Danh sách câu hỏi
Có 11,844 câu hỏi trên 237 trang
Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ
(1) Các mạch máu, còn được gọi là các mao mạch, nằm ở khắp cơ thể. 99% mạch máu của con người được cho là mao mạch. Tổng chiều dài của các mao mạch trong cơ thể của con người lên đến 100.000 km, tức là có thể quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần. Các mao mạch có vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động sống của con người, giúp con người khỏe mạnh. Các mao mạch khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì khoảng 40% mao mạch trong cơ thể bị suy giảm. Cùng với sự gia tăng của tuổi tác, các mao mạch suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các mạch máu xấu. Sự suy giảm các mao mạch được các nhà khoa học ví như những con tàu ma của hệ thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn tại những mao mạch trống rỗng mà không có sự lưu thông máu.
(2) Mỗi mao mạch có đường kính 0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày của sợi tóc). Bằng việc sử dụng các thiết bị chụp ảnh sinh học tối tân nhất với độ phân giải siêu cao, các nhà khoa học đã đi sâu tìm hiểu cơ chế và tác động của những mao mạch xấu, từ đó tìm ra các giải pháp để giúp con người sống khỏe hơn và lâu hơn. Qua kính hiển vi và các thiết bị chuyên dụng, có thể quan sát thấy sự biến mất của các mao mạch. Những nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ chế xuất hiện những mạch máu xấu và phương pháp làm giảm sự xuất hiện của chúng.
(3) Các nhà khoa học tại Đại học Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa mạch máu xấu và tuổi thọ con người. Một lượng lớn dữ liệu về những người sống thọ và bí quyết sống thọ đã được thu thập. Nhóm người được nghiên cứu sống ở vùng đô thị có độ tuổi trong khoảng 85-98. Những người này được theo dõi 16 chỉ số trong cơ thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ số về sức khỏe của đôi chân, chỉ số về sự tiến triển của xơ cứng động mạch và điện tâm đồ. Đây là những chỉ số rất quan trọng để xác định mối quan hệ giữa các mao mạch và tuổi thọ.
(4) Các nhà khoa học đã sử dụng một thiết bị có thể chụp và quan sát các mao mạch để phát hiện phạm vi các mạch máu xấu xuất hiện trên cơ thể. Phạm vi của các mạch máu xấu xuất hiện ở gốc móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc móng tay giúp chúng ta quan sát các mao mạch cũng như các tế bào máu lưu thông một cách dễ dàng.
(5) Đến tháng 3/2019, nhóm nghiên cứu của GS Yasumichi Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra mao mạch của 1.000 người cao tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về mối quan hệ giữa mạch máu và tuổi thọ. Theo đó, sự xuất hiện mạch máu xấu càng nhiều và càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến tuổi thọ. Họ cũng phát hiện ra rằng, các mạch máu xấu xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể còn tương đối trẻ (20-30 tuổi). Quá trình này diễn ra nhanh chóng khiến những vùng da xấu không ngừng mở rộng.
(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân của bệnh loãng xương
Mạch máu xấu không chỉ tác động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những mạch máu xấu hình thành nhiều dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da, khiến da trở nên nhăn nheo. Tại Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các nhà khoa học đã áp dụng công nghệ mới nhất để nghiên cứu hoạt động của các mao mạch. Trước đây, các nghiên cứu chưa từng quan sát một cách chi tiết những mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ thuật mới cho phép các nhà khoa học của Đại học Y Jichi thành công trong việc phát hiện những mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể con người. Công nghệ mới này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của các mao mạch cũng như hậu quả xảy ra khi các mao mạch biến thành các mạch máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên cứu mối liên hệ giữa mạch máu xấu với các tế bào da.
(7) Các mao mạch có nhiệm vụ cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho các tế bào riêng lẻ trên khắp cơ thể. Những mao mạch này đóng vai trò quan trọng đối với sắc đẹp và sức khỏe của con người. Nếu các mạch máu xấu hình thành dưới da, chúng sẽ ngăn chặn việc cung cấp oxy và dinh dưỡng cho các tế bào, làm tăng các tế bào tổn hại da, khiến da mất khả năng hồi phục. Chúng có thể làm cho da nhăn nheo và chảy sệ. Khi các mạch máu xấu xuất hiện sẽ đẩy nhanh quá trình lão hóa, là nguyên nhân gây ra một loạt các căn bệnh liên quan như: huyết áp cao, tiểu đường, các chứng bệnh về tim mạch và ung thư... Không chỉ có vậy, khi cơ thể xuất hiện mạch máu xấu sẽ xuất hiện những căn bệnh khác như tóc rụng; bàn tay, bàn chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do lượng nhiệt vận chuyển qua mạch máu đến chúng bị kém đi. Ngoài ra, các mạch máu xấu còn ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng gan, thận; làm giảm hiệu quả của thuốc trong quá trình điều trị bệnh, đặc biệt là những loại thuốc rất quan trọng trong cuộc chiến chống ung thư.
(8) Các nhà khoa học của Viện Max Planck (Đức) đã tìm ra mối liên hệ giữa các mạch máu xấu với bệnh loãng xương. Trong nghiên cứu của mình, GS Ralf Adam (Viện Max Planck) đã tiến hành thí nghiệm trên những con chuột khỏe mạnh và những con chuột già. Nhóm nghiên cứu của ông đã tiên phong trong việc chụp ảnh thành công các mao mạch trong xương. Những hình ảnh cho thấy, những con chuột già bị loãng xương có rất ít các mao mạch trong xương. Nghiên cứu chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và trống rỗng làm loãng xương. Các mao mạch có tác dụng cung cấp canxi và các dưỡng chất giúp hình thành mô xương mới. Khi mao mạch trở nên xấu đi, việc cung cấp canxi cho xương không còn, khiến các mô xương bị hoại tử.
(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ
Nghiên cứu về vai trò của mạch máu cũng như tác động tiêu cực của mạch máu xấu đến não bộ, lần đầu tiên, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng, mạch máu xấu là nguyên nhân gây ra chứng mất trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc Đại học Nam California (Mỹ) đã tập trung nghiên cứu yếu tố mấu chốt liên quan đến các mao mạch xấu trong não. Sử dụng kính hiển vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ các tế bào nội mô. Những tế nào này hình thành giống như bức tường của mạch máu, bên cạnh những tế bào ngoại mạch. Những tế bào nội mô tạo thành lớp niêm mạc cho các mao mạch, giúp cho máu tuần hoàn trong cơ thể; còn những tế bào ngoại mạch dính chặt bên ngoài các mao mạch và cố định ở đó. Các tế bào ngoại mạch được dính kết lại để bảo vệ cấu trúc các mao mạch. Trong các mao mạch khỏe mạnh, lượng oxy và dinh dưỡng được liên kết thông qua các lỗ hổng của tế bào nội mô và vận chuyển đến các tế bào xung quanh. Nhưng nếu các tế bào ngoại mạch bắt đầu bóc tách làm cho phần bảo vệ các mao mạch không còn, khiến các tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ và trở nên yếu ớt. Những khoảng trống bên trong mao mạch trở nên rộng hơn, kết quả là một lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng bị rò rỉ ra ngoài. Khi đó, máu không thể lưu thông qua những chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu xấu không ngừng phát triển. GS Berislav Zlokovic (Đại học Nam California), nhà khoa học hàng đầu thế giới chuyên nghiên cứu về các mạch máu não cho rằng, tế bào ngoại mạch chỉ có ở những mạch máu não, và “Tế bào ngoại mạch là những người gác cổng các mao mạch trong não giúp tái tạo protein. Nhưng nếu các tế bào ngoại mạch tổn thương, nghĩa là máu không thể lưu thông bình thường trong não”.
(10) Nhóm nghiên cứu của GS Berislav Zlokovic quyết định tìm hiểu những triệu chứng xuất hiện trong não khi các tế bào ngoại mạch biến mất. Để làm được việc đó, họ đã thử nghiệm trên những con chuột bình thường và những con chuột bị giảm 25% khả năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch thông qua kỹ thuật di truyền. Thử nghiệm của nhóm GS Berislav Zlokovic là cho 2 con chuột chạy trên bánh xe quay, sau đó cho dừng bánh xe quay một cách đột ngột. Kết quả cho thấy, những con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử lý tình huống bằng cách tiếp tục cho bánh xe quay, nhưng những con chuột bị giảm 25% khả năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch lại không thể kiểm soát được bánh xe. Từ đó, họ đi đến kết luận, những mao mạch xấu làm giảm khả năng hoạt động của não trước những phản ứng đột ngột. Điều này dẫn đến triệu chứng mất trí nhớ.
(11) Trong một trường hợp khác, các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Đại học Ehime và Đại học Mie (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên cứu những bất thường của não ở giai đoạn sớm nhất để có thời gian đưa ra các biện pháp trị liệu hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu của mình, GS Hidekaru Tomimoto (Đại học Mie, là một trong những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về vai trò của các mao mạch liên quan tới chứng mất trí nhớ) nhận thấy, não của người mắc bệnh Alzheimer có số lượng mao mạch giảm khoảng 29% so với người khỏe mạnh và những mạch máu xấu xuất hiện nhiều hơn, từ đó làm xuất hiện các Amyloid beta. Các nhà khoa học tin rằng, khi Amyloid beta xuất hiện với số lượng lớn trong não sẽ dẫn đến tình trạng bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, chứng mất trí nhớ không chỉ do các mạch máu xấu gây nên mà còn do các chứng bệnh khác gây ra. Nhưng một điều chắc chắn rằng, để ngăn chặn bệnh Alzheimer thì điều cần làm là phải ngăn chặn việc hình thành các mạch máu xấu.
(12) Nghiên cứu của các nhà khoa học nêu trên cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của những mạch máu xấu trong cơ thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị huyết áp cao, lười tập thể dục... Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn ngừa sự xuất hiện các mạch máu xấu là duy trì một lối sống lành mạnh: ăn uống khoa học (không ăn quá nhiều), không hút thuốc lá, tập thể dục hoặc chơi một môn thể thao nào đó hàng ngày... Một trong những giải pháp thú vị mà các nhà khoa học khuyên mọi người là thường xuyên thực hiện động tác thể dục nâng cao gót hai chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng và sau đó thả gót chân xuống. Đây là giải pháp đơn giản không cần sự hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể thực hiện ở bất cứ thời gian và địa điểm nào.
(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Nội dung chính của văn bản trên là?
Đột phá mới trong điều trị xuất huyết hậu sản
(1) Băng huyết được giới chuyên môn cho là hiện tượng khi lượng máu chảy từ đường sinh dục của sản phụ trong vòng 24 giờ sau sinh lớn hơn 500 ml hoặ c mất máu lớn hơn 1% trọng lượng cơ thể, hoặc một lượng máu mất bất kỳ nhưng ảnh hưởng đến huyết động học. Mức độ nặng của băng huyết không chỉ phụ thuộc vào lượng máu mất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào thể trạng của sản phụ trước khi bị băng huyết.
(2) “Mẹ tròn con vuông” là niềm mong mỏi và là hạnh phúc của mọi gia đình khi có sản phụ đi sinh. Nhưng quá trình sinh nở luôn là nỗi lo canh cánh của rất nhiều bà mẹ mang thai và gia đình họ. Mỗi ngày, trên thế giới có hàng nghìn bà mẹ tử vong do tai biến sản khoa và mỗi năm có hàng triệu phụ nữ không có cơ hội sống để hoàn thành thiên chức làm mẹ, đặc biệt là sản phụ ở những nơi có điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội khó khăn, an sinh xã hội kém và thiếu thốn các điều kiện sống cơ bản. Cho đến nay, băng huyết vẫn được xem là nguyên nhân gây tử vong cao nhất trong 5 nguyên nhân tử vong hàng đầu đối với sản phụ.
(3) Mặc dù những tiến bộ trong y học đã góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong do băng huyết, nhưng hai từ này luôn là nỗi ám ảnh không chỉ với những phụ nữ sinh thường và những người thân của họ mà còn cả với nhiều chuyên gia sản khoa. Theo WHO, hiện có khoảng 70.000 phụ nữ tử vong mỗi năm vì xuất huyết hậu sản, điều này cũng có nghĩa là tăng nguy cơ con của họ cũng chết trong vòng một tháng. Đối với Việt Nam, tỷ lệ băng huyết sau sinh chiếm 3-8% tổng số sinh.
(4) Với những nước đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia nghèo, thì tỷ lệ phụ nữ tử vong do băng huyết lại càng cao do nguyên nhân cơ bản là cuộc sống khó khăn, phụ nữ mang thai phải làm việc nặng nhọc, thậm chí lao động trong môi trường độc hại; chế độ nghỉ ngơi không đảm bảo; chế độ ăn uống thiếu dinh dưỡng... Cơ sở y tế nghèo nàn, không đảm bảo vệ sinh, thiếu thốn các trang thiết bị và thuốc điều trị khiến việc cấp cứu và điều trị những phụ nữ bị xuất huyết hậu sản trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Hiện nay, WHO khuyến cáo dùng oxytocin là thuốc lựa chọn đầu tiên để ngăn ngừa chảy máu quá mức sau khi sinh. Tuy nhiên, oxytocin phải được bảo quản ở nhiệt độ 2-8 o C. Đây thực sự là một công việc khó khăn ở nhiều quốc gia nghèo. Bởi vậy mà rất nhiều sản phụ không có cơ hội được tiếp cận nguồn thuốc này. Hoặc nếu có được loại thuốc này trong tay thì hiệu lực của thuốc đã bị giảm đáng kể do tiếp xúc với nhiệt độ cao bên ngoài vì thiếu thốn trang thiết bị bảo quản cần thiết.
(5) Vừa qua, WHO đã nghiên cứu thành công một loại thuốc với công thức mới (có tên là carbetocin) có thể giúp ngăn ngừa băng huyết ở phụ nữ sau khi sinh. Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học New England [3]. Thuốc carbetocin được bảo quản ở môi trường bình thường (30 o C, độ ẩm tương đối là 75%) với hạn sử dụng lên tới 3 năm. TS Tedros Adhanom Ghebreyesus - Tổng giám đốc WHO nhận định: “Đây là một bước tiến vượt bậc của y học, giúp cứu sống hàng vạn bà mẹ và trẻ sơ sinh mỗi năm”.
(6) Trong nghiên cứu của mình, các nhà khoa học đã tiến hành một cuộc thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (RCT) với quy mô lớn (29.645 phụ nữ sinh thường) đến từ 23 bệnh viện ở các quốc gia: Argentina, Ai Cập, Ấn Độ, Kenya, Nigeria, Singapore, Nam Phi, Thái Lan, Uganda và Vương quốc Anh. Mỗi phụ nữ được tiêm ngẫu nhiên một liều carbetocin hoặc oxytocin ngay sau khi sinh con. Nghiên cứu cho thấy, cả hai loại thuốc đều có hiệu quả như nhau trong việc ngăn ngừa băng huyết sau khi sinh.
(7) Để có được đánh giá so sánh chính xác phương pháp thử nghiệm không thấp kém hơn (non-inferiority) chứng minh phương pháp điều trị mới, cá c nhà khoa học đã đảm bảo các điều kiện bảo quản, đặc biệt là nhiệt độ của oxytocin, để mỗi loại thuốc đạt hiệu quả tối đa khi điều trị. Thử nghiệm được tiến hành với việc sử dụng carbetocin ổn định nhiệt trong môi trường thực tế, nơi oxytocin có thể bị thoái hóa do tiếp xúc với nhiệt độ cao hơn. Kết quả thử nghiệm cho thấy, tác dụng và hiệu quả điều trị với carbetocin không thua kém oxytocin: tần suất mất máu ít nhất 500 ml hoặc sử dụng thêm thuốc co hồi tử cung là 14,5% ở nhóm carbetocin và 14,4% ở nhóm oxytocin; tần suất mất máu ít nhất 1.000 ml là 1,51% ở nhóm carbetocin và 1,45% ở nhóm oxytocin. Việc sử dụng các thuốc co hồi tử cung bổ sung, can thiệp để ngừng chảy máu và các tác dụng phụ không khác biệt đáng kể giữa hai nhóm. “Sự phát triển của một loại thuốc để ngăn ngừa xuất huyết hậu sản vẫn tiếp tục có hiệu quả trong điều kiện nóng và ẩm là tin rất tốt cho hàng triệu phụ nữ sinh con ở các nơi trên thế giới mà không được tiếp cận với các thiết bị bảo quản tốt”, TS Metin G ü lmezoglu - Viện Nghiên cứu Sức khỏe và Sinh sản của WHO cho biết.
(8) Với sự ra đời của thuốc mới carbetocin, tới đây, những phụ nữ ở các khu vực hẻo lánh và thiếu thốn sẽ không còn bị ám ảnh bởi thần chết mang tên “băng huyết” rình rập. WHO đang chuẩn bị bước tiếp theo là xem xét và phê duyệt theo quy định của các quốc gia để đưa carbetocin vào sử dụng trong điều trị.
(9) Điều thú vị hơn là mới đây, một nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc Đại học Birmingham (Vương quốc Anh) cũng đã chỉ ra rằng, việc ra đời những loại thuốc mới sẽ giúp ngăn chặn hiệu quả những tai biến nguy hiểm có thể xảy ra đối với các sản phụ. Công trình nghiên cứu của họ đã đưa ra một giải pháp mới, đó là kết hợp các loại thuốc với nhau để tăng hiệu quả điều trị. Chẳng hạn như ergometrine với oxytocin, misoprostol với oxytocin hay điều trị bằng carbetocin sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu chỉ sử dụng oxytocin như hiện nay. Phân tích dữ liệu từ 140 cuộc thử nghiệm lâm sàng khác nhau liên quan đến hơn 88.000 phụ nữ, các nhà khoa học đã có được cách so sánh chính xác đối với hiệu quả điều trị của tất cả các loại thuốc này.
(Nguồn: “Đột phá mới trong điều trị xuất huyết hậu sản”, Nguyễn Minh Đức, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)
Xuất huyết hậu sản thường gặp ở đối tượng nào?
1. Tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học cơ bản đã thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết trong những tháng ngày của năm 2020 khi đại dịch Covid-19 đang hoành hành trên khắp thế giới. Nhờ có các nghiên cứu cơ bản, cụ thể là các nghiên cứu khám phá về virus, con người đã nhanh chóng xác định được các đặc trưng cơ bản cũng cách chúng phát triển, lây lan và tấn công cơ thể con người. Từ đó, các chính phủ, dựa trên các khuyến nghị từ các nhà khoa học, đã đưa ra các phương án kịp thời và hiệu quả để bảo vệ người dân như giãn cách xã hội hay đeo khẩu trang ở nơi công cộng.
2. Tuy nhiên, đó chỉ là các phương án tạm thời. Thế giới cần có biện pháp hiệu quả và bền vững hơn, và đó chính là vaccine. Các phương pháp chế tạo vaccine truyền thống cần một thời gian tương đối dài, cỡ 10 năm, và do đó không đáp ứng được nhu cầu cấp bách hiện nay. Rất may, các nghiên cứu khoa học đột phá về mRNA của nhà khoa học người Hungary, TS. Katalin Kariko, tiến hành vào năm 2005 khi bà làm việc tại Đại học Pennsylvania, đã trở thành chìa khoá để giúp các nhà nghiên cứu của Công ty BioNTech, có trụ sở tại thành phố Mainz, nước Đức tìm ra vaccine chỉ trong vòng một thời gian kỷ lục 10 tháng, thay vì 10 năm.
3. Trước khi Covid-19 nổ ra, các nghiên cứu của TS. Katalin Kariko từng bị hoài nghi. Có lẽ chính TS. Katalin Kariko cũng không thể nghĩ được rằng các nghiên cứu táo bạo của mình lại trở thành phép màu cho cả thế giới 15 năm sau. Như nhà khoa học đoạt giải Nobel về Sinh lý học và Y học năm 1993, Richard Roberts, đã từng nói “Vẻ đẹp của nghiên cứu khoa học thể hiện ở chỗ bạn không bao giờ biết được nó sẽ dẫn đến đâu”. Hay như nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý năm 2012, Serge Haroche, đã từng nói “Ngay cả những người thông minh nhất cũng không thể hình dung ra hết các hệ quả của nghiên cứu mà họ tiến hành”. Trong số hàng trăm nghiên cứu lớn nhỏ của TS. Katalin Kariko, chỉ cần một trong số chúng nhen nhóm hi vọng hồi sinh cho cả thế giới thì còn gì tuyệt vời hơn?
4. Từ câu chuyện về vaccine Covid-19, chúng ta thấy rằng cần phải có một tư duy hệ thống, sâu sắc và dài hạn cho nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản là các nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu bản chất và quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng tự nhiên. Các kết quả của nó mang tính nguyên bản. Động lực để phát triển nó đó chính là sự tò mò của con người. Mọi quá trình nóng vội mang tính thời vụ đều không phù hợp với các nghiên cứu cơ bản.
5. Khi Newton nghiên cứu và xây dựng nên lý thuyết hấp dẫn, mục tiêu của ông đó là giải thích được câu hỏi “tại sao quả táo rơi xuống đất thay vì bay lên trời?” Nhưng sau đó, chính ông và nhiều nhà khoa học khác thấy được lý thuyết hấp dẫn này còn giải thích và tiên đoán được vô số hiện tượng khác xảy ra trong tự nhiên và vũ trụ. Cơ học Newton đã thành nền tảng lý thuyết để các kỹ sư chế tạo nên máy móc, phương tiện giao thông, cầu đường, nhà cửa. Thiếu nó, mọi hoạt động con người sẽ không còn trơn tru và hiệu quả. Thiếu nó, bạn sẽ không có một chiếc xe Vinfast chạy nhanh và êm ái được.
6. Khi Planck đề xuất thuyết lượng tử, mục tiêu của ông đó là giải quyết vấn đề chưa có lời giải về phổ bức xạ của vật đen tuyệt đối. Và chắc chắn ông không thể hình dung lý thuyết của mình trở thành một trong hai trụ cột chính của Vật lý hiện đại. Nhờ có lý thuyết lượng tử mà con người ngày hôm nay có các máy tính cá nhân, các điện thoại thông minh, hay các tấm pin năng lượng mặt trời. Nhờ có thuyết lượng tử mà chúng ta có thời đại công nghiệp 4.0. Thiếu nó chúng ta không thể có các tập đoàn công nghệ lớn mạnh như Viettel.
7. Vào thời điểm này, đại dịch Covid-19 vẫn là câu chuyện đang rất nóng hổi. Chúng ta nên biết rằng nếu không có các nghiên cứu khám phá về cấu trúc DNA đầu tiên của Francis Crick, James Watson, và Rosalind Franklin cách đây 67 năm thì chúng ta ở sẽ không có vaccine Covid-19 nhanh như bây giờ. Chúng ta cần nhớ có rất nhiều loại virus khác nhau tồn tại trong tự nhiên. Hôm nay virus này đến từ con dơi, nhưng ngày mại virus khác có khi lại đến từ một con chim hót rất hay. Chúng ta cần phải chuẩn bị cho các đại dịch có thể xảy ra trong tương lai. Đầu tư cho khoa học cơ bản để duy trì một đội ngũ các nhà khoa học tài năng, am tường các tiến bộ khoa học – công nghệ của nhân loại là một cách chuẩn bị khôn ngoan nhất. Trong quá khứ, một dân tộc thiện chiến có thể thống lĩnh cả thế giới. Nhưng trong tương lai, một dân tộc tồn tại được dài lâu hay không phụ thuộc vào việc dân tộc đó uyên bác đến mức độ nào..
(Theo Đỗ Quốc Tuấn, Khoa học cơ bản: Giữa vẻ đẹp và tính hữu ích, Báo Khoa học & Phát triển, ngày 11/02/2021)
Nội dung chính của bài đọc trên là?
Những tiến bộ trong nghiên cứu vắc-xin và thuốc điều trị để chống lại căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS
(1) Tháng 7/2017, Hội nghị khoa học toàn cầu về HIV/AIDS (IAS 2017) đã diễn ra tại Paris, Pháp với 1.700 bài báo khoa học được trình bày. Các nghiên cứu đã chỉ ra các cách tiếp cận và công cụ mới để tăng cường kiểm soát HIV trên toàn cầu.
(2) Bà Linda-Gail Bekker, Chủ tịch Hiệp hội quốc tế về AIDS (IAS) và là Chủ tịch Hội đồng khoa học quốc tế của IAS 2017 cho biết: “Mỗi nghiên cứu đang tập trung hiện nay đều đưa chúng ta đến một bước gần hơn với sự kết thúc của HIV. Nghiên cứu bao gồm nhiều hướng khác nhau như vắc-xin, các phương pháp điều trị mới. Bằng chứng thực tế cho thấy, những nỗ lực hiện tại của chúng ta để mở rộng các thử nghiệm và điều trị đang được đánh giá cao”.
(3) Hướng sản xuất vắc-xin HIV đã mang lại nhiều hứa hẹn mới: Đó là kết quả từ nghiên cứu APPROACH, một nghiên cứu pha 1/2a đánh giá 7 loại vắc- xin phòng ngừa HIV khác nhau (vắc-xin tái tổ hợp dựa trên gen đặc trưng của virus HIV). Nghiên cứu APPROACH được thực hiện trên 393 người lớn có nguy cơ nhiễm HIV thấp ở Mỹ, Rwanda, Uganda, Nam Phi và Thái Lan. Loại vắc-xin này bao gồm hai gen đầu tiên với Ad26.Mos.HIV và hai tái tổ hợp với Ad26.Mos.HIV và Clade C gp140 được bổ sung thêm nhôm đáp ứng được miễn dịch mạnh nhất. Loại vắc-xin này đã được chứng minh là bảo vệ tốt nhất cho loài linh trưởng.
(4) Tiến bộ trong nghiên cứu thuốc điều trị HIV dạng tiêm có thời gian tác dụng kéo dài, đó chính là LATTE-2. Đây là một nghiên cứu mở giai đoạn II b, dùng phối hợp hai thuốc cabotegravir (chất ức chế integrase) và rilpivirine (NNRTI - ức chế men sao chép ngược non-nucleotide thế hệ thứ hai) như là một liệu pháp duy trì cho những người đã điều trị ARV (ARV là thuốc điều trị dùng cho những người bị HIV, có tác dụng làm giảm sự phát triển của virus HIV và làm chậm giai đoạn HIV sang AIDS) có tải lượng virus HIV dưới ngưỡng phát hiện. Nghiên cứu cho thấy, liệu trình điều trị bằng thuốc tiêm, có tác dụng kéo dài sẽ thuận tiện hoặc ít bị kỳ thị hơn so với thuốc uống hàng ngày, điều này có thể giúp cải thiện tỷ lệ tuân thủ điều trị ở người nhiễm HIV.
(5) Giáo sư Joseph Eron thuộc Đại học North Carolina (Chapel Hill, Mỹ) đã trình bày kết quả nghiên cứu về LATTE-2 được thử nghiệm trong 96 tuần. Nghiên cứu cho thấy, thuốc có tác dụng kéo dài trên những bệnh nhân sử dụng thuốc. Trong đó dạng tiêm dung nạp tốt và đạt được tỷ lệ đáp ứng virus dưới ngưỡng ức chế cao, bất kể tiêm với tần suất bốn tuần một lần hoặc tám tuần một lần. Liệu trình liều lượng bốn tuần hiện đang được đánh giá trong các nghiên cứu giai đoạn III.
(6) Có thể thấy, với những kết quả nghiên cứu trong sản xuất vắc-xin và thuốc điều trị HIV dạng tiêm cùng các chiến lược tốt hơn để chống lại các bệnh nhiễm trùng cơ hội sẽ mang lại những hiệu quả nhất định trong việc kiểm soát căn bệnh này trong thời gian tới.
(Nguồn: “Những tiến bộ trong nghiên cứu vắc-xin và thuốc điều trị để chống lại căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS”, Nguyễn Văn Kính, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 1, năm 2018)
Nội dung chính được văn bản đề cập là gì?