Danh sách câu hỏi

Có 3,232 câu hỏi trên 65 trang
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn nghị luận văn học (khoảng 200 chữ) phân tích tính phi hư cấu của phóng sự được thể hiện trong văn bản sau: Trời xanh, mây trắng, biển lặng, gió hiu hiu. Giữa không gian yên ắng ấy, chúng tôi có mặt tại lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hi sinh trên quần đảo Trường Sa và Nhà giàn DK1. Trong trang phục chỉnh tề, chúng tôi đứng nghiêm trang trên boong tàu, mắt hướng về phía bàn thờ các liệt sĩ. Không gian như chùng xuống khi Chuẩn Đô đốc Nguyễn Cộng Hoà – Phó Chính uỷ quân chủng Hải quân, đọc diễn văn tưởng niệm bằng chất giọng miền Trung, nằng nặng mà da diết. Và khi điệu nhạc bài “Hồn tử sĩ cất lên bi ai, trầm hùng thì những con tàu hải quân Việt Nam xung quanh đó cũng dừng lại, các thuỷ thủ thành kinh hướng về tàu HQ-996. Cùng lúc ấy, các tàu đồng loạt ngân lên một hồi còi dài – nghi lễ đặc trưng của bộ đội Hải quân trong giây phút thiêng liêng tưởng nhớ những người đồng đội đã hi sinh trên biển. Sau lễ tưởng niệm, vòng hoa có hình quốc kì và dòng chữ “Đời đời nhớ ơn các Anh hùng liệt sĩ được thả nhè nhẹ từ trên boong tàu xuống biển,... Tàu nhổ neo tiếp tục hành trình, mặc cho cái nắng như thiêu như đốt đang bủa vây tứ phía, khả nhiều người trong đó có nữ đại tá Văn Thu Hiền – Trưởng ban Phụ nữ Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, vẫn đứng lặng im bên mạn tàu, hai tay chắp trước ngực, miệng lầm rầm cầu khấn. Chị lấy từ chiếc xắc của mình một cái bút và mấy tờ giấy trắng rồi từ từ thả xuống biển. Giọng chị nghẹn ngào: “Tôi gửi bút, gửi giấy này để các anh viết thư về cho gia đình và người yêu nhé!”. Thấy vậy, cô phóng viên trẻ Thương Huyền – báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam – cũng lẳng lặng thả một quyển sổ và một cái bút xuống biển. Huyền rơm rớm nước mắt, thủ thỉ: “Các anh ơi, em cũng gửi sổ, gửi bút cho các anh đây! Các anh hãy chép những bài hát, những lời hay ý đẹp vào cuốn sổ tay này nhé!”. Thiếu tá Nguyễn Đức Thuận – Trợ lí Ban Thanh niên Quân đội – cũng rút một bao thuốc lá nguyên vẹn trong túi và cầm một chiếc lược nhỏ thả xuống mặt biển. Anh không nói gì nhưng mọi người đều hiểu anh muốn chia sẻ tình cảm của mình với anh linh các đồng đội đã thuộc về biển cả [...]. Con người sinh ra, tồn tại rồi mất đi. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Nhưng “Có cái chết hoá thành bất tử/ Có những lời hơn mọi bài cả” (Tố Hữu). Sự hi sinh của những chiến sĩ Hải quân vì chủ quyền biển đảo và thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc luôn được đồng bào cả nước cảm phục, trân trọng và tôn vinh. Cả dân tộc đã, đang và sẽ tri ân công ơn các anh – những người hiến trọn tuổi xuân của mình cho biển đảo quê hương Việt Nam mãi mãi một màu   xanh bất tử.  (Theo Nguyễn Văn Hải, Biển xanh ôm trọn tuổi xanh, in trong: Toả ngát danh thơm “bộ đội Cụ Hồ”, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2024, tr.120-123).
 II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)  Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu cảm nhận của anh/ chị về nhân vật Uy-lít-xơ trong đoạn trích sau: Khi Uy-lít-xơ từ phòng tắm bước ra, trông người đẹp như một vị thần. Người lại trở về chỗ cũ, ngồi đối diện với Pê-nê-lốp, trên chiếc ghế bành ban nãy, rồi nói với nàng: - Nàng thật là người kì lạ! Hẳn là các thần trên núi Ô-lem-pơ đã ban cho nàng một trái tim sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối, vì một người khác chắc không bao giờ có gan ngồi cách xa chồng như thế, khi chồng đi biền biệt hai mươi năm trời, trải qua bao nỗi gian truân, nay mới trở về xứ sở. Thôi, già [1]ơi! Già hãy kê cho tôi một chiếc giường để tôi ngủ một mình, như bấy lâu nay, vì trái tim trong ngực nàng kia là sắt. (Lược một đoạn: Pê-nê-lốp nói với nhũ mẫu thực hiện yêu cầu của Uy-lít-xơ).  Nàng nói vậy để thủ chồng, nhưng Uy-lít-xơ bỗng giật mình nói với người vợ chung thuỷ: -Nàng ơi, nàng vừa nói một điều làm cho tôi chột dạ. Ai đã xê dịch giường tôi đi chỗ khác vậy? Nếu không có thần linh giúp đỡ thì dù là người tài giỏi nhất cũng khó lòng làm được việc này. Nếu thần linh muốn xê dịch đi thì dễ thôi, nhưng người trần dù đang sức thanh niên cũng khó lòng lay chuyển được nó. Đây là một chiếc giường kì lạ, kiến trúc có điểm rất đặc biệt, do chính tay tôi làm lấy chứ chẳng phải ai. Nguyên trong sân nhà có một chồi cảm lãm'[2] lá dài: nó mọc lên, khoẻ, xanh tốt và to như cái cột. Tôi kẻ vạch gian phòng của vợ chồng mình quanh cây cảm lãm ấy, rồi xây lên với đá tảng đặt thật khít nhau. Tôi lợp kĩ gian phòng, rồi lắp những cảnh cửa bằng gỗ liền, đóng rất chắc. Sau đó tôi chặt hết cành lá của cây cảm lãm lá dài, cố đẽo thân cây từ gốc cho thật vuông vắn rồi nảy đường mực, làm thành một cái chân giường và lấy khoan khoan lỗ khắp xung quanh. Tôi bào tất cả các bộ phận đặt trên chân giường đó, lấy vàng bạc và ngà nạm vào trang tri, cuối cùng tôi căng lên mặt giường một tấm da màu đỏ rất đẹp. Đó là điểm đặc biệt mà tôi vừa nói với nàng. Nhưng nàng ơi, tôi muốn biết cái giường ấy hiện còn ở nguyên chỗ cũ, hay đã có người chặt gốc cây cảm lãm mà dời nó đi nơi khác. -Người nói vậy, và Pê-nê-lốp bủn rủn cả chân tay, nàng thấy Uy-lít-xơ tả đúng mười mươi sự thật. Nàng bèn chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng. (Hô-me-rơ, I-li-at và Ô-đi-xê[3], NXB Văn học, Hà Nội, 2001, tr.348-350) [1] Già: Ơ-ri-clê — người nhũ mẫu. [2] Cảm lãm: còn gọi là ô liu [3] Tóm tắt sử thi Ô-đi-xể: Ô-đi-xê kể lại hành trình trở về quê hương của Uy-lít-xơ sau khi hạ thành Tơ-roa. Mười năm sau khi rời Tơ-roa, Uy-lít-xơ vẫn chưa thể đặt chân lên mảnh đất quê hương và phải trải qua nhiều gian khổ. Trong khi đó, tại quê nhà, Pê-nê-lốp – vợ của Uy-lít-xơ phải đối mặt với 108 kẻ quyền quý trong vùng đến cầu hôn. Tê-lê-mác, con trai của chàng phải đương đầu với bọn chúng để bảo vệ tài sản của gia đình. Uy-lít-xơ giả dạng làm người hành khất nên vợ chàng trị bọn cầu hôn cùng những gia nhân phản bội. Uy-lít-xơ còn phải trải qua thử thách của vợ – nói ra điều bí mật về chiếc giường mà chỉ hai vợ chồng mới biết).
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích tâm trạng và tư tưởng của người viết trong văn bản sau: 4.6.68 Càng đi vào thực tế càng thấy phức tạp. Con người sao sống với nhiều đòi hỏi quả đi. Không bao giờ thoả mãn được cả. Càng ngày càng muốn hoàn chỉnh, càng ngày càng lắm yêu cầu và trong những bước tiến lên ấy bao nhiêu là gai góc cản trở, nếu không vững trí bền tâm sẽ dễ dàng thất bại. Ơi cô gái sống với bao suy nghĩ kia ơi, nghĩ làm gì cho nhiều để rồi phải nặng những đau buồn. Hãy cứ tìm lấy những niềm vui đi, hãy cứ sống giàu lòng tha thứ, giàu sự hi sinh một cách tự giác đi. Đừng đòi hỏi ở cuộc đời quá nhiều nữa. Mưa vẫn cứ rơi hoài. Mưa càng thêm buồn thấm thía và mưa lạnh làm cho người ta thèm khát vô cùng một cảnh sum họp của gia đình. Ước gì có cánh bay về căn nhà xinh đẹp ở phố Lò Đúc để cùng ba má và các em ăn một bữa cơm rau muống và nằm trong tấm chăn bông ấm áp ngủ một giấc ngon lành. Đêm qua mơ thấy Hoà bình lập lại, mình trở về gặp lại mọi người. Ôi, giấc mơ Hoà bình lập lại đã cháy bỏng trong lòng cả ba mươi triệu đồng bào ta từ lâu rồi. Vì nền Hoà bình độc lập ấy mà chúng ta đã hi sinh tất cả. Biết bao người đã tình nguyện hiến dâng cả cuộc đời mình vì bốn chữ Độc lập Tự do. Cả mình nữa, mình cũng đã hi sinh cuộc sống riêng mình vì sự nghiệp vĩ đại ấy. (Trích: Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm[1], NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005, tr.54) [1] Đặng Thuỳ Trâm (1942 – 1970), quê ở Thừa Thiên Huế, sinh ra trong một gia đình trí thức và lớn lên ở Hà Nội. Tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1966, chị xung phong vào chiến trường miền Nam, trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chị được phân công phụ trách một bệnh viện ở huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, chuyên điều trị cho các thương, bệnh binh. Chị hi sinh vào ngày 22/6/1970 khi chưa đầy 28 tuổi trong một chuyến công tác. Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm là tập nhật kí được nữ bác sĩ viết trong những năm 1968 – 1970, ghi chép chân thực cuộc sống của bản thân và đồng đội nơi tuyến đầu, về nỗi đau của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh, về khát vọng cháy bỏng ngày đất nước hoà bình để chị được trở về Hà Nội thân yêu.  
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)  Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vẻ đẹp của nhân vật Thị Phương được thể hiện trong văn bản sau: Thị Phương (hát tiếp): Người chồng tôi tên gọi Trương Viên. Vua sai dẹp giặc nước Xiêm khơi chừng Bởi vì đậu chếch nón ả Hằng Thờ chồng chực tiết khăng khăng chẳng rời Bởi vì đâu binh lửa bời bời Xa miền quê quán, ngụ nơi lâm tuyền Một mình tôi nuôi mẹ truân chuyên Quyết liều phận bạc chẳng dám quên ngãi chàng Gặp những loài ác thú hổ lang Người rắp làm hại, khẩn vang lại lành Trở ra vệ miếu thần linh qua Thần đòi khoét mắt lòng thành tôi kính dâng Vậy nên mù mịt tối tăm Nàng tiên dạy hát, kiếm ăn qua tháng ngày Sự tình này trời đất có thấu hay Chàng Trương Viên có biết nông nỗi này cho chăng? Trương Viên: Nghe tiếng đàn cùng tiếng hát Chuyển động tâm thần [...] Anh khá khen em mười tám năm nay chẳng có đơn sai  Lòng thương em nhớ mẹ ngậm ngùi. Đây, ngọc kim quyết giao em nhận tích (Thị Phương cầm ngọc, ngọc nhẩy lên mắt, mắt sáng trở lại) Thị Phương: Quả lòng trời đưa lại Ngọc nhảy vào, mắt được phong quang Mẹ ơi, giờ con trông được rõ ràng Chồng con đây đã tỏ Mụ: Mẹ mừng con đã yên lành như cũ Lại thêm tình mẫu tử đoàn viên Trời có đâu nỡ phụ người hiền Thế mới biết bĩ rồi lại thái[1] . (Trích Trương Viên[2]’, in trong Tuyển tập Chèo cổ, Hà Văn Cầu sưu tầm và chú thích, NXB Sân khấu, Hà Nội, 1999, tr.160-162) [1] Bĩ: thời vận, hoàn cảnh rủi ro; thái: thời vận, hoàn cảnh may mắn, thuận lợi. [2] Trương Viên là một trong những vở chèo cổ nổi tiếng. Thị Phương, con gái quan Tể tướng đã hồi hưu được cha đồng ý cho kết duyễn với Trương Viên và cho đôi ngọc lưu li làm của hồi môn. Giữa lúc Trương Viên đang dùi mài kinh sử thì chàng nhận được chiếu đòi đi dẹp giặc. Thị Phương đã dắt mẹ chồng lưu lạc chạy giặc, trải qua nhiều thử thách trong suốt 18 năm. Thắng trận, Trương Viên về quê tìm mẹ và vợ nhưng không gặp. Tình cờ chàng gặp hai mẹ con bà hát xẩm và gọi vào nghe hát.  
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc điểm của nhân vật bi kịch được thể hiện qua nhân vật Vũ Như Tô trong văn bản sau: Lớp III Thêm Vũ Như Tô Vũ Như Tô (có vẻ mệt, người hốc hác, lẩm bẩm): Bao nhiêu người chết vì ta. Khốn nạn... Nhưng sao ta vội nản. Nhu nhược thì sao dựng nổi cái đài này? Thương nhau ta để trong lòng. [...]. Nhưng không thẳng tay không xong. Xây cái Cửu Trùng Đài này cũng khó như đánh trận mỗi người chúng ta là một tên lính, phải đồng lao cộng tác, không được thoái chi, không được trốn tránh. Tôi tha không khó gì, nhưng thế là dung túng cho bọn thợ trốn đi, mà thợ trốn đi thì đài xây sao được. Khi xưa vua Thục đắp thành Cổ Loa có con kê tinh cứ gây làm đổ thành, phải trừ kê tinh mới đắp nổi. Đây cũng thế, phải trừ hết cả những kẻ hèn, thấy khó đã nản. Phó Bảo: Vua Thục đắp thành để giữ nước, còn ta xây thành để cho vua chơi. Vũ Như Tô: Sao lại để vua chơi, đây là ta xây cho cả nước. Phó Bảo: Cho cả nước, nhưng chỉ ít người được đến đây, họ nhà vua, các quan, thế là hết, dân được lợi gì?  Như Tô: Chú quên hết lời anh em ta kí kết cùng nhau rồi. Sao chú đã thay đổi thế? Thảo nào mà tôi thấy... Ta xây một cái đài vĩ đại, làm vinh dự cho non sông. Đến làm một cái nhà còn tốn tiền, tốn lực huống chi là một cái đài to như núi, bền như trăng sao. (Trích: Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô,  NXB Sân khấu, Hà Nội, 2006, tr.84-89).