Danh sách câu hỏi ( Có 3,939 câu hỏi trên 79 trang )

Em có về thôn trăng, Khúc sông cửa võng vắt qua làng như lụa, Phù sa in mặt người lam lũ, Truân chuyên vạt sóng đời người Mực mồng tơi nhoè tím tuổi thơ tôi Một tuổi thơ khét nắng, đầu trần chân đất, đòn roi. Ký ức hình mảnh cháy cơm sót lại đáy nồi, Phên dại rách mẹ lấy lưng che chỗ gió, Là những ngày mưa xé nát bươm con ngõ, rau tập tàng thay cơm. Tháng mười thắt eo lưng cây rơm, Tháng bảy bão qua xô nghiêng nhà, hất tung chái bếp bão mưa, đói nghèo không làm tắt được ngọn lửa hồng của mẹ tôi. Tôi lớn lên bằng con tôm, ngọn muống già, trái sấu non, đọt mùng tơi Bằng sự bòn nhặt suốt đời của mẹ Cánh cò vẫn trắng nguyên dẫu lời ru không giá thú Khóm xương rồng gai góc nở hoa. Mẹ còng lưng cho tôi đứng thẳng, Mẹ bấu víu vào đất quê nhà cho tôi đi xa. Em có về với giếng nước, gốc đa, Với những bức tường nước cốt trầu loang lổ, Với móm mém nụ cười, đôn hậu như trong câu chuyện cổ, Gáo nước mưa gội mát trưa hè Thôn trăng – yêu được thì về.                                                       ( Em có về thôn trăng, Đàm Huy Đông)   Xác định thể thơ được sử dụng trong văn bản.

Xem chi tiết 6.6 K lượt xem 1 tháng trước

Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân. Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy. Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới. Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông. Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế! Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. (Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr 72-73) Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về thông điệp mà nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua đoạn trích.

Xem chi tiết 7.2 K lượt xem 1 tháng trước

Một giảng viên đang thuyết giảng về cách quản lý sự căng thẳng. Ông giơ lên một ly nước và hỏi các sinh viên: “Các bạn nghĩ ly nước này nặng bao nhiêu?” Mọi người đều nghĩ ly nước ấy nặng khoảng 200 gram đến 500 gram. Người thầy nói tiếp: “Khối lượng nặng bao nhiêu không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta cầm ly nước này trong bao lâu? Nếu tôi cầm nó trong một phút, sẽ không thành vấn đề gì. Nếu tôi cầm nó trong một giờ, tôi sẽ cảm thấy mỏi tay. Và nếu tôi cầm nó trong một ngày, các bạn sẽ phải gọi xe cấp cứu cho tôi đấy. Như vậy, với cùng một khối lượng, nhưng mang càng lâu thì nó sẽ càng nặng hơn”. Nếu chúng ta luôn mang theo gánh nặng bên mình, rồi một ngày nào đó, chúng ta sẽ không thể tiếp tục được nữa, gánh nặng sẽ càng lúc càng nặng hơn. Thỉnh thoảng khi đuối sức, bạn hãy đặt gánh nặng xuống nghỉ ngơi rồi bạn sẽ được tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục công việc của mình. Và bạn sẽ đi được xa hơn. (Hãy đặt ly xuống, Tuệ Nương, theo Viva Consulting, Hạt giống tâm hồn từ những điều bình dị, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Năm 2011)   Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.

Xem chi tiết 3.4 K lượt xem 1 tháng trước

“...Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông  sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Dòng nước mắt lấp lãnh bò xuống hai hôm má đã xám đen lại. Nhìn thấy  tình cảnh thế, Mị chợt nhớ đệm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước  mắt chảy xuống miệng. xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình  chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng  này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình  ma nhà nó rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị phảng  phất nghĩ như vậy. Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại  tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc đó bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó. Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này,  làm sao Mị cũng không thấy sợ...  Lúc ấy, trong nhà tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ biết có người  bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phe từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần  lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi  ngay...”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuyu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay,  A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ,  đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:  – A Phủ cho tôi đi.  A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:  –Ở đây thì chết mất. A Phủ chợt hiểu.  Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.  A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.   (Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập 2, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2018, tr13,14) Trình bày cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên.Từ đó, liên hệ với chi tiết Mị nghĩ tới nắm  lá ngón trong đêm tình mùa xuân để nhận xét đóng góp của nhà văn Tô Hoài khi viết về người lao động vùng núi  cao Tây Bắc.

Xem chi tiết 1.7 K lượt xem 1 tháng trước

Trong tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân viết:  Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. Hắn chắp tay sau lưng lũng thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn  cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi  mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần  áo rách như tổ địa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn  để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch. Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng  nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm  động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn  sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn  đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng  cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại  căn nhà.  (Ngữ Văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.30-31)  Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng và hành động của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó, liên hệ với  chi tiết “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” ở kết thức của truyện ngắn “Vợ nhặt” để rút ra nhận xét về giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Xem chi tiết 632 lượt xem 1 tháng trước

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:  Kinh nghiệm là một cuốn sách giáo khoa tuyệt vời. Con người có thể học được chân lý cuộc đời và cách để trưởng thành thông qua kinh nghiệm.  Tôi đã tìm thấy những câu rất hay trong cuốn sách Lord Philip Chesterfield, được một chính trị gia người  Anh sống ở thế kỷ XVIII viết. Cuốn sách là tập hợp những bức thư ông gửi cho con trai mình khi đang làm  đại sứ ở Hà Lan tại Hague. Ông viết rằng “ Xã hội như một cuốn sách". Ông đã đúng khi nói rằng " Những  tri thức mà ta có được từ cuốn sách xã hội này có ích hơn nhiều những tri thức của tất cả những cuốn sách  đã được xuất bản cho tới nay gộp lại". Chúng ta cần phải đọc kỹ cuốn sách xã hội. Chỉ có đọc kỹ cuốn sách  xã hội, chúng ta mới có thể học được chân lý của cuộc đời và đạt tới cuộc sống chin muồi. Đó chính là lí do  tôi đề cao tầm quan trọng của kinh nghiệm. Bởi kinh nghiệm là cách trực tiếp nhất và hiệu quả nhất giúp  chúng ta nghiền ngẫm về xã hội.  Những nhà học thuyết kinh nghiệm người Anh từ Francis Bacon tới John Locke và David Hume, đều cho rằng  toàn bộ kiến thức của chúng ta “chi có được từ kinh nghiệm”. Nói cách khác, con người chúng ta khi mới  chào đời giống như tờ giấy trắng, không có quan niệm cũng chẳng có nhận thức gì. Bức tranh được vẽ lên  trên tờ giấy trắng ấy là nhờ vào kinh nghiệm sau đó. Và bức tranh được vẽ nhờ kinh nghiệm ấy chính là cuộc  đời của người đó.  (Trích Thế giới quả là rộng lớn và có rất nhiều việc phải làm, Kim Woo Choong NXB Lao Động, tr.187-188) Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. 

Xem chi tiết 1.4 K lượt xem 1 tháng trước

Trong Người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân viết: Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người  lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào  đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái  luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của  nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người  cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá  luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã  thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có  bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi  đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái  bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa  sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô  ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo  lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá  tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa  sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng  sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa  giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền  như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác.

Xem chi tiết 2.3 K lượt xem 1 tháng trước

Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa đồng  Châu Hoá đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên  tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý  thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua  điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương  Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi thiên Mụ, xuôi dần về Huế.  Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi  Ngọc Trản sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với  những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng  sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo  nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều  tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa  được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”.  Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng  lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những sớm làng trung du bát  ngát tiếng gà...  (Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb Giáo dục) Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn văn trên; từ đó nhận xét cái tôi của tác giả trong đoạn trích trên.

Xem chi tiết 1.1 K lượt xem 1 tháng trước

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:  Nếu không muốn đi hết con đường...  Thì nên dừng lại trước lúc kịp hoàng hôn  không ai bắt ta phải sống cuộc đời cho người khác  muôn triệu tình yêu có muôn triệu lần đích đến  làm ơn đi mà!...    Khi ta khóc không cần ai lau nước mắt cho ta?  khi ta cười không cần ai chia sẻ?  cần một quãng đời tự do hơn là cần một hơi ấm mặc cả  hãy thử cắn chặt môi...    Giữa mùa đông đôi khi một cơn bão tuyết còn quí hơn một đốm lửa trong tim người  Giữa nỗi đau biết đâu lại tìm ra một sự bình yên khác  Giữa đêm đen cũng phải đến lúc tự ta làm ra ánh sáng  Giữa những ngày qua phố đôi khi cần một lần lạc bước  đi khỏi cuộc đời của mình...    Nếu không muốn đi hết con đường...  thì nên dừng lại, rồi bước đi một con đường khác bằng niềm tin  đừng bắt ta phải sống cho hạnh phúc của người khác  (khi hạnh phúc của ta chỉ là bề ngoài của những giọt nước mắt cay đắng  như một hạt mưa giữa trời nắng gắt...)  làm ơn đi mà!...  […]  (Nông Quang Khiêm, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 1006, tháng 2-2023, tr61)  Xác định thể thơ của đoạn trích 

Xem chi tiết 1.4 K lượt xem 1 tháng trước

Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối  ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà  lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:  - Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua mua lấy đôi gà. Tạo tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện  quả. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy chốc mà có ngay đàn gà cho mà xem...   Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ẩm, hòa hợp như  thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng  bát đã hết nhẵn.  Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:  - Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.  Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bung ra một cải nồi khỏi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cải nồi xuống bên  cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuẩy khuấy vừa cười:  - Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đảo để cơ.  Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng  cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:  - Cảm đẩy mày ạ, hì. Ngon đảo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cảm mà ăn đấy. (Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, tr.31)  Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên; từ đó nhận xét về cách nhìn con người của nhà văn Kim Lân thể hiện trong đoạn trích.

Xem chi tiết 2.1 K lượt xem 1 tháng trước

Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu sau:  Thích nghi với cuộc sống với tất cả những gì vốn có của nó sẽ giúp bạn chấp nhận và vượt qua mọi chuyện dễ dàng hơn rất nhiều. Bởi vì thông thường, khi chúng ta biết điều gì đang đợi mình phía trước chúng ta sẽ tìm hiểu  về chúng và thich nghi với chúng. Sau đó cải biến chúng để phục vụ lại cuộc sống của chính bạn.  Người bi quan luôn tìm thấy hi vọng trong sự đau khổ, người lạc quan luôn tìm thấy hi vọng trong khó khăn, thế nên dù khó khăn như thế nào hãy luôn tin rằng luôn có một đường thoát dành cho bạn. Bởi vì, như người ta nói:  "Ông trời không tuyệt đường của ai bao giờ”.  Bạn hãy học cách thích nghi với cuộc sống để mình luôn vui vẻ và hạnh phúc. Cuộc sống luôn ẩn chứa những  điều thú vị và bất kỳ ai cũng được ban phát quà tặng từ nó. Vì vậy, hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và  nghịch lý, hãy tin rằng ở đâu có ánh sáng thì ở đó có con đường. Niềm tin và sự dũng cảm sẽ giúp bạn vượt qua  tất cả những nghịch lý bủa vây của cuộc sống...  (Học cách thích nghi với cuộc sống để luôn vui vẻ, hạnh phúc, https://giaoducthoidai.vn, 25/8/2016) Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích. 

Xem chi tiết 1.1 K lượt xem 2 năm trước

Cảm nhận của anh/chị về không gian nạn đói năm 1945 và cảnh Tràng đưa người  vợ nhặt về nhà trong đoạn trích sau:      Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ  lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết  như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cải thây nằm còng  queo bên đường. Không khí vẫn lên mùi ẩm thổi của rác rưởi và mùi gây của xác người.      Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người  đàn bà nữa. Mặt hẳn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hẳn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng  lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau hẳn chừng ba bốn bước. Thị cắp cải thúng con, đầu hơi củi xuống, cải nón  rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy  ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng.  Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào lên:      - Anh Tràng ơi! - Tràng quay đầu lại. Nó lại cong cổ gào lên lần nữa - Chông vợ hài. Tràng bật cười:      - Bố ranh!      Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận giỏ từ cảnh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om,  không nhà nào có ảnh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng  lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thể thiết. (Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb Giáo dục, 2011, tr.24)  Từ đó, anh/chị hãy khái quát giá trị hiện thực và nhân đạo mà nhà văn Kim Lân gửi gắm qua đoạn trích.

Xem chi tiết 3.7 K lượt xem 1 tháng trước