ta đấy thôi. [...] Tôi yêu chồng tôi! Chúng tôi đã phải rất khó khăn mới qua được những luật lệ bà đặt ra từ xưa để thành vợ chồng. Và tôi chấp nhận tất cả, thậm chí còn ngưỡng mộ những nét văn hoá đặc sắc đang diễn ra trước mắt kia. [...] -Vì người yêu nó nên bây giờ chúng ta cho phép người có mặt ở đây. Nhưng người hãy nhớ, vòng đồng người đã cầm, rượu cần dâng các Yang linh thiêng người đã uống, nếu chỉ có một lời nói, một cử chỉ nào chê bai, sẽ phải gánh lấy hình phạt theo luật tục của ta đấy. Người cũng sẽ phải chịu hình phạt nếu làm cho Y Khoan “khi uống rượu ngon nó quên, lúc ăn trâu uống heo nó không nhớ đến bố mę de". – Nhưng thưa bà, thưa ông,... Trăng ló ra khỏi đám mây, mặt đất sáng rỡ. Dào dạt gió. Mơ hồ sương. Một làn khói mong manh bay vút lên tan biến trong vòm xanh lơ mờ mờ hun hút của bầu trời. Suzana giật mình mở choàng mắt. [...] Cây cối, cỏ lau rạp mình xuống chào Thần gió Yang kngin một lần nữa lại quét ngang qua đại ngàn. Rừng khộp luyến tiếc gửi nốt theo cái đuôi dài lê thê của gió những chiếc lá đỏ cuối cùng còn sót lại trên cành, làm thành một vệt mỏng uốn lượn trên không trung. Nơi chân trời bình minh đang hồng lên rất nhanh bảo ngày đã đến. Binh boong, binh boong lẫn trong gió tiếng chiêng vẫn xa gần, gần xa,...  (Trích Pơ thi mênh mang mùa gió[1], Linh Nga Nie Dam, in trong Truyện ngắn mười năm đầu thế kỉ XXI, NXB Hội Nhà văn, 2010, tr.270-273) [1] Tóm tắt phần trước: Suzana – một phụ nữ châu Âu – tham gia dự án “Bảo tồn hệ sinh thái đa dạng rừng” ở Buôn Đôn, gặp gỡ và nên duyên với Y Khoan, chàng trai Êđê làm cùng dự án. Họ vừa từ Thụy Sĩ trở về Buôn Đôn làm lễ bỏ mả Pơthi cho bố Y Khoan. Việc bỏ mả là một lễ nghi quan trọng của dòng tộc, là cuộc chia tay vĩnh viễn với người đã khuất. Suzana yêu mến con người và mảnh đất Ban Mê nên cô say sưa, đắm mình vào những lễ nghi, phong tục này của gia đình, dòng tộc chồng. Khi đêm sâu dần, Suzana nằm đung đưa trên chiếc võng gần nhà mồ.  
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích cái tôi của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện trong văn bản sau: Mùa hạ, trong những khu vườn Huế, khi đất xông lên hùng mạnh, cỏ mọc xanh lạ thường. Trái cây sắp chín nằm chờ trên cành, và khắp đây đó trong vùng Kim Long, khói đốt cỏ toả ra mịt mùng xanh mờ một vùng ven sông. Trên một chiếc bình phong cổ khuất trong cây lá của một khu sân vắng vẻ còn dấu chạm lỗ chỗ của một câu đối nói đến những bầy chim nhạn thường về đậu kêu om sòm trên bãi sông Hương trước mặt nhà. Tôi lớn lên không hề thấy bóng chim nhạn ven sông này. Chắc cũng giống như lũ côn trùng kia, chúng đã di trú về một vùng đất nào yên tĩnh hơn. Nhưng liệu có nơi nào gọi là “yên tĩnh hơn” trên hành tinh này. Hình như càng ngày nó càng trở nên ồn ào hơn xưa; và đó cũng là lỗi của chúng ta đã tước đoạt “quyền yên tĩnh” của thế hệ trẻ ngày mai. Mùa thu trời trở gió heo may lành lạnh làm người ta tự nhiên thấy nhớ nhung một quê hương nào không biết. Vào mùa này, các văn nhân thường mở hội leo núi, mang theo túi thơ bầu theo túi thơ bầu rượu lên các đỉnh núi cao mừng tiết “Trùng Cửu”. Núi đó có thể là núi Ngự Bình, núi Kim Phụng hoặc những rừng thông vùng đồi Thiên An, và văn nhân có thể là Bà Huyện Thanh Quan, Tuy Lý Vương, Hàn Mặc Tử. Những văn nhận ngồi uống rượu đầu núi, nghe tiếng chuông chùa thánh thót trên thành phố dầm mình trong sương khói; đi thăm núi trở về, băng qua sườn đồi, vó ngựa còn thơm nồng hương cỏ, gọi lũ bướm bay theo. Thơ Tuy Lý Vương nói: “Minh triệu sất mã sơn đầu quả/ Ngoạ thỉnh tùng thanh ức ngã sầu”[1]. Một thứ hạnh phúc kéo dài trong nhiều năm tháng thật khó có ở đời; hạnh phúc chỉ tồn tại trong từng khoảnh khắc. Đó là khoảnh khắc mà ta nằm buồng mình trên cỏ, ngửa mặt nhìn từng áng mây chẳng biết bay về đâu. Vâng, chính đó là những áng mây mà người đời Đường đã từng thấy: “Bạch vân vô tận thi”[2] Huế, 4/8/2003 (Trích Miền cỏ thơm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 179, 180, 2009) [1] “Minh... sầu”: Sáng mai ruổi ngua lên đầu núi/ Nghe thông reo chợt nhớ ta buồn. [2] “Bạch... thi”: Phau phau mây trắng ngàn năm vẫn còn.  
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vai trò của một yếu tố tượng trưng trong việc thể hiện nội dung ở bài thơ sau: NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ GÁNH NƯỚC SÔNG     Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái        Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy     Những người đàn bà xuống gánh nước sông     Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt     Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi     Bàn tay kia bấu vào mây trắng     Sông gục mặt vào bờ đất lần đi     Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ     Những con Cả Thiêng quay mặt khóc     Những chiếc phao ngô chết nổi     Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi     Đã năm năm, mười năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy     Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng     Chạy theo mẹ và lớn lên     Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến      Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ     Và Cả Thiêng lại quay mặt khóc     Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi. (Nguyễn Quang Thiều, Những người đàn bà gánh nước sông, NXB Văn học, 1995)
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích tác dụng của sự kết hợp giữa yếu tố hư cấu và phi hư cấu trong văn bản truyện kí sau:     Mấy ngày nay, chị Quyên không có giờ nghỉ. Nghe tin vợ anh Nguyễn Văn Trỗi tới dự Đại hội Phụ nữ miền Nam, đại biểu các khu, các tỉnh đều tới thăm hỏi. Chị Quyên đành hẹn tôi sau mỗi buổi họp tối ở hội trường về, chị sẽ tranh thủ kể từng đoạn, những lần cuối cùng chị đã gặp anh, đã được sống bên anh trong các trại giam và khám tử hình. [...]     Vào khoảng chín giờ sáng, bỗng nhiên tôi thấy ập vào nhà bảy tám thằng cảnh sát, giải theo một người bị còng tay ra sau lưng. Thoạt đầu, tôi vẫn chưa tin là anh Trỗi. Nhưng vừa thoảng thấy tôi, anh nói ngay, nói to: “Quyên, anh bị bắt”.     Tôi đứng sững sờ nhìn anh đi thẳng tới trước mặt tôi. Chỉ có qua một đêm, thân hình anh thay đổi hẳn: bộ quần áo xanh của anh bê bết những bùn máu, gần như đổi sang màu khác, mặt anh hốc hác, bầm tím, đầu tóc rối tung. Chúng đẩy anh ngồi xuống giường. [...] Mấy tên cảnh sát đứng quanh giường anh bực tức nhìn nhau. Chúng động đậy chân tay muốn nổi khùng. Riêng tên chủ sự vẫn nhỏ nhẹ:     - Anh nên nghĩ đến người vợ trẻ và đẹp của anh. Anh nên thương cô ấy, đừng nên cưới người ta ít ngày, bây giờ bỏ mặc đời người ta dang dở.     -Từ năm ngày nay tôi bị bắt, các ông luôn luôn mang chuyện tôi mới cưới vợ ra để dụ dỗ. Các ông mang hình vợ chồng tôi chụp hôm cưới vào, tán tỉnh hạnh phúc này nọ, định làm cho tôi cam tâm vì vợ mà quên mất Tổ quốc. Các ông làm việc đó hoàn toàn không có kết quả đâu. Còn thằng Mỹ thì không ai có hạnh phúc nổi cả. [...]     Tối nay chị Quyên không còn chăm chú kể chuyện với tôi được nữa. Chốc chốc chị lại nhìn đồng hồ. Ở gian nhà bên có tiếng một chị vừa gọi sang: “Quyên ơi, sắp đến giờ rồi đấy!”. Ra cả mấy dãy nhà quanh đây đều biết đêm qua đài Hà Nội đã báo tin: nay buổi tám giờ rưỡi có truyền thanh toàn bản thuyết minh cuốn phim “Nguyễn Văn Trỗi sống mãi”.     Ngay từ phút đầu, mọi người đã cảm thấy như chính mình đang được xem cuốn phim đó, đang theo chân anh tới pháp trường. Tiếng người thuyết minh lúc tha thiết nghẹn ngào, lúc căm thù tột độ dẫn dắt người nghe qua dần từng cảnh: anh đang nói trước các nhà báo, anh dừng lại nhìn mảnh đất cuối cùng trồng mấy luống rau xanh, anh giật mảnh vải định che mắt anh,...     Chị U., một giáo sư, đã nói thêm một số tài liệu quanh cái chết của anh:     “ Tới phút chót của đời anh, những người có mặt tại pháp trường đều rất kinh ngạc. Súng đã nổ rồi, một loạt đạn đã bắn vào ngực anh nhưng từ phía anh vẫn còn vang lên những tiếng hô: “Việt Nam muôn năm!”.     Chinh một số nhà báo đã không cầm nổi nước mắt. Họ không thể tưởng tượng một người trước cái chết lại bình thản đến như vậy, lại yêu mến đất nước mình đến như vậy. Giật băng đen bịt mắt ra, anh nói: “Không, phải để tôi nhìn mảnh đất này, mảnh đất thân yêu của tôi”. Bao nhiêu năm bị bọn phản động đầu độc “Việt cộng vô Tổ quốc”, một số nhà báo lúc này đã nhìn ra sự thật: Không ai yêu Tổ quốc Việt Nam bằng người cộng sản, họ đã yêu đất nước quê hương cho tới phút cuối cùng của đời họ.”     (Trần Đình Vân[1]', Sống như Anh[2], NXB Giáo dục, 1978, tr.25-59)   [1] Trần Đình Vân (1926 – 2024), nhà báo Thái Duy, tên thật là Trần Duy Tấn. Quê Bắc Giang. [2] Truyện kí “Sống như Anh” được NXB Văn học in lần đầu năm 1965, đã xuất bản hàng triệu bản ở nhiều nước trên thế giới. Truyện viết về cuộc đời ngắn ngủi và oanh liệt của liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, được ghi lại qua lời kể của chị Phan Thị Quyên (vợ anh Trỗi).  
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong văn bản[1] sau:   Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa, Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời,... Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.[2] Sập sè én liệng lầu không, Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày. Cuối tường gai góc mọc đầy, Đi về này những lối này năm xưa! Chung quanh lặng ngắt như tờ, Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai? (Trích Nguyễn Du, Truyện Kiều, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2002, tr.158-162) 20Vị trí đoạn trích: Sau buổi thề nguyền, đính ước, Kim Trọng về quê hộ tang chú, gia đình Thuý Kiều gặp nạn, nàng phải bán mình chuộc cha và em. Nửa năm sau, Kim Trọng trở lại vườn Thuý, nơi Kim Trọng từng trọ học và Kim – Kiều tình tự, thề nguyền trước đây [2]Hoa đào năm ngoái: Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kì ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong có câu: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong” nghĩa là: Mặt người không biết ở đằng nào/ Hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ.   Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong văn bản[1] sau:     Đầy vườn cỏ mọc, lau thưa, Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời,... Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.[2] Sập sè én liệng lầu không, Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày. Cuối tường gai góc mọc đầy, Đi về này những lối này năm xưa! Chung quanh lặng ngắt như tờ, Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai? (Trích Nguyễn Du, Truyện Kiều, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2002, tr.158-162) 20Vị trí đoạn trích: Sau buổi thề nguyền, đính ước, Kim Trọng về quê hộ tang chú, gia đình Thuý Kiều gặp nạn, nàng phải bán mình chuộc cha và em. Nửa năm sau, Kim Trọng trở lại vườn Thuý, nơi Kim Trọng từng trọ học và Kim – Kiều tình tự, thề nguyền trước đây [2]Hoa đào năm ngoái: Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kì ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong có câu: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong” nghĩa là: Mặt người không biết ở đằng nào/ Hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ.