Danh sách câu hỏi ( Có 3,939 câu hỏi trên 79 trang )

Viết bài nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích, đánh giá ý nghĩa, thông điệp tư tưởng mà văn bản dưới đây muốn gửi đến người đọc. NHỮNG DÒNG SÔNG Sinh ra ở đâu, mà ai cũng anh hùng? Tất cả trả lời: Sinh bên một dòng sông. Chẳng phải sông Đà, sông Mã, sông Hồng đôi bờ cát mênh mông, Thì cũng sông Trà, sông Hương, sông Cửu Long uốn chín đầu rồng Chẳng phải rộng xa một tầm cò vỗ cánh, Cũng xinh xinh vài sải chèo quẫy mạnh...   Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng Mỗi con người gắn bó một dòng sông.   Khi ta bé dòng sông nào cũng rộng, Chiếc thuyền giấy gửi tuổi thơ theo sóng Một cánh cò vỗ lả xuống lòng ta. Từ nguồn nào, sông cũng nặng phù sa Đời ông cha từng cuốc đất, dựng nhà... Khơi tưởng tượng, những chuyện xưa mẹ kế Tuổi thơ ngây ngỡ dòng sông nhỏ bé Cửa quê mình, Trần Quốc Toản từng qua... [...] Đã bao đời gắn bó giữa hai ta Sông chia mình thành ngàn nhánh phù sa Đến bè bạn cùng từng gốc lúa. Trắng lấp lánh là quẫy tung đuôi cá Xanh mát êm là xoan dọc bờ vùng... Yêu nhau rồi, ta có những vui chung... [...] Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng? Tất cả trả lời: Sinh bên một dòng sông. (Bế Kiến Quốc, Thơ Việt Nam 1945 – 1975, NXB Văn học, Hà Nội, 1985, tr. 35 – 37)  

Xem chi tiết 27.9 K lượt xem 1 tháng trước

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai đoạn thơ sau: –   Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó... (Nguyễn Khoa Điềm, trích Mặt đường khát vọng, in trong Thơ Việt Nam 1945 – 1975, NXB Văn học, Hà Nội, 1985, tr. 212 – 213) –   Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu Nghe dịu nỗi đau của mẹ Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ Các anh không về, mình mẹ lặng im. Đất nước tôi Từ thuở còn năm nôi Sáng chắn bão dông, chiều ngăn nắng lửa Lao xao trưa hè một giọng ca dao Xin hát về Người, đất nước ơi! Xin hát về Mẹ, Tổ quốc ơi! Suốt đời lam lũ Thương luỹ tre làng bãi dâu, bến nước Yêu trọn tình đời, muối mặn gừng cay... (Tạ Hữu Yên, Đất nước, in trong Tuyển tập Tạ Hữu Yên, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006)

Xem chi tiết 59.1 K lượt xem 1 tháng trước

II. LÀM VĂN Trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân viết: Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đả lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một ảng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khỏi núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà từ từ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. (Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2021, tr 190-191) Anh/Chị hãy phân tích đoạn trích trên; từ đó, nhận xét về sự tài hoa, độc đáo ở phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.

Xem chi tiết 780 lượt xem 1 tháng trước

II. LÀM VĂN Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài viết: Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút. Trong buồng bên cạnh, Mị cũng thức suốt đêm im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho chồng. Lúc nào Mị mỏi quá, cựa mình, thì những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mị lại gục đầu nằm thiếp đi. Khi đó, A Sử bèn đạp chân vào mặt Mị. Mị choàng thức, lại nhặt nắm lá thuốc, xoa đều đều trên lưng chồng. Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như những con mọt nghiến gỗ kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch. (Trích Vợ chồng A Phủ, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 7-8) Anh/Chị hãy phân tích đoạn trích trên; từ đó, nhận xét về số phận ngươi lao động dưới chế thực dân và chúa đất miền núi được thể hiện trong đoạn trích.

Xem chi tiết 1.7 K lượt xem 1 tháng trước