Danh sách câu hỏi
Có 11,844 câu hỏi trên 237 trang
Các loại biển chủng COVID-19 tính đến thời điểm hiện tại
Virus SARS-CoV-2 đang là nỗi lo của toàn cầu khi chúng không ngừng thay đổi cấu trúc và hình thành nên các loại biến chủng COVID-19 mới. Bài viết sau đây sẽ gửi đến bạn đọc một số thông tin về các biến chủng COVID-19 này cũng như dấu hiệu chung nhận biết một người nhiễm SARS-CoV-2.1. Các loại biến chủng COVID-19
Virus SARS-CoV-2 là cụm từ chỉ một họ virus lớn gồm nhiều chủng loại, có khả năng gây ảnh hưởng đến hệ hô hấp, đường tiêu hóa và các bộ phận trong cơ thể, tác động tiêu cực đến sức khỏe, thậm chí là gây tử vong. Các loại biến chủng COVID-19 là thuật ngữ dùng để chỉ những loại virus có khác biệt đáng kể với các virus đồng loại của nó. Sự khác biệt này được biểu hiện cơ bản qua những khía cạnh sau: khả năng lây nhiễm, mức độ gây bệnh, mức độ chịu đựng đối với thuốc điều trị, vắc xin.
Hiện nay, virus SARS-CoV-2 không ngừng biến đổi tạo nên những chủng mới gây khó khăn cho quá trình nghiên cứu, điều trị. Một số biến chủng mới nhất gần đây như:
2. Biến thể virus SARS-CoV-2 Alpha
Biến thể Alpha hay còn có tên gọi khác là B.1.1.7, được phát hiện lần đầu tiên tại Vương quốc Anh. Đáng chú ý, đây được đánh giá là chủng virus đánh dấu sự bùng dịch trên toàn cầu vào cuối năm 2020. Theo nghiên cứu của các Nhà nghiên cứu tại Anh, chủng virus này có mức độ lây nhiễm cao hơn 70% so với một số chủng trước đó. Điều này tạo nên hồi chuông cảnh báo về mức độ nguy hiểm của chủng virus này.
Hiện nay có rất nhiều chủng virus với mức độ nguy hiểm khác nhau
3. Biến thể Nam Phi với tên gọi phổ biến là Belta
Vào tháng 12 năm 2020, các nhà chức trách y tế Nam Phi công bố thêm một chủng virus SARS-CoV-2 mới mang tên Belta, kí hiệu B.1.351. Quá trình nghiên cứu các nhà khoa học đã khẳng định rằng, biến thể Belta này có thể nâng khả năng lây nhiễm lên cao gấp 1.5 lần so với biến thể Alpha. Loại biến thể này có ba đột biến gen là E484K, K417N, N501Y và chúng có khả năng vượt hàng rào bảo vệ một cách dễ dàng hơn, ngay cả khi đã tiêm vắc xin
4. Biển thế đến từ Brazil có tên Gamma (Dòng P.1.)
Virus SARS-CoV-2 lần đầu tiên được phát hiện trên nhóm 4 người tại Nhật Bản sau khi trở về từ Brazil (theo tờ New York Times). Sau đó, số ca nhiễm do virus này không ngừng tăng nhanh và gây ra không ít nỗi kinh hoàng trên toàn thế giới về tốc độ lây nhiễm.
Ở biến chủng này có tồn tại một đoạn đột biến “độc đáo”, tạo nên một tốc độ lây lan, suy giảm sức khỏe người bệnh một cách nhanh chóng vượt trội. Thậm chí, chúng còn có thể gây tái nhiễm sau khi đã cho kết quả âm tính.
Tuyệt đối không nên chủ quan trước sự biến đổi cấu trúc của virus SARS-CoV-2
5. Biến thể kép Delta có nguồn gốc từ Ấn Độ
Biến thể Delta có kí hiệu là B.1.617.2, thường được gọi là biến thể kép nhằm nhấn mạnh mức độc nguy hiểm của chủng virus này. Hiện nay chúng đã xuất hiện ở rất nhiều nơi trên khắp thế giới và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn đề sức khỏe cũng như khả năng kiểm soát dịch bệnh của các quốc gia.
Biến thể Delta có sức mạnh lây lan khủng khiếp hơn rất nhiều so với các chủng trước đó. Sức mạnh truyền nhiễm của chúng cũng ở mức cảnh báo. Đặc biệt, với khả năng hạn chế hình thành triệu chứng, việc truy vết các ca bệnh nhiễm virus này thường gặp nhiều khó khăn. Tải lượng virus Delta có thể tồn tại ở khoang mũi cao gấp 1.000 lần so với những chủng đã phát hiện trước đó. Đây cũng là một trong những nguyên nhân lý giải cho tốc độ lây lan của chủng Delta.
6. Biến chủng Lambda
Giữa lúc các nghiên cứu về các loại biến chủng COVID-19 đang cho một kết quả khởi sắc thì biến chủng Lambda xuất hiện gây nên nhiều biến động. Chúng có kí hiệu là C.37 và có tính chất nguy hiểm cực kỳ lớn. Người nhiễm virus này có thể nhanh chóng rơi vào trạng thái nguy kịch, thậm chí là tử vong nếu có nhiều bệnh nền trước đó. Bên cạnh tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm cao, virus chủng Lambda còn có khả năng chống lại hệ thống miễn dịch.
Các loại biến chủng COVID-19 ngày càng đa dạng với mức độ lây lan nhanh chóng
7. Biến chủng Epsilon
Đây được xem là biến chủng mới nhất hiện nay, phát hiện lần đầu tiên tại Mỹ. Ở chủng mới này, chúng được chứng minh là có khả năng biến đổi tự động theo nhiều cách khác nhau nhằm tránh được lá chắn miễn dịch. Ngoài ra, những vấn đề liên quan khác vẫn đang được nghiên cứu.
8. Dấu hiệu nhận biết nguy cơ nhiễm virus SARS-CoV-2
Thực tế cho thấy rằng, không phải tất cả bệnh nhân nhiễm virus SARS-CoV-2 đều sẽ có những triệu chứng rõ ràng. Dấu hiệu nhận biết bệnh phổ biến nhất đó là ho và sốt. Tuy nhiên, những chủng COVID-19 gần đây khi xâm nhập vào cơ thể trong giai đoạn đầu hầu như không gây bất kỳ triệu chứng nào liên quan đến hệ hô hấp nhưng vẫn cho kết quả dương tính. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho việc nhận biết, phân vùng và kiểm soát dịch bệnh.
9. Một số biểu hiện phổ biến khi virus SARS-CoV-2 xâm nhập là:
- Sốt là một trong những triệu chứng phổ biến nhất khi một trong các loại biến chủng COVID-19 xâm nhập vào cơ thể. Tuy nhiên cần lưu ý rằng đây còn là dấu hiệu của một số bệnh lý khác như: cảm cúm, cảm lạnh... Thông thường, nhiệt độ cơ thể dao động từ 36.5 đến 37 độ tùy thuộc vào mỗi độ tuổi, tình trạng sức khỏe. Do đó, khi cơ thể trên 37.5 độ, nên được tư vấn để chẩn đoán chính xác tình trạng sức khỏe.
- Biểu hiện điển hiện mà hầu hết các chủng virus SARS-CoV-2 đều gây ra cho người bệnh đó là ho. Dấu hiệu này thường dễ gây nhầm lẫn với một số bệnh lý viêm đường hô hấp khác như cúm. Những cơn ho do loại virus này gây ra thường kèm theo biểu hiệu rát cổ nghiêm trọng, đau tức phần xương ức và xương ngực, cảm giác có vật lạ đè nặng ở cổ.
- Mất vị giác và khứu giác cũng được xem là triệu chứng để nhận biết nhóm bệnh nguy hiểm này. Người bệnh khi ăn các loại thức ăn, thực phẩm không còn nhận diện rõ rệt được mùi vị, thậm chí mất cảm giác đối với món ăn đó.
- Khi virus SARS-CoV-2 ủ bệnh đến một giai đoạn nhất định sẽ hình thành triệu chứng khó thở khi ho khan hoặc không. Ngoài ra, có thể đi kèm với những biểu hiện như: tức ngực, ngất xỉu, rối loạn cảm xúc, da mặt tái xanh, không thể hít thở sâu,...
- Ở một số ít bệnh nhân còn xuất hiện tình trạng đau nhức cơ thể, ớn lạnh, có ảo giác hoặc rối loạn tiêu hóa.
Cần phân biệt giữa dấu hiệu nhiễm COVID-19 với các bệnh lý thông thường
11. Các loại biển chủng COVID-19 trong thời gian tới có thể thay đổi và hình thành nên một số chủng mới trong điều kiện thuận lợi. Do đó, mỗi cá nhân cần là một chiến binh phòng bệnh, tuân thủ quy định của Bộ Y tế và các cấp chính quyền để có thể nhanh chóng kiểm soát được tình dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe bản thân.
(Nguồn: Zing.vn)
Ý nào dưới đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh
Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ thuộc Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ - FIRST” do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Hồ Chí Minh) đã làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa thành công sản phẩm, góp phần chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất theo hướng công nghiệp.
Loài sâm quý cần bảo tồn và phát triển
Sâm Ngọc Linh (còn gọi là sâm Việt Nam) có tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., thuộc chi Nhân sâm - Panax, họ Ngũ Gia Bì - Araliaceae. Sâm mọc tập trung ở vùng núi Ngọc Linh (thuộc địa phận 2 tỉnh Quảng Nam và Kon Tum) và là 1 trong 4 loại sâm quý của đất nước.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, sâm Ngọc Linh không chỉ chứa nhiều saponin chính (G-Rb1, G-Rb2, G-Rb3, G-Rc, G-Rd, G-Re, G-Rg1…) giống như trong sâm Triều Tiên, mà còn chứa thêm các saponin khung Dammaran có cấu trúc Ocotillol chưa tìm thấy ở sâm Triều Tiên. Kết quả nghiên cứu thân - rễ của sâm Ngọc Linh cho thấy, có hơn 52 hoạt chất saponin (Gingsenoside), trong đó có 26 hợp chất có cấu trúc hoá học đã biết và 26 saponin có cấu trúc mới không có trong các loại nhân sâm khác được đặt tên là Vina-ginsenoside-R1-R24. Đặc biệt, sâm Ngọc Linh chứa chất Majonoside-R2 - là saponin nhóm Ocotillol chiếm hơn nửa tổng hàm lượng saponin của sâm Ngọc Linh và là nhóm chất có tác dụng quyết định đến chất lượng loài sâm Việt. Ngoài thành phần saponin, sâm Ngọc Linh còn chứa 17 thành phần acid béo, 18 acid amin, 20 nguyên tố vi lượng và các hợp chất sterol, cụ thể là β-sitosterol và daucosterin (β-sitosteryl-3-O-β- D-glucopyranosid). Trong củ và rễ sâm còn chứa các hợp chất glucid như đường tự do, đường toàn phần, tinh dầu, vitamin C…
Những kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm sâm Ngọc Linh đã chứng minh, sâm Ngọc Linh có tác dụng chống stress, kích thích hệ miễn dịch, chống ôxy hóa, phòng chống ung thư, bảo vệ tế bào gan... Đặc biệt, sâm Ngọc Linh có một số tính năng mà sâm khác không thể có như tính kháng khuẩn, chống trầm cảm, hiệu lực tốt với thuốc kháng sinh, thuốc điều trị bệnh tiểu đường... Chính vì những đặc tính quý hiếm này, sâm Ngọc Linh đang trở thành đối tượng săn tìm, bị khai thác, mua bán, sử dụng một cách khó kiểm soát.
Những năm gần đây đang nổi lên xu hướng ứng dụng công nghệ nuôi cấy sinh khối tế bào để sản xuất các hợp chất thứ cấp quan trọng trong ngành dược thay thế phương pháp truyền thống chiết xuất từ cây trồng cho hiệu quả thấp, có thể dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng một số loài như Taxus brevifolia, Podophyllum hexandrum và gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Tuy nhiên, việc sản xuất các hoạt chất thứ cấp bằng phương pháp nuôi cấy tế bào vẫn còn một số tồn tại, như dòng tế bào không ổn định, năng suất thấp và cần bổ sung chất dinh dưỡng vào môi trường nuôi cấy… Do vậy, hướng mới để sản xuất các hoạt chất thứ cấp là nuôi cấy rễ tóc.
Làm chủ công nghệ bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh
Ở Việt Nam, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên nghiên cứu thành công việc nghiên cứu tạo rễ tóc và phân tích các hợp chất thứ cấp sâm Ngọc Linh trên cơ sở hợp tác với Trường Đại học Picardie Julles Verne (Pháp). Kết quả là đã tạo ra những dòng rễ tái sinh tốt, sinh trưởng mạnh trên môi trường thạch rắn và lỏng lắc. Tuy nhiên, để làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh và thương mại hóa sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết, phối hợp giữa các nhà nghiên cứu công nghệ sinh học thực vật, hoá hữu cơ, dược và nhà sản xuất, nhà kinh doanh để tạo ra chuỗi khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến khâu cung cấp ra thị trường. Chuỗi liên kết này giúp cho kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế sản xuất và thương mại hoá sản phẩm, góp phần kết nối cung - cầu.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh đã đạt được, năm 2018, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đã đề xuất và được Ban Quản lý Dự án FIRST phê duyệt thực hiện tiểu dự án: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) và thương mại hóa sản phẩm” để sản xuất sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh quy mô công nghiệp, mang lại lợi ích kinh tế và góp phần vào việc chăm sóc sức khỏe con nguời.
Sau 2 năm triển khai thực hiện, dự án đã: 1) Xây dựng thành công quy trình công nghệ nuôi cấy rễ tóc sâm Ngọc Linh ở quy mô công nghiệp trên các Bioreactor 20 lít; 2) Sản xuất được 1.527,4 kg rễ tóc - sinh khối tươi phục vụ sản xuất cao chiết dạng bán thành phẩm làm nguồn nguyên liệu sản xuất nước uống và viên nang, xây dựng tiêu chuẩn nguồn nguyên liệu; 3) Xây dựng thành công quy trình chiết xuất cao chiết bán thành phẩm. Kết quả phân tích, đánh giá tính an toàn và tác động tăng lực của cao chiết rễ tóc Sâm Ngọc Linh đều đạt các chỉ tiêu đối với thuốc có nguồn gốc dược liệu; 4) Bào chế được 30 kg cao chiết bán thành phẩm từ sinh khối rễ tóc sâm Ngọc Linh làm viên nang cứng; 5) Xây dựng thành công quy trình sản xuất thực phẩm chức năng dạng viên nang cứng đạt yêu cầu chất lượng sản phẩm theo quy định; 6) Xây dựng thành công quy trình sản xuất nước uống từ rễ tóc sâm Ngọc Linh; 7) Bào chế và sản xuất được 103.949 viên nang cứng, 11.000 bịch (túi) nước sâm uống; 8) Đăng ký bảo hộ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh…
Hiện nay nhu cầu về sâm Ngọc Linh và các sản phẩm từ sâm Ngọc Linh ngày càng tăng, trong khi các phương pháp di thực và trồng sâm Ngọc Linh còn hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, việc nghiên cứu phát triển phương pháp mới để chủ động sản xuất sâm sinh khối là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về loại dược liệu quý, đồng thời xây dựng thương hiệu sâm Việt Nam.
Với việc thực hiện thành công dự án nêu trên, Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh đang hoàn thiện các quy trình sản xuất sinh khối, sản xuất cao chiết bán thành phẩm và các sản phẩm từ rễ tóc sâm Ngọc Linh để cung cấp ra thị trường; đồng thời sẵn sàng chuyển giao độc quyền hoặc từng phần cho các đơn vị đối tác để phát triển sản phẩm, đưa sản phẩm phục vụ sức khỏe con người
(Nguồn: “Làm chủ quy trình công nghệ Bioreactor sản xuất rễ tóc sâm Ngọc Linh”; Lâm Vỹ Nguyên; Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Số 6 năm 2021).
Diễn đạt nào dưới đây thể hiện rõ nhất ý chính của bài đọc trên?
Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ
(1) Các mạch máu, còn được gọi là các mao mạch, nằm ở khắp cơ thể. 99% mạch máu của con người được cho là mao mạch. Tổng chiều dài của các mao mạch trong cơ thể của con người lên đến 100.000 km, tức là có thể quấn vòng quanh Trái đất 2,5 lần. Các mao mạch có vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động sống của con người, giúp con người khỏe mạnh. Các mao mạch khỏe mạnh có thể suy giảm mạnh ở tuổi 40 trở đi, và đến tuổi 60 thì khoảng 40% mao mạch trong cơ thể bị suy giảm. Cùng với sự gia tăng của tuổi tác, các mao mạch suy giảm hoặc vỡ ra trở thành các mạch máu xấu. Sự suy giảm các mao mạch được các nhà khoa học ví như những con tàu ma của hệ thống tuần hoàn máu, ở đó chỉ tồn tại những mao mạch trống rỗng mà không có sự lưu thông máu.
(2) Mỗi mao mạch có đường kính 0,05-0,1 mm (khoảng 1/10 độ dày của sợi tóc). Bằng việc sử dụng các thiết bị chụp ảnh sinh học tối tân nhất với độ phân giải siêu cao, các nhà khoa học đã đi sâu tìm hiểu cơ chế và tác động của những mao mạch xấu, từ đó tìm ra các giải pháp để giúp con người sống khỏe hơn và lâu hơn. Qua kính hiển vi và các thiết bị chuyên dụng, có thể quan sát thấy sự biến mất của các mao mạch. Những nghiên cứu mới nhất đã tiết lộ cơ chế xuất hiện những mạch máu xấu và phương pháp làm giảm sự xuất hiện của chúng.
(3) Các nhà khoa học tại Đại học Y Keio (Nhật Bản) đã tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa mạch máu xấu và tuổi thọ con người. Một lượng lớn dữ liệu về những người sống thọ và bí quyết sống thọ đã được thu thập. Nhóm người được nghiên cứu sống ở vùng đô thị có độ tuổi trong khoảng 85-98. Những người này được theo dõi 16 chỉ số trong cơ thể, trong đó đặc biệt chú ý chỉ số về sức khỏe của đôi chân, chỉ số về sự tiến triển của xơ cứng động mạch và điện tâm đồ. Đây là những chỉ số rất quan trọng để xác định mối quan hệ giữa các mao mạch và tuổi thọ.
(4) Các nhà khoa học đã sử dụng một thiết bị có thể chụp và quan sát các mao mạch để phát hiện phạm vi các mạch máu xấu xuất hiện trên cơ thể. Phạm vi của các mạch máu xấu xuất hiện ở gốc móng tay. Khu vực da mỏng ở gốc móng tay giúp chúng ta quan sát các mao mạch cũng như các tế bào máu lưu thông một cách dễ dàng.
(5) Đến tháng 3/2019, nhóm nghiên cứu của GS Yasumichi Arai (Đại học Y Keio) đã kiểm tra mao mạch của 1.000 người cao tuổi để đưa ra kết luận rõ ràng về mối quan hệ giữa mạch máu và tuổi thọ. Theo đó, sự xuất hiện mạch máu xấu càng nhiều và càng sớm sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến tuổi thọ. Họ cũng phát hiện ra rằng, các mạch máu xấu xuất hiện ở giai đoạn khi cơ thể còn tương đối trẻ (20-30 tuổi). Quá trình này diễn ra nhanh chóng khiến những vùng da xấu không ngừng mở rộng.
(6) Kẻ thù của sắc đẹp và nguyên nhân của bệnh loãng xương
Mạch máu xấu không chỉ tác động tiêu cực đến tuổi thọ mà nó còn là kẻ thù của sắc đẹp. Những mạch máu xấu hình thành nhiều dưới da sẽ tiêu diệt các tế bào da, khiến da trở nên nhăn nheo. Tại Đại học Y Jichi (Nhật Bản), các nhà khoa học đã áp dụng công nghệ mới nhất để nghiên cứu hoạt động của các mao mạch. Trước đây, các nghiên cứu chưa từng quan sát một cách chi tiết những mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể. Tuy nhiên, nhờ những kỹ thuật mới cho phép các nhà khoa học của Đại học Y Jichi thành công trong việc phát hiện những mao mạch nhỏ nhất trong cơ thể con người. Công nghệ mới này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của các mao mạch cũng như hậu quả xảy ra khi các mao mạch biến thành các mạch máu xấu. Họ đã tiến hành nghiên cứu mối liên hệ giữa mạch máu xấu với các tế bào da.
(7) Các mao mạch có nhiệm vụ cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho các tế bào riêng lẻ trên khắp cơ thể. Những mao mạch này đóng vai trò quan trọng đối với sắc đẹp và sức khỏe của con người. Nếu các mạch máu xấu hình thành dưới da, chúng sẽ ngăn chặn việc cung cấp oxy và dinh dưỡng cho các tế bào, làm tăng các tế bào tổn hại da, khiến da mất khả năng hồi phục. Chúng có thể làm cho da nhăn nheo và chảy sệ. Khi các mạch máu xấu xuất hiện sẽ đẩy nhanh quá trình lão hóa, là nguyên nhân gây ra một loạt các căn bệnh liên quan như: huyết áp cao, tiểu đường, các chứng bệnh về tim mạch và ung thư... Không chỉ có vậy, khi cơ thể xuất hiện mạch máu xấu sẽ xuất hiện những căn bệnh khác như tóc rụng; bàn tay, bàn chân lạnh hơn nhiệt độ cơ thể do lượng nhiệt vận chuyển qua mạch máu đến chúng bị kém đi. Ngoài ra, các mạch máu xấu còn ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng gan, thận; làm giảm hiệu quả của thuốc trong quá trình điều trị bệnh, đặc biệt là những loại thuốc rất quan trọng trong cuộc chiến chống ung thư.
(8) Các nhà khoa học của Viện Max Planck (Đức) đã tìm ra mối liên hệ giữa các mạch máu xấu với bệnh loãng xương. Trong nghiên cứu của mình, GS Ralf Adam (Viện Max Planck) đã tiến hành thí nghiệm trên những con chuột khỏe mạnh và những con chuột già. Nhóm nghiên cứu của ông đã tiên phong trong việc chụp ảnh thành công các mao mạch trong xương. Những hình ảnh cho thấy, những con chuột già bị loãng xương có rất ít các mao mạch trong xương. Nghiên cứu chỉ ra rằng, các mao mạch xấu và trống rỗng làm loãng xương. Các mao mạch có tác dụng cung cấp canxi và các dưỡng chất giúp hình thành mô xương mới. Khi mao mạch trở nên xấu đi, việc cung cấp canxi cho xương không còn, khiến các mô xương bị hoại tử.
(9) Kẻ lấy cắp trí nhớ
Nghiên cứu về vai trò của mạch máu cũng như tác động tiêu cực của mạch máu xấu đến não bộ, lần đầu tiên, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng, mạch máu xấu là nguyên nhân gây ra chứng mất trí nhớ. Các nhà khoa học thuộc Đại học Nam California (Mỹ) đã tập trung nghiên cứu yếu tố mấu chốt liên quan đến các mao mạch xấu trong não. Sử dụng kính hiển vi đặc biệt, họ đã quan sát rất rõ các tế bào nội mô. Những tế nào này hình thành giống như bức tường của mạch máu, bên cạnh những tế bào ngoại mạch. Những tế bào nội mô tạo thành lớp niêm mạc cho các mao mạch, giúp cho máu tuần hoàn trong cơ thể; còn những tế bào ngoại mạch dính chặt bên ngoài các mao mạch và cố định ở đó. Các tế bào ngoại mạch được dính kết lại để bảo vệ cấu trúc các mao mạch. Trong các mao mạch khỏe mạnh, lượng oxy và dinh dưỡng được liên kết thông qua các lỗ hổng của tế bào nội mô và vận chuyển đến các tế bào xung quanh. Nhưng nếu các tế bào ngoại mạch bắt đầu bóc tách làm cho phần bảo vệ các mao mạch không còn, khiến các tế bào nội mô mất khả năng hỗ trợ và trở nên yếu ớt. Những khoảng trống bên trong mao mạch trở nên rộng hơn, kết quả là một lượng lớn oxy và chất dinh dưỡng bị rò rỉ ra ngoài. Khi đó, máu không thể lưu thông qua những chỗ bị rò rỉ, khiến các mạch máu xấu không ngừng phát triển. GS Berislav Zlokovic (Đại học Nam California), nhà khoa học hàng đầu thế giới chuyên nghiên cứu về các mạch máu não cho rằng, tế bào ngoại mạch chỉ có ở những mạch máu não, và “Tế bào ngoại mạch là những người gác cổng các mao mạch trong não giúp tái tạo protein. Nhưng nếu các tế bào ngoại mạch tổn thương, nghĩa là máu không thể lưu thông bình thường trong não”.
(10) Nhóm nghiên cứu của GS Berislav Zlokovic quyết định tìm hiểu những triệu chứng xuất hiện trong não khi các tế bào ngoại mạch biến mất. Để làm được việc đó, họ đã thử nghiệm trên những con chuột bình thường và những con chuột bị giảm 25% khả năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch thông qua kỹ thuật di truyền. Thử nghiệm của nhóm GS Berislav Zlokovic là cho 2 con chuột chạy trên bánh xe quay, sau đó cho dừng bánh xe quay một cách đột ngột. Kết quả cho thấy, những con chuột khỏe mạnh dễ dàng xử lý tình huống bằng cách tiếp tục cho bánh xe quay, nhưng những con chuột bị giảm 25% khả năng tự tạo ra tế bào ngoại mạch lại không thể kiểm soát được bánh xe. Từ đó, họ đi đến kết luận, những mao mạch xấu làm giảm khả năng hoạt động của não trước những phản ứng đột ngột. Điều này dẫn đến triệu chứng mất trí nhớ.
(11) Trong một trường hợp khác, các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Đại học Ehime và Đại học Mie (Nhật Bản) đã tiến hành một cuộc kiểm tra sức khỏe đặc biệt, gọi là kiểm tra chống lão hóa. Họ nghiên cứu những bất thường của não ở giai đoạn sớm nhất để có thời gian đưa ra các biện pháp trị liệu hiệu quả nhất. Trong nghiên cứu của mình, GS Hidekaru Tomimoto (Đại học Mie, là một trong những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về vai trò của các mao mạch liên quan tới chứng mất trí nhớ) nhận thấy, não của người mắc bệnh Alzheimer có số lượng mao mạch giảm khoảng 29% so với người khỏe mạnh và những mạch máu xấu xuất hiện nhiều hơn, từ đó làm xuất hiện các Amyloid beta. Các nhà khoa học tin rằng, khi Amyloid beta xuất hiện với số lượng lớn trong não sẽ dẫn đến tình trạng bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, chứng mất trí nhớ không chỉ do các mạch máu xấu gây nên mà còn do các chứng bệnh khác gây ra. Nhưng một điều chắc chắn rằng, để ngăn chặn bệnh Alzheimer thì điều cần làm là phải ngăn chặn việc hình thành các mạch máu xấu.
(12) Nghiên cứu của các nhà khoa học nêu trên cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của những mạch máu xấu trong cơ thể như: ăn nhiều, hút thuốc lá, bị huyết áp cao, lười tập thể dục... Chính vì vậy, cách tốt nhất để ngăn ngừa sự xuất hiện các mạch máu xấu là duy trì một lối sống lành mạnh: ăn uống khoa học (không ăn quá nhiều), không hút thuốc lá, tập thể dục hoặc chơi một môn thể thao nào đó hàng ngày... Một trong những giải pháp thú vị mà các nhà khoa học khuyên mọi người là thường xuyên thực hiện động tác thể dục nâng cao gót hai chân trong khi duỗi thẳng cơ lưng và sau đó thả gót chân xuống. Đây là giải pháp đơn giản không cần sự hỗ trợ của thiết bị, đồng thời có thể thực hiện ở bất cứ thời gian và địa điểm nào.
(Nguồn: “Mạch máu xấu - Nguyên nhân của bệnh tật và sự suy giảm tuổi thọ”, Đỗ Thị Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 9, năm 2019)
Nội dung chính của văn bản trên là?