Danh sách câu hỏi

Có 11,844 câu hỏi trên 237 trang
Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ (1) Các mạch máu, còn được gọi  là  các  mao  mạch,  nằm  ở  khắp  cơ thể.  99% mạch máu của con  người  được  cho  là  mao  mạch.  Tổng  chiều  dài  của  các  mao  mạch trong cơ thể của con người  lên đến 100.000 km, tức là có thể  quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần.  Các  mao  mạch  có  vai  trò  quan  trọng trong việc duy trì hoạt động  sống  của  con  người,  giúp  con  người khỏe mạnh. Các mao mạch  khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh  ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì  khoảng 40% mao mạch trong cơ  thể bị suy giảm. Cùng với sự gia  tăng của tuổi tác, các mao mạch  suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các  mạch máu xấu. Sự suy giảm các  mao mạch được các nhà khoa học  ví như những con tàu ma của hệ  thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn  tại những mao mạch trống rỗng  mà không có sự lưu thông máu.   (2) Mỗi mao mạch có đường kính  0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày  của sợi tóc).  Bằng việc sử dụng  các  thiết  bị  chụp  ảnh  sinh  học  tối tân nhất với độ phân giải siêu  cao, các nhà khoa học đã đi sâu  tìm hiểu cơ chế và tác động của  những mao mạch xấu, từ đó tìm ra  các giải pháp để giúp con người  sống khỏe hơn và lâu hơn.  Qua  kính hiển vi và các thiết bị chuyên  dụng, có thể quan sát thấy sự biến  mất  của  các  mao  mạch. Những  nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ  chế  xuất  hiện  những  mạch  máu  xấu và phương pháp làm giảm sự  xuất hiện của chúng. (3) Các nhà khoa học tại Đại học  Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung  nghiên  cứu  mối  quan  hệ  giữa  mạch  máu  xấu  và  tuổi  thọ  con  người.  Một  lượng  lớn  dữ  liệu  về  những người sống thọ và bí quyết  sống thọ đã được thu thập. Nhóm  người  được  nghiên  cứu  sống  ở  vùng  đô  thị  có  độ  tuổi  trong  khoảng 85-98. Những người này  được theo dõi 16 chỉ số trong cơ  thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ  số về sức khỏe của đôi chân, chỉ  số về sự tiến triển của xơ cứng  động mạch và điện tâm đồ. Đây  là những chỉ số rất quan trọng để  xác  định  mối  quan  hệ  giữa  các  mao mạch và tuổi thọ. (4) Các nhà khoa học đã sử dụng  một thiết bị có thể chụp và quan  sát các mao mạch để phát hiện  phạm vi các mạch máu xấu xuất  hiện trên cơ thể. Phạm vi của các  mạch  máu  xấu  xuất  hiện  ở  gốc  móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc  móng tay giúp chúng ta quan sát  các mao mạch cũng như các tế  bào máu lưu thông một cách dễ  dàng.   (5) Đến  tháng  3/2019,  nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Yasumichi  Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra  mao mạch của 1.000 người cao  tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về  mối quan hệ giữa mạch máu và  tuổi  thọ.  Theo  đó,  sự  xuất  hiện  mạch  máu  xấu  càng  nhiều  và  càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu  cực  đến  tuổi  thọ.  Họ  cũng  phát  hiện ra rằng, các mạch máu xấu  xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể  còn  tương  đối  trẻ  (20-30  tuổi).  Quá  trình  này  diễn  ra  nhanh  chóng khiến những vùng da xấu  không ngừng mở rộng. (6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân  của bệnh loãng xương Mạch máu xấu không chỉ tác  động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó  còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những  mạch máu xấu hình thành nhiều  dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da,  khiến da trở nên nhăn nheo. Tại  Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các  nhà  khoa  học  đã  áp  dụng  công  nghệ  mới  nhất  để  nghiên  cứu  hoạt  động  của  các  mao  mạch.  Trước đây, các nghiên cứu chưa  từng  quan  sát  một  cách  chi  tiết  những mao mạch nhỏ nhất trong  cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ  thuật mới cho phép các nhà khoa  học  của  Đại  học  Y  Jichi  thành  công trong việc phát hiện những  mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể  con  người.  Công  nghệ  mới  này  giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm  quan  trọng  của  các  mao  mạch  cũng như hậu quả xảy ra khi các  mao mạch biến thành các mạch  máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên  cứu mối liên hệ giữa mạch máu  xấu với các tế bào da. (7) Các  mao  mạch  có  nhiệm  vụ  cung cấp oxy và chất dinh dưỡng  cho các tế bào riêng lẻ trên khắp  cơ  thể.  Những  mao  mạch  này  đóng  vai  trò  quan  trọng  đối  với  sắc  đẹp  và  sức  khỏe  của  con  người.  Nếu  các  mạch  máu  xấu  hình  thành  dưới  da,  chúng  sẽ  ngăn chặn việc cung cấp oxy và  dinh dưỡng cho các tế bào, làm  tăng các tế bào tổn hại da, khiến  da mất khả năng hồi phục. Chúng  có thể làm cho da nhăn nheo và  chảy sệ. Khi các mạch máu xấu  xuất hiện sẽ  đẩy nhanh quá trình  lão hóa,  là  nguyên  nhân  gây  ra  một loạt các căn bệnh liên quan  như:  huyết  áp  cao,  tiểu  đường,  các chứng bệnh về tim mạch và  ung  thư...  Không  chỉ  có  vậy,  khi  cơ thể xuất hiện mạch máu xấu  sẽ  xuất  hiện  những  căn  bệnh  khác như tóc rụng; bàn tay, bàn  chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do  lượng nhiệt vận chuyển qua mạch  máu đến chúng bị kém đi. Ngoài  ra,  các  mạch  máu  xấu  còn  ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  chức  năng  gan,  thận;  làm  giảm  hiệu  quả  của thuốc trong quá trình điều trị  bệnh, đặc biệt là những loại thuốc  rất  quan  trọng  trong  cuộc  chiến  chống ung thư. (8) Các  nhà  khoa  học  của  Viện  Max Planck (Đức) đã tìm ra mối  liên hệ giữa các mạch máu xấu  với  bệnh  loãng  xương.  Trong  nghiên  cứu  của  mình,  GS  Ralf  Adam (Viện Max Planck) đã tiến  hành thí nghiệm trên những con  chuột khỏe mạnh và những con  chuột già. Nhóm nghiên cứu của  ông đã tiên phong trong việc chụp  ảnh  thành  công  các  mao  mạch  trong  xương.  Những  hình  ảnh  cho  thấy,  những  con  chuột  già  bị loãng xương có rất ít các mao  mạch  trong  xương.  Nghiên  cứu  chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và  trống rỗng làm loãng xương. Các  mao mạch có tác dụng cung cấp  canxi và các dưỡng chất giúp hình  thành  mô  xương  mới.  Khi  mao  mạch  trở  nên  xấu  đi,  việc  cung  cấp canxi cho xương không còn,  khiến các mô xương bị hoại tử. (9) Kẻ lấy cắp trí nhớ Nghiên cứu về vai trò của mạch  máu cũng như tác động tiêu cực  của mạch máu xấu đến não bộ,  lần đầu tiên, các nhà khoa học đã  phát hiện ra rằng, mạch máu xấu  là nguyên nhân gây ra chứng mất  trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc  Đại học Nam California (Mỹ) đã  tập trung nghiên cứu yếu tố mấu  chốt liên quan đến các mao mạch  xấu trong não. Sử dụng kính hiển  vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ  các tế bào nội mô. Những tế nào  này  hình  thành  giống  như  bức  tường của mạch máu, bên cạnh  những tế bào ngoại mạch. Những  tế bào nội mô tạo thành lớp niêm  mạc cho các mao mạch, giúp cho  máu tuần hoàn trong cơ thể; còn  những  tế  bào  ngoại  mạch  dính  chặt bên ngoài các mao mạch và  cố định ở đó. Các tế bào ngoại  mạch được dính kết lại để bảo vệ  cấu  trúc  các  mao  mạch.  Trong  các mao mạch khỏe mạnh, lượng  oxy và dinh dưỡng được liên kết  thông qua các lỗ hổng của tế bào  nội mô và vận chuyển đến các tế  bào xung quanh. Nhưng nếu các  tế  bào  ngoại  mạch  bắt  đầu  bóc  tách  làm  cho  phần  bảo  vệ  các  mao mạch không còn, khiến các  tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ  và trở nên yếu ớt. Những khoảng  trống  bên  trong  mao  mạch  trở  nên  rộng  hơn,  kết  quả  là  một  lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng  bị  rò  rỉ  ra  ngoài.  Khi  đó,  máu  không  thể  lưu  thông  qua  những  chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu  xấu không ngừng phát triển. GS  Berislav  Zlokovic  (Đại  học  Nam  California),  nhà  khoa  học  hàng  đầu  thế  giới  chuyên  nghiên  cứu  về các mạch máu não cho rằng,  tế bào ngoại mạch chỉ có ở những  mạch máu não, và “Tế bào ngoại  mạch  là  những  người  gác  cổng  các mao mạch trong não giúp tái  tạo protein. Nhưng nếu các tế bào  ngoại mạch tổn thương, nghĩa là  máu  không  thể  lưu  thông  bình  thường trong não”. (10) Nhóm  nghiên  cứu  của  GS  Berislav  Zlokovic  quyết  định  tìm  hiểu những triệu chứng xuất hiện  trong  não  khi  các  tế  bào  ngoại  mạch  biến  mất.  Để  làm  được  việc  đó,  họ  đã  thử  nghiệm  trên  những con chuột bình thường và  những con chuột bị giảm 25% khả  năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch  thông qua kỹ thuật di truyền. Thử  nghiệm  của  nhóm  GS  Berislav  Zlokovic là cho 2 con chuột chạy  trên  bánh  xe  quay,  sau  đó  cho  dừng bánh xe quay một cách đột  ngột.  Kết  quả  cho  thấy,  những  con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử  lý tình huống bằng cách tiếp tục  cho bánh xe quay, nhưng những  con chuột bị giảm 25% khả năng  tự  tạo  ra  tế  bào  ngoại  mạch  lại  không thể kiểm soát được bánh  xe.  Từ  đó,  họ  đi  đến  kết  luận,  những mao mạch xấu làm giảm  khả  năng  hoạt  động  của  não  trước những phản ứng đột ngột.  Điều này dẫn đến triệu chứng mất  trí nhớ.   (11) Trong  một  trường  hợp  khác,  các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện  Đại  học  Ehime  và  Đại  học  Mie  (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc  kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là  kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên  cứu  những  bất  thường  của  não  ở giai đoạn sớm nhất để có thời  gian đưa ra các biện pháp trị liệu  hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu  của mình, GS Hidekaru Tomimoto  (Đại học Mie, là một trong những  chuyên gia hàng đầu nghiên cứu  về vai trò của các mao mạch liên  quan tới chứng mất trí nhớ) nhận  thấy,  não  của  người  mắc  bệnh  Alzheimer có số lượng mao mạch  giảm  khoảng  29%  so  với  người  khỏe mạnh và những mạch máu  xấu  xuất  hiện  nhiều  hơn,  từ  đó  làm xuất hiện các Amyloid beta.  Các  nhà  khoa  học  tin  rằng,  khi  Amyloid  beta  xuất  hiện  với  số  lượng lớn trong não sẽ dẫn đến  tình  trạng  bệnh  Alzheimer.  Tuy  nhiên,  chứng  mất  trí  nhớ  không  chỉ  do  các  mạch  máu  xấu  gây  nên mà còn do các chứng bệnh  khác  gây  ra.  Nhưng  một  điều  chắc  chắn  rằng,  để  ngăn  chặn  bệnh Alzheimer thì điều cần làm  là phải ngăn chặn việc hình thành  các mạch máu xấu. (12) Nghiên cứu của các nhà khoa  học nêu trên cũng đã chỉ ra một số  nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện  của những mạch máu xấu trong cơ  thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị  huyết  áp  cao,  lười  tập  thể  dục...  Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn  ngừa sự xuất hiện các mạch máu  xấu  là  duy  trì  một  lối  sống  lành  mạnh: ăn uống khoa học (không  ăn  quá  nhiều),  không  hút  thuốc  lá, tập thể dục hoặc chơi một môn  thể thao nào đó hàng ngày... Một  trong những giải pháp thú vị mà  các  nhà  khoa  học  khuyên  mọi  người  là  thường  xuyên  thực  hiện  động tác thể dục  nâng cao gót hai  chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng  và sau đó thả gót chân xuống. Đây  là giải pháp đơn giản không cần sự  hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể  thực hiện ở bất cứ thời gian và địa  điểm nào. (Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019) Nội dung chính của văn bản trên là?
Đột phá mới trong điều trị xuất huyết hậu sản (1) Băng huyết được giới chuyên  môn cho là hiện tượng khi lượng  máu chảy từ đường sinh dục của  sản  phụ  trong  vòng  24  giờ  sau  sinh  lớn  hơn  500  ml  hoặ c  mất  máu lớn hơn 1% trọng lượng cơ  thể, hoặc một lượng máu mất bất  kỳ nhưng ảnh hưởng đến huyết  động học.  Mức độ nặng của băng  huyết  không  chỉ  phụ  thuộc  vào  lượng máu mất mà còn phụ thuộc  rất nhiều vào thể trạng của sản  phụ trước khi bị băng huyết.   (2) “Mẹ tròn con vuông” là niềm  mong mỏi và là hạnh phúc của  mọi  gia  đình  khi  có  sản  phụ  đi  sinh.  Nhưng  quá  trình  sinh  nở  luôn là nỗi lo canh cánh của rất  nhiều  bà  mẹ  mang  thai  và  gia  đình họ. Mỗi ngày, trên thế giới  có hàng nghìn bà mẹ tử vong do  tai  biến  sản  khoa  và  mỗi  năm  có  hàng  triệu  phụ  nữ  không  có  cơ hội sống để hoàn thành thiên  chức làm mẹ, đặc biệt là sản phụ  ở những nơi có điều kiện địa lý,  kinh tế - xã hội khó khăn, an sinh  xã  hội  kém  và  thiếu  thốn  các  điều kiện sống cơ bản. Cho đến  nay,  băng  huyết  vẫn  được  xem  là nguyên nhân gây tử vong cao  nhất trong 5 nguyên nhân tử vong  hàng đầu đối với sản phụ. (3) Mặc dù những tiến bộ trong y  học đã góp phần làm giảm tỷ lệ  tử vong do băng huyết, nhưng hai  từ này luôn là nỗi ám ảnh không  chỉ với những phụ nữ sinh thường  và những người thân của họ mà  còn cả với nhiều chuyên gia sản  khoa. Theo WHO, hiện có khoảng  70.000 phụ nữ tử vong mỗi năm vì  xuất huyết hậu sản, điều này  cũng  có  nghĩa  là  tăng  nguy  cơ  con của họ cũng chết trong vòng  một tháng. Đối với Việt Nam, tỷ lệ  băng huyết sau sinh chiếm 3-8%  tổng số sinh.   (4) Với  những  nước  đang  phát  triển, đặc biệt là những quốc gia  nghèo, thì tỷ lệ phụ nữ tử vong  do  băng  huyết  lại  càng  cao  do  nguyên nhân cơ bản là cuộc sống  khó khăn, phụ nữ mang thai phải  làm  việc  nặng  nhọc,  thậm  chí  lao  động  trong  môi  trường  độc  hại; chế độ nghỉ ngơi không đảm  bảo; chế độ ăn uống thiếu dinh  dưỡng... Cơ sở y tế nghèo nàn,  không  đảm  bảo  vệ  sinh,  thiếu  thốn các trang thiết bị và thuốc  điều trị khiến việc cấp cứu và điều  trị những phụ nữ bị xuất huyết hậu  sản trở nên khó khăn hơn bao giờ  hết. Hiện nay, WHO khuyến cáo  dùng oxytocin là thuốc lựa chọn  đầu tiên để ngăn ngừa chảy máu  quá mức sau khi sinh. Tuy nhiên,  oxytocin  phải  được  bảo  quản  ở  nhiệt  độ  2-8 o C.  Đây  thực  sự  là  một công việc khó khăn ở nhiều  quốc gia nghèo. Bởi vậy mà rất  nhiều sản phụ không có cơ hội  được tiếp cận nguồn thuốc này.  Hoặc nếu có được loại thuốc này  trong tay thì hiệu lực của thuốc đã  bị giảm đáng kể do tiếp xúc với  nhiệt  độ  cao bên  ngoài vì  thiếu  thốn trang thiết bị bảo quản cần  thiết. (5) Vừa  qua,  WHO  đã  nghiên  cứu  thành  công  một  loại  thuốc  với  công  thức  mới  (có  tên  là  carbetocin) có thể giúp ngăn ngừa  băng huyết ở phụ nữ sau khi sinh.  Nghiên  cứu  được  công  bố  trên  Tạp chí Y học New England [3].  Thuốc carbetocin được bảo quản  ở môi trường bình thường (30 o C,  độ ẩm tương đối là 75%) với hạn  sử dụng lên tới 3 năm. TS Tedros  Adhanom  Ghebreyesus  -  Tổng  giám đốc WHO nhận định: “Đây  là một bước tiến vượt bậc của y  học, giúp cứu sống hàng vạn bà  mẹ và trẻ sơ sinh mỗi năm”.   (6) Trong  nghiên  cứu  của  mình,  các nhà khoa học đã tiến hành  một  cuộc  thử  nghiệm  lâm  sàng  đối  chứng  ngẫu  nhiên  (RCT)  với  quy  mô  lớn  (29.645  phụ  nữ  sinh  thường)  đến  từ  23  bệnh  viện  ở  các  quốc  gia:  Argentina,  Ai Cập, Ấn Độ, Kenya, Nigeria,  Singapore,  Nam  Phi,  Thái  Lan,  Uganda và Vương quốc Anh. Mỗi  phụ  nữ  được  tiêm  ngẫu  nhiên  một liều carbetocin hoặc oxytocin  ngay  sau  khi  sinh  con.  Nghiên  cứu  cho  thấy,  cả  hai  loại  thuốc  đều có hiệu quả như nhau trong  việc ngăn ngừa băng huyết sau  khi sinh. (7) Để có được đánh giá so sánh  chính  xác  phương  pháp  thử  nghiệm  không  thấp  kém  hơn  (non-inferiority) chứng minh phương  pháp điều trị mới, cá c nhà khoa  học  đã  đảm  bảo  các  điều  kiện  bảo  quản,  đặc  biệt  là  nhiệt  độ  của  oxytocin,  để  mỗi  loại  thuốc  đạt  hiệu  quả  tối  đa  khi  điều  trị.  Thử  nghiệm  được  tiến  hành  với  việc sử dụng carbetocin ổn định  nhiệt  trong  môi  trường  thực  tế,  nơi oxytocin có thể bị thoái hóa  do tiếp xúc với nhiệt độ cao hơn.  Kết  quả  thử  nghiệm  cho  thấy,  tác  dụng  và  hiệu  quả  điều  trị  với  carbetocin  không  thua  kém  oxytocin:  tần  suất  mất  máu  ít  nhất 500 ml hoặc sử dụng thêm  thuốc  co  hồi  tử  cung  là  14,5%  ở  nhóm  carbetocin  và  14,4%  ở  nhóm oxytocin; tần suất mất máu  ít nhất 1.000 ml là 1,51% ở nhóm  carbetocin  và  1,45%  ở  nhóm  oxytocin. Việc sử dụng các thuốc  co hồi tử cung bổ sung, can thiệp  để  ngừng  chảy  máu  và  các  tác  dụng phụ không khác biệt đáng  kể giữa hai nhóm. “Sự phát triển  của một loại thuốc để ngăn ngừa  xuất huyết hậu sản vẫn tiếp tục  có hiệu quả trong điều kiện nóng  và ẩm là tin rất tốt cho hàng triệu  phụ  nữ  sinh  con  ở  các  nơi  trên  thế giới mà không được tiếp cận  với các thiết bị bảo quản tốt”, TS  Metin G ü lmezoglu - Viện Nghiên  cứu  Sức  khỏe  và  Sinh  sản  của  WHO cho biết. (8) Với  sự  ra  đời  của  thuốc  mới  carbetocin, tới đây, những phụ nữ  ở các khu vực hẻo lánh và thiếu  thốn sẽ không còn bị ám ảnh bởi  thần chết mang tên “băng huyết”  rình  rập.  WHO  đang  chuẩn  bị  bước tiếp theo là xem xét và phê  duyệt theo quy định của các quốc  gia  để  đưa  carbetocin  vào  sử  dụng trong điều trị. (9) Điều  thú  vị  hơn  là  mới  đây,  một  nghiên  cứu  được  thực  hiện  bởi các nhà khoa học thuộc Đại  học  Birmingham  (Vương  quốc  Anh) cũng đã chỉ ra rằng, việc  ra  đời  những  loại  thuốc  mới  sẽ  giúp ngăn chặn hiệu quả những  tai biến nguy hiểm có thể xảy ra  đối với các sản phụ. Công trình  nghiên  cứu  của  họ  đã  đưa  ra  một giải pháp mới, đó là kết hợp  các loại thuốc với nhau để tăng  hiệu  quả  điều  trị.  Chẳng  hạn  như  ergometrine  với  oxytocin,  misoprostol với oxytocin hay điều  trị  bằng  carbetocin  sẽ  hiệu  quả  hơn  rất  nhiều  nếu  chỉ  sử  dụng  oxytocin như hiện nay. Phân tích  dữ liệu từ 140 cuộc thử nghiệm  lâm  sàng  khác  nhau  liên  quan  đến hơn 88.000 phụ nữ, các nhà  khoa  học  đã  có  được  cách  so  sánh chính xác đối với hiệu quả  điều trị của tất cả các loại thuốc  này. (Nguồn: “Đột phá mới trong điều trị xuất huyết hậu sản”, Nguyễn Minh Đức, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018) Xuất huyết hậu sản thường gặp ở đối tượng nào?
1. Tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học cơ bản đã thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết trong những tháng ngày của năm 2020 khi đại dịch Covid-19 đang hoành hành trên khắp thế giới. Nhờ có các nghiên cứu cơ bản, cụ thể là các nghiên cứu khám phá về virus, con người đã nhanh chóng xác định được các đặc trưng cơ bản cũng cách chúng phát triển, lây lan và tấn công cơ thể con người. Từ đó, các chính phủ, dựa trên các khuyến nghị từ các nhà khoa học, đã đưa ra các phương án kịp thời và hiệu quả để bảo vệ người dân như giãn cách xã hội hay đeo khẩu trang ở nơi công cộng. 2. Tuy nhiên, đó chỉ là các phương án tạm thời. Thế giới cần có biện pháp hiệu quả và bền vững hơn, và đó chính là vaccine. Các phương pháp chế tạo vaccine truyền thống cần một thời gian tương đối dài, cỡ 10 năm, và do đó không đáp ứng được nhu cầu cấp bách hiện nay. Rất may, các nghiên cứu khoa học đột phá về mRNA của nhà khoa học người Hungary, TS. Katalin Kariko, tiến hành vào năm 2005 khi bà làm việc tại Đại học Pennsylvania, đã trở thành chìa khoá để giúp các nhà nghiên cứu của Công ty BioNTech, có trụ sở tại thành phố Mainz, nước Đức tìm ra vaccine chỉ trong vòng một thời gian kỷ lục 10 tháng, thay vì 10 năm. 3. Trước khi Covid-19 nổ ra, các nghiên cứu của TS. Katalin Kariko từng bị hoài nghi. Có lẽ chính TS. Katalin Kariko cũng không thể nghĩ được rằng các nghiên cứu táo bạo của mình lại trở thành phép màu cho cả thế giới 15 năm sau. Như nhà khoa học đoạt giải Nobel về Sinh lý học và Y học năm 1993, Richard Roberts, đã từng nói “Vẻ đẹp của nghiên cứu khoa học thể hiện ở chỗ bạn không bao giờ biết được nó sẽ dẫn đến đâu”. Hay như nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý năm 2012, Serge Haroche, đã từng nói “Ngay cả những người thông minh nhất cũng không thể hình dung ra hết các hệ quả của nghiên cứu mà họ tiến hành”. Trong số hàng trăm nghiên cứu lớn nhỏ của TS. Katalin Kariko, chỉ cần một trong số chúng nhen nhóm hi vọng hồi sinh cho cả thế giới thì còn gì tuyệt vời hơn? 4. Từ câu chuyện về vaccine Covid-19, chúng ta thấy rằng cần phải có một tư duy hệ thống, sâu sắc và dài hạn cho nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản là các nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu bản chất và quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng tự nhiên. Các kết quả của nó mang tính nguyên bản. Động lực để phát triển nó đó chính là sự tò mò của con người. Mọi quá trình nóng vội mang tính thời vụ đều không phù hợp với các nghiên cứu cơ bản. 5. Khi Newton nghiên cứu và xây dựng nên lý thuyết hấp dẫn, mục tiêu của ông đó là giải thích được câu hỏi “tại sao quả táo rơi xuống đất thay vì bay lên trời?” Nhưng sau đó, chính ông và nhiều nhà khoa học khác thấy được lý thuyết hấp dẫn này còn giải thích và tiên đoán được vô số hiện tượng khác xảy ra trong tự nhiên và vũ trụ. Cơ học Newton đã thành nền tảng lý thuyết để các kỹ sư chế tạo nên máy móc, phương tiện giao thông, cầu đường, nhà cửa. Thiếu nó, mọi hoạt động con người sẽ không còn trơn tru và hiệu quả. Thiếu nó, bạn sẽ không có một chiếc xe Vinfast chạy nhanh và êm ái được. 6. Khi Planck đề xuất thuyết lượng tử, mục tiêu của ông đó là giải quyết vấn đề chưa có lời giải về phổ bức xạ của vật đen tuyệt đối. Và chắc chắn ông không thể hình dung lý thuyết của mình trở thành một trong hai trụ cột chính của Vật lý hiện đại. Nhờ có lý thuyết lượng tử mà con người ngày hôm nay có các máy tính cá nhân, các điện thoại thông minh, hay các tấm pin năng lượng mặt trời. Nhờ có thuyết lượng tử mà chúng ta có thời đại công nghiệp 4.0. Thiếu nó chúng ta không thể có các tập đoàn công nghệ lớn mạnh như Viettel. 7. Vào thời điểm này, đại dịch Covid-19 vẫn là câu chuyện đang rất nóng hổi. Chúng ta nên biết rằng nếu không có các nghiên cứu khám phá về cấu trúc DNA đầu tiên của Francis Crick, James Watson, và Rosalind Franklin cách đây 67 năm thì chúng ta ở sẽ không có vaccine Covid-19 nhanh như bây giờ. Chúng ta cần nhớ có rất nhiều loại virus khác nhau tồn tại trong tự nhiên. Hôm nay virus này đến từ con dơi, nhưng ngày mại virus khác có khi lại đến từ một con chim hót rất hay. Chúng ta cần phải chuẩn bị cho các đại dịch có thể xảy ra trong tương lai. Đầu tư cho khoa học cơ bản để duy trì một đội ngũ các nhà khoa học tài năng, am tường các tiến bộ khoa học – công nghệ của nhân loại là một cách chuẩn bị khôn ngoan nhất. Trong quá khứ, một dân tộc thiện chiến có thể thống lĩnh cả thế giới. Nhưng trong tương lai, một dân tộc tồn tại được dài lâu hay không phụ thuộc vào việc dân tộc đó uyên bác đến mức độ nào.. (Theo Đỗ Quốc Tuấn, Khoa học cơ bản: Giữa vẻ đẹp và tính hữu ích, Báo Khoa học & Phát triển, ngày 11/02/2021) Nội dung chính của bài đọc trên là?
Những tiến bộ trong nghiên cứu vắc-xin và thuốc điều trị để chống lại căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS (1) Tháng  7/2017,  Hội  nghị  khoa  học  toàn  cầu  về  HIV/AIDS  (IAS  2017)  đã  diễn  ra tại Paris, Pháp với 1.700 bài  báo khoa học được trình bày. Các  nghiên  cứu  đã  chỉ  ra  các  cách  tiếp cận và công cụ mới để tăng  cường  kiểm  soát  HIV  trên  toàn  cầu. (2) Bà  Linda-Gail  Bekker,  Chủ  tịch  Hiệp  hội  quốc  tế  về  AIDS  (IAS)  và  là  Chủ  tịch  Hội  đồng  khoa học quốc tế của IAS 2017  cho biết: “Mỗi nghiên cứu đang  tập trung hiện nay đều đưa chúng  ta đến một bước gần hơn với sự  kết thúc của HIV. Nghiên cứu bao  gồm nhiều hướng khác nhau như  vắc-xin, các phương pháp điều trị  mới. Bằng chứng thực tế cho thấy,  những nỗ lực hiện tại của chúng  ta để mở rộng các thử nghiệm và  điều trị đang được đánh giá cao”.   (3) Hướng  sản  xuất  vắc-xin  HIV  đã mang lại nhiều hứa hẹn mới:  Đó  là  kết  quả  từ  nghiên  cứu  APPROACH,  một  nghiên  cứu  pha  1/2a  đánh  giá  7  loại  vắc- xin phòng ngừa HIV khác nhau  (vắc-xin tái tổ hợp dựa trên gen  đặc trưng của virus HIV). Nghiên  cứu APPROACH được thực hiện  trên  393  người  lớn  có  nguy  cơ  nhiễm HIV thấp ở Mỹ, Rwanda,  Uganda, Nam Phi và Thái Lan.  Loại vắc-xin này bao gồm hai gen  đầu tiên với Ad26.Mos.HIV và hai  tái tổ hợp với  Ad26.Mos.HIV và  Clade  C  gp140  được  bổ  sung  thêm nhôm đáp ứng được miễn  dịch mạnh nhất. Loại vắc-xin này  đã được chứng minh là bảo vệ tốt  nhất cho loài linh trưởng. (4) Tiến bộ trong nghiên cứu thuốc  điều  trị  HIV  dạng  tiêm  có  thời  gian tác dụng kéo dài, đó chính  là LATTE-2. Đây là một nghiên  cứu mở giai đoạn II b, dùng phối  hợp hai thuốc cabotegravir (chất  ức  chế  integrase)  và  rilpivirine  (NNRTI - ức chế men sao chép  ngược non-nucleotide thế hệ thứ  hai) như là một liệu pháp duy trì  cho những người đã điều trị ARV  (ARV là thuốc điều trị dùng cho  những người bị HIV, có tác dụng  làm giảm sự phát triển của virus  HIV và làm chậm giai đoạn HIV  sang AIDS) có tải lượng virus HIV  dưới  ngưỡng  phát  hiện.  Nghiên  cứu  cho  thấy,  liệu  trình  điều  trị  bằng thuốc tiêm, có tác dụng kéo  dài sẽ thuận tiện hoặc ít bị kỳ thị  hơn so với thuốc uống hàng ngày,  điều này có thể giúp cải thiện tỷ  lệ tuân thủ điều trị ở người nhiễm  HIV. (5) Giáo  sư  Joseph  Eron  thuộc  Đại học North Carolina (Chapel  Hill,  Mỹ)  đã  trình  bày  kết  quả  nghiên cứu về LATTE-2 được thử  nghiệm  trong  96  tuần.  Nghiên cứu cho thấy, thuốc có tác dụng kéo dài trên những bệnh nhân sử dụng thuốc. Trong đó dạng tiêm  dung nạp tốt và đạt được tỷ lệ đáp  ứng  virus  dưới  ngưỡng  ức  chế  cao, bất kể tiêm với tần suất bốn  tuần một lần hoặc tám tuần một  lần. Liệu trình liều lượng bốn tuần hiện đang được đánh giá  trong  các nghiên cứu giai đoạn III. (6) Có thể thấy, với những kết quả  nghiên cứu trong sản xuất vắc-xin  và thuốc điều trị HIV dạng tiêm  cùng các chiến lược tốt hơn để  chống lại các bệnh nhiễm trùng  cơ  hội  sẽ  mang  lại  những  hiệu  quả  nhất  định  trong  việc  kiểm  soát căn bệnh này trong thời gian  tới. (Nguồn: “Những tiến bộ trong nghiên cứu vắc-xin và thuốc điều trị để chống lại căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS”, Nguyễn Văn Kính, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 1, năm 2018) Nội dung chính được văn bản đề cập là gì?