Danh sách câu hỏi
Có 11,844 câu hỏi trên 237 trang
Tiêm trộn lẫn vắc xin covid-19 có an toàn?
(1) Đại dịch Covid-19 vẫn đang hoành hành, gây ra cái chết của hàng triệu người trên khắp thế giới. Tình trạng nguồn cung vắc xin khan hiếm dẫn đến việc thiếu hụt ở nhiều quốc gia; tác dụng phụ hiếm gặp của một số loại vắc xin khiến cho không ít người lo lắng nếu tiếp tục tiêm liều thứ 2 cùng loại; sự xuất hiện các biến chủng mới... Tất cả những lý do này khiến cho ý tưởng tiêm trộn lẫn các loại vắc xin Covid-19 ngày càng được nhiều nước quan tâm.
(2) Ngày càng nhiều quốc gia đang xem xét việc sử dụng các loại vắc xin Covid-19 khác nhau để tiêm liều thứ hai hoặc tiêm nhắc lại trong bối cảnh nguồn cung bị chậm trễ và lo ngại về an toàn đã làm chậm các chiến dịch tiêm chủng của họ.
Theo cập nhật của Hãng tin Reuter, nhiều quốc gia đang cân nhắc hoặc đã quyết định áp dụng giải pháp này, cụ thể như:
- Bahrain: ngày 4/6/2021 nước này thông báo các công dân đủ điều kiện có thể nhận được 1 mũi tiêm nhắc lại Pfizer của BioNTech, hoặc vắc xin của Tập đoàn Dược phẩm quốc gia Trung Quốc (Sinopharm), bất kể họ đã tiêm mũi nào ban đầu.
- Canada: ngày 17/6/2021, Ủy ban Tư vấn quốc gia về tiêm chủng đã khuyến nghị những người nhận liều vắc xin đầu tiên của AstraZeneca sử dụng một loại vắc xin khác cho liều thứ hai của họ.
- Ý: ngày 14/6/2021, Cơ quan y tế của Ý cho biết những người dưới 60 tuổi được tiêm liều đầu tiên của Astra Zeneca có thể nhận được mũi tiêm thứ hai từ loại vắc xin khác.
- Đức: ngày 22/6/2021 phát ngôn viên của Thủ tướng Angela Merkel cho biết bà Merkel đã được tiêm vaccine Moderna sau khi tiêm mũi đầu tiên là AstraZeneca. Đức đã chính thức khuyến cáo người dân chọn sử dụng vắc xin Pfizer hoặc Moderna cho liều thứ hai sau khi tiêm AstraZeneca.
- Hàn Quốc: ngày 18/6/2021 nước này cho biết, khoảng 000 người đã được tiêm liều đầu tiên của AstraZeneca sẽ được tiêm mũi thứ hai của Pfizer do chương trình chia sẻ vắc xin toàn cầu COVAX bị chậm trễ.
- Tây Ban Nha: Bộ trưởng Bộ Y tế Carolina Darias ngày 19/5/2021 khẳng định, nước này sẽ cho phép những người dưới 60 tuổi đã được tiêm mũi AstraZeneca sẽ được tiêm liều thứ hai của vắc xin AstraZeneca hoặc
- Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất đã cung cấp vắc-xin Pfizer như một mũi tiêm tăng cường cho những người được chủng ngừa ban đầu bằng vắc-xin do Sinopharm phát triển.
- Vương quốc Anh: ngày 21/5/2021, nhà sản xuất vắc xin Novavax (NVAX.O) tuyên bố họ sẽ tham gia vào một cuộc thử nghiệm kết hợp vắc xin bắt đầu từ tháng 6 để kiểm tra việc sử dụng một liều vắc xin bổ sung từ một nhà sản xuất khác làm liều tăng cường.
- Hoa Kỳ: ngày 1/6/2021, Viện Y tế quốc gia Hoa Kỳ (NIH) thông báo họ đã bắt đầu thử nghiệm lâm sàng trên những người trưởng thành được tiêm chủng đầy đủ để đánh giá tính an toàn và khả năng sinh miễn dịch của việc tiêm nhắc lại một loại vắc xin khác.
(3) Trên khắp thế giới, các nghiên cứu đang được tiến hành trên động vật và người để điều tra mức độ an toàn, các loại phản ứng miễn dịch được tạo ra và thời gian miễn dịch kéo dài khi một người nhận hai loại vắc xin Covid-19 khác nhau.
(4) Theo công bố hôm 18/5/2021 tại Tây Ban Nha, một kết quả thử nghiệm trên 600 người đã chỉ ra rằng, việc tiêm phòng vắc xin AstraZeneca ở liều thứ nhất và vắc xin Pfizer dựa trên mRNA ở liều thứ 2 sẽ kích hoạt phản ứng miễn dịch mạnh mẽ chống lại vi rút SARS-CoV-2. Tại Đức, một nghiên cứu cho thấy, việc tiêm vắc xin AstraZeneca trước, sau đó là vắc xin Pfizer giúp tạo ra nhiều kháng thể hơn, có khả năng chống lại các biến thể đáng lo ngại so với việc tiêm hai liều cùng của AstraZeneca. Tại Anh, Đại học Oxford đã thực hiện nghiên cứu mang tên Com-CoV2 nhằm xác định mức độ an toàn và hiệu quả của việc tiêm kết hợp vắc xin AstraZeneca và Pfizer/BioNTech. Phát hiện ban đầu cho thấy người được tiêm cả 2 loại xuất hiện phản ứng phụ ở mức độ nhẹ hoặc trung bình so với nhóm tiêm đủ liều của một loại vắc xin. Trong cuộc nghiên cứu mở rộng Com-CoV2, các chuyên gia đang thử nghiệm kết hợp các vắc xin khác ngoài 2 loại trên, chẳng hạn như Moderna và Novavax...
(5) Việc tiêm trộn lẫn các liều vắc xin khác nhau nghe có vẻ bất thường, nhưng đối với các nhà miễn dịch học thì không có gì mới mẻ. Các nhà nghiên cứu về HIV từ lâu đã khám phá ra điều này. Họ nhận thấy rằng việc bảo vệ cơ thể người chống lại vi rút HIV đòi hỏi một phản ứng miễn dịch phức tạp gần như không thể đạt được với một loại vắc xin vì chúng có xu hướng chỉ tạo ra một loại phản ứng miễn dịch hoặc kích thích một nhóm tế bào miễn dịch. Do đó, các nhà khoa học đã nghĩ đến việc trộn nhiều loại vắc xin với nhau. Rodolphe Thiébaut, GS y tế công cộng tại Đại học Bordeaux (Pháp), cho biết: về cơ bản, ý tưởng của việc trộn vắc xin là bạn đang trình bày kháng nguyên (phần có thể nhận biết của mầm bệnh) cho hệ thống miễn dịch theo một cách khác, giúp hệ thống miễn dịch có cái nhìn tổng quan hơn về kháng nguyên và điều chỉnh phản ứng của nó. Mặc dù chúng ta chưa có vắc xin phòng chống HIV/AIDS hiệu quả nhưng loại vắc xin hiệu quả nhất được phát triển cho đến nay là sử dụng kết hợp nhiều loại vắc xin với nhau - vào năm 2012, nó đã được chứng minh là làm giảm sự lây truyền khoảng 30% trong các thử nghiệm trên người ở giai đoạn 3. TS Pierre Meulien (Giám đốc điều hành Sáng kiến thuốc đổi mới - IMI) nhấn mạnh: "Các quốc gia đã đưa ra quyết định phối trộn vắc xin Covid-19 sau khi cân nhắc giữa rủi ro và lợi ích. Đây không phải là điều hoàn toàn mới, chúng ta đã có kinh nghiệm đối với phương pháp này trong nhiều thập kỷ cả ở tiền lâm sàng và lâm sàng".
(6) Mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề cần theo dõi, nghiên cứu thêm, song theo các nhà chuyên môn, việc trộn vắc xin có thể giúp tránh miễn dịch chống lại vắc xin. Bởi vì một số loại vắc xin được đưa vào cơ thể bằng cách sử dụng một loại vi rút đã biến đổi, hệ thống miễn dịch có thể tự tấn công vắc xin đó. Trộn các vắc xin có thể làm giảm nguy cơ này. Việc trộn vắc xin còn chứng tỏ là có thể tạo ra phản ứng mạnh hơn, lâu dài hơn so với việc dùng 1 vắc xin đơn lẻ. Vắc xin Ebola do Johnson & Johnson phát triển là một ví dụ về vắc xin hỗn hợp hiệu quả đang được sử dụng ngày nay. Nó được chọn để cung cấp khả năng miễn dịch lâu dài. Lần tiêm đầu tiên sử dụng vectơ adenovirus (tương tự như vắc xin của AstraZeneca) và mũi thứ hai sử dụng phiên bản sửa đổi của vi rút poxvirus có tên là Ankara (MVA). GS Thiébaut (cũng là điều phối viên của EBOVAC2 - một chương trình đánh giá tính an toàn và hiệu quả của vắc xin này) khẳng định: “Vắc xin đã có phản ứng rất tốt. Ít nhất một nửa số tế bào đang tạo ra kháng thể sẽ tồn tại tối thiểu 5 năm”.
(7) Đặc biệt, việc kết hợp vắc xin này còn được hy vọng là sẽ giúp nhân loại chống lại được các biến thể của Covid-19. Theo TS Meulien, động cơ chính để trộn vắc xin là hy vọng tạo ra khả năng miễn dịch rộng hơn. TS Frédéric Martinon (nhà nghiên cứu miễn dịch học tại Viện Y tế và Nghiên cứu y học quốc gia Pháp - INSERM) cho biết, vắc-xin được cải tiến cho các biến thể khác nhau đã xuất hiện ở Anh, Brazil, Nam Phi và gần đây nhất là ở Ấn Độ. Ông hy vọng, thế hệ tiếp theo của vắc xin có thể sẽ chống lại một số biến thể của Covid-19 và việc trộn các loại vắc xin này sẽ tạo ra khả năng miễn dịch tập thể rộng rãi, khiến các biến thể khó lưu hành hoặc khó xuất hiện biến thể mới. Trong khi đó, từ góc độ sức khỏe cộng đồng, GS Thiébaut tin tưởng việc trộn vắc xin có thể giúp thế giới vượt qua đại dịch bằng cách đẩy nhanh việc triển khai tiêm chủng vì các chính phủ có thể phân phối ngay các liều vắc xin mà họ nhận được mà không cần lo lắng về việc dành ra mũi thứ hai của các loại vắc xin cụ thể để tiêm cho người dân vài tuần hoặc vài tháng sau đó. Đối với hàng triệu cá nhân đã tiêm liều ban đầu bằng vắc xin AstraZeneca đang băn khoăn không biết phải làm gì tiếp theo: tiêm liều thứ hai hay chuyển sang một loại vắc xin khác? Cũng sẽ dễ dàng đưa ra quyết định để không làm mất đi cơ hội của chính mình.
(Nguồn: “Tiêm trộn lẫn vắc xin covid-19 có an toàn?” Hoàng Yến, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 7, năm 2021)
Ý nào nói đúng nhất nội dung chính của bài đọc trên?
1. Nước thải chăn nuôi nói riêng và những loại nước thải giàu chất hữu cơ trong quá trình sản xuất, chế biến hoặc sinh hoạt thường ngày của con người nói chung đều tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng nếu không được xử lý đúng cách. Hiện nay, việc xử lý nước thải giàu hữu cơ chủ yếu thông qua các biện pháp sinh học, sử dụng vi sinh vật yếm khí (Anaerobic), thiếu khí (Anoxic) và hiếu khí (Oxic) để phân hủy các thành phần hữu cơ, kết hợp với một số phương pháp khác để xử lý, đảm bảo các yêu cầu về môi trường trước khi xả ra nguồn tiếp nhận.
2. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc xử lý cũng đạt được hiệu quả như mong muốn, phải kiểm soát chặt chẽ quá trình vận hành, thời gian, nhiệt độ và mức oxy thích hợp, 10 đồng thời phải bổ sung những chất dinh dưỡng cần thiết như nitơ, phốtpho hoặc các thành phần vi lượng đảm bảo cho vi sinh vật phát triển. Thêm vào đó, quá trình phân hủy nhiệt động học các thành phần hữu cơ nhờ vi sinh vật cũng diễn ra rất phức tạp, liên quan đến nhiều phản ứng hóa học và tạo nhiều sản phẩm trung gian. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả xử lý thông qua tối ưu hóa quá trình phân hủy là hết sức cần thiết.
3. “Ở Việt Nam, mô hình toán đã được áp dụng vào nghiên cứu môi trường từ lâu, chủ yếu dùng để đánh giá lan truyền, phân bố các chất ô nhiễm hay dự báo phát thải. Tuy nhiên, xây dựng một thuật toán cho một lĩnh vực cụ thể ở đây là công nghệ xử lý yếm khí nước thải giàu hữu cơ từ chăn nuôi thì thực sự là một hướng đi mới” Chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Nguyễn Thị Hà, khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, chia sẻ. Họ đã kết hợp với các nhà toán học tại khoa Toán, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên để xây dựng phần mềm mô phỏng các phản ứng sinh hóa và quá trình nhiệt động học khi phân hủy yếm khí nước thải chăn nuôi giàu hữu cơ trong hệ MBR.
4. Nhóm nghiên cứu bắt đầu bằng việc điều tra thực địa và lấy mẫu phân tích tại chín cơ sở chăn nuôi ở ba tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tĩnh, Đồng Nai nhằm đánh giá đặc tính của nước thải chăn nuôi lợn. Cùng với các đồng nghiệp tại Viện Công nghệ Môi trường (Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam), dự án đã xây dựng được một hệ thống xử lý yếm khí quy mô phòng thí nghiệm để đánh giá hiệu quả xử lý nước thải (mẫu thực tế).
5. Hệ thống pilot này sử dụng công nghệ vật liệu mang cố định FBR và công nghệ màng lọc di chuyển MBR, có công suất 10 m/ngày đêm. Kết quả phân tích cho thấy hiệu quả xử lý yếm khí của hệ thống đạt 70 - 80% giá trị COD trong nước thải, tạo ra 0,28 lít biogas/g COD chuyển hóa, với tỷ lệ khí metan trong khí thoát ra đạt 65-70%. Hiệu quả của bể yếm khí đã đáp ứng yêu cầu để nước thải đầu ra tiếp tục đi đến công đoạn xử lí tiếp theo và đạt tiêu chuẩn xả thải hiện hành đối với nước thải chăn nuôi (QCVN 62-MT/2016-BTNMT).
6. PGS. TS. Nguyễn Thị Hà cho biết họ đã sử dụng dữ liệu từ hệ thống pilot này để làm đầu vào cho việc xây dựng phần mềm mô phỏng bởi các hệ thống xử lý nước thải hiện có ở Việt Nam chỉ phân tích các chỉ tiêu đầu vào, đầu ra theo yêu cầu về môi trường nhằm đáp ứng quy chuẩn mà không phân tích các thông số về sản phẩm trung gian như các loại axit béo dễ bay hơi, protein và đường. Đây lại là những thông số mà thuật toán mô phỏng rất cần”.
7. Để khắc phục, nhóm nghiên cứu đã bổ sung các thông số giả định và số liệu phân tích từ mô hình thực nghiệm. “Chúng tôi tiến hành chạy mô phỏng, đối chiếu với kết quả thực tế của hệ xử lý pilot, từ đó hiệu chỉnh thông số tính toán cho phù hợp. Toàn bộ quá trình nàymất gần một năm thực hiện.” PGS. TS. Nguyễn Thị Hà nói. Theo chị, khi hoàn thiện được mô hình mô phỏng và áp dụng mở rộng trong hệ thống xử lý nước thải mới, có thể giảm số lượng thí nghiệm khảo sát cần thực hiện từ 100 xuống còn 20-30, giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian và chi phí”.
8. Tuy nhiên, người đứng đầu dự án nhấn mạnh rằng mô hình này mới chỉ áp dụng cho một công đoạn cụ thể (xử lý yếm khí) của một đối tượng cụ thể (nước thải chăn nuôi). Để đạt yêu cầu đầu ra, nước thải sau đó phải tiếp tục được xử lý hiếu khí và trải qua một vài công đoạn khác. “Điều may mắn là nước thải chăn nuôi sau khi xử lý yếm khí đã giảm được 70-80% mức độ ô nhiễm hữu cơ, tổng chất rắn lơ lửng và có đầu ra tương đương với nước thải sinh hoạt, phù hợp để xử lý hiếu khí”, PGS. TS. Nguyễn Thị Hà tiết lộ, “Do vậy trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục cùng đồng nghiệp ở Đại học Kitakyush Nhật Bản, mở rộng mô hình mô phỏng cho những công đoạn xử lý nước thải chăn nuôi tiếp theo.”
9. Việc mô phỏng các công nghệ xử lý nước thải giàu hữu cơ cho các ngành có nguy 30 cơ gây ô nhiễm cao như sản xuất, chế biến tinh bột, mía đường, thủy sản... cũng có thể thực hiện tương tự. “Trên nền tảng phần mềm tối ưu đã xây dựng, chúng tôi sẽ chỉ mất khoảng 2-3 tháng để hiệu chỉnh các biến và thông số đầu vào phù hợp với đối tượng mới,” đại diện nhóm nghiên cứu nói thêm.
(Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Tối ưu công nghệ xử lý yếm khí nước thải 5 giàu hữu cơ, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 04/12/2020)
Ý nào sau đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
Ô nhiễm và nhiễm độc chì
1. Từ thời Ai Cập cổ đại người ta đã dùng chì oxide (PbO) dưới dạng một chất rắn màu vàng để làm men gốm. Khi nung ở nhiệt độ cao, PbO nóng chảy và hợp nhất với các nguyên liệu khác trong thành phần của men tạo thành một màng thủy tinh mỏng và bỏng trên bề mặt gốm, nhờ đó gốm không thấm nước và không dễ bám bẩn. PbO sẽ trở thành mối nguy hiểm nếu sử dụng không đúng cách: khi tiếp xúc với chất lỏng có tính axit, một phần PbO trong men bị hòa tan. Trong một vài giờ hoặc một vài ngày, nồng độ ion chì II (Pb2+) trong chất lỏng đó sẽ lên tới hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn phần triệu. Vì vậy, nếu bình gốm tráng men chỉ được dùng để chứa thực phẩm lỏng có tính axit thì thực phẩm sẽ bị nhiễm chì.
2. Thực tế cho thấy, bát đĩa tráng men chứa chì vẫn đang là nguồn chính gây nhiễm độc chì qua đường ăn uống, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Nghiên cứu cho thấy sau khi vào cơ thể người, chì được máu phân phối đi khắp cơ thể và tích lũy trong xương. Tùy thuộc vào mức độ phơi nhiễm, chỉ có thể ảnh hưởng xấu đến hệ thần kinh, chức năng thận, hệ miễn dịch, hệ tim mạch và hệ sinh sản và phát triển. Ngày nay ở hầu hết các quốc gia, người ta dùng các nguyên liệu khác thay thế cho PbO trong men gốm vì chúng gần như không bị hòa tan khi sử dụng và do đó an toàn hơn.
3. Trong suốt lịch sử nhân loại, nhiều hợp chất của chì đã được dùng làm chất màu vì chúng cho màu sắc ổn định và rực rỡ. Chì cromate (PbCrO4) là chất màu vàng tươi có trong loại sơn để sơn vạch và biển chỉ dẫn giao thông màu vàng. Chì đỏ (Pb3O4) là hỗn hợp oxide của Pb (II) và Pb (IV), có màu đỏ tươi và được trộn vào các loại sơn chống gỉ. Cho đến giữa thế kỷ XX, chì trắng (PbaCO3)2(OH)2) vẫn được dùng làm thành phần chính trong sơn nội thất màu trắng. Các chất màu chứa chì từng được dùng để in tạp chí và giấy gói thực phẩm. Thậm chí, ở nhiều thế kỷ trước, các muối chì còn được dùng để tạo màu cho thực phẩm.
4. Ngoài làm men gốm và chất màu, các hợp chất của chì còn được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác. Chì II arsenate (Pb(AsO4)2) từng được dùng trong thuốc trừ sâu. Đây là một trong những nguồn gây ô nhiễm Pb2+ cho đất trồng. Chì tetraethyl ((C2H5)4Pb) được pha vào xăng để tăng khả năng chịu nén và tiết kiệm đến 30% lượng xăng cần dùng. PbO sinh ra khi cháy xăng sẽ bám vào các ống xả và thành xi lanh, nên người ta còn trộn vào xăng một chất chứa bromate để PbO chuyển thành muối PbBF2 dễ bay hơi và thoát ra ngoài. Vì vậy, đây là một trong những nguồn gây ô nhiễm chì cho không khí và đất ở những nơi giao thông đông đúc. Một hợp chất khác của chì được dùng trong nhựa PVC để cải thiện độ bền nhiệt và độ bền tia cực tím cho loại nhựa này. Điều này đang gây áp lực về môi trường cho các nhà máy tái chế nhựa thải.
5. Trong xây dựng, vì bền màu hơn sơn không chì nên sơn chứa chì thường được quét lên những bề mặt chịu nhiều va chạm như tủ bếp và viền cửa sổ. Tuy nhiên, khi lớp sơn bong ra, trẻ nhỏ có thể nhặt lên ăn vì Pb2+ có vị ngọt. Một nghiên cứu ở Mỹ cho thay, trẻ nhỏ ở các khu ổ chuột nội thành, nơi những lớp sơn cũ vẫn đang tiếp tục bong tróc, thường có nồng độ chì trong máu cao. Vì vậy, những người cải tạo nhà cũ được khuyến nghị thu gom đúng cách bụi từ các lớp sơn cũ. Từ năm 1978, ở Mỹ đã quy định nồng độ chì trong sơn không được vượt quá 600 ppm. Còn ở Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước châu Á khác, cho đến nay chất màu chứa chì vẫn đang được dùng rộng rãi trong sơn nội thất, đôi khi ở mức vượt quá 180.000 ppm.
6. Ở các vùng đô thị, bụi ngọt đang là nguồn nguy cơ lớn đối với sức khóc của trẻ nhỏ. Chúng được tích lũy từ vô số vật liệu và hoạt động của con người như bụi sơn, gốm sứ, nhựa, xăng, các nhà máy tái chế và cả thuốc nhuộm tóc. Mặc dù nồng độ chì trong môi trường vẫn đang gia tăng ở một số nơi trên thế giới, nhưng tình trạng sử dụng tràn lan các hợp chất chứa chì dẫn đến không kiểm soát được mức độ phát thải đã giảm đáng kể trong vài thập kỷ qua nhiều nước phát triển. Nhờ vậy, nồng độ chì trong đất, nước và không khí ở những vùng đó đã giảm tương đối nhiều.
Ý chính của bài viết trên là gì?