Danh sách câu hỏi

Có 11,844 câu hỏi trên 237 trang
Sản xuất nhiên liệu từ quang hợp nhân tạo (1) Nhân loại đang phải đối mặt với  vấn đề khủng hoảng năng lượng:  nhiên  liệu  hóa  thạch  đang  dần  cạn kiệt, những túi dầu trong lòng  đất đang vơi đi một cách không  kiểm soát, phát triển năng lượng  hạt nhân gặp phải những vấn đề  về  nguy  cơ  mất  an  toàn...  Cùng  với đó là phát thải khí nhà kính gia  tăng ở mức báo động, trở thành  mối  nguy  hại  lớn  và  hiểm  họa  khôn lường (gây ra hiện tượng ấm  lên  toàn  cầu,  khí  hậu  diễn  biến  không theo quy luật, những hiện  tượng thời tiết cực đoan gia tăng  mạnh mẽ...). An ninh năng lượng  và phát triển bền vững đang đặt  ra  thách  thức  chưa  từng  có  đối  với loài người. Những hệ lụy là vô  cùng lớn, quyết định sự tồn vong  của Trái đất. (2) Từ năm 1970, thế giới đã chứng  kiến    sự tăng trưởng nhanh chóng  về nhu cầu năng lượng, trong đó  nguồn cung cấp chủ yếu là nhiên  liệu hóa thạch và sản xuất điện  tập  trung.  Nhưng  dự  kiến  bức  tranh về năng lượng tương lai  sẽ  rất khác. Hiện tại, cuộc chiến  về sản lượng trên thị trường dầu  mỏ  ở  Trung  Đông  đã  đẩy  giá  năng lượng đè nặng lên vai người  dân. Những ông lớn trong ngành  năng lượng đang sử dụng nguồn  cung năng lượng như vũ khí trong  cuộc chiến thương mại toàn cầu  khi sự phụ thuộc của các quốc gia  vào  dầu  mỏ,  khí  đốt  ngày  càng  trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.  Nga, Mỹ, EU và những quốc gia  khác đang cố gắng tối đa sức ảnh  hưởng và tác động chính trị của  mình lên cán cân năng lượng toàn  cầu. Chính vì vậy, Ủy ban châu Âu  (EC) đã thúc đẩy sự hình thành  một  Liên  minh  năng  lượng  cho  sự phối hợp các chính sách năng  lượng bao gồm cả việc tiết kiệm  năng lượng và giảm khí thải CO 2 cho đến việc đa dạng hóa nguồn  cung an ninh năng lượng. (3) Cùng  với  cuộc  chiến  năng  lượng,  một  vấn  đề  khác  đe  dọa  trực tiếp mối an nguy và phát triển  bền vững của nhân loại chính là  việc phát thải khí nhà kính đang  ngày  càng  gia  tăng  -  là  nguyên  nhân  chủ  yếu  của  hiện  tượng  ấm  lên  toàn  cầu.  Việc  sử  dụng  nhiên liệu hóa thạch đồng nghĩa  với việc tăng cường phát thải khí  nhà kính. Hiện tốc độ giải phóng  CO 2  tiếp tục tăng nhanh do các  hoạt động công nghiệp của con  người  và  cả  do  những  nguyên  nhân  của  ấm  lên  toàn  cầu  như  băng tan, khí nhà kính giải phóng  từ lòng đất... Một nghiên cứu của  Viện Hải dương học NOAA (Mỹ)  đã cho thấy, CO 2  trong khí quyển  tiếp  tục  tăng  nhanh  vào  năm  2019  với  mức  trung  bình  trong  tháng 5 đạt đỉnh 414,7 ppm, đây  là chỉ số cao nhất theo mùa được  ghi nhận trong 61 năm quan sát  trên đỉnh núi lửa lớn nhất Hawaii.  Giá  trị  đỉnh  năm  2019  cao  hơn  3,5 ppm so với đỉnh 411,2 ppm  vào tháng 5/2018, đánh dấu bước  nhảy hàng năm cao thứ hai trong  lịch sử. (4) Những vấn đề nêu trên đã đặt  ra yêu cầu về chiến lược phát triển  bền vững trong tương lai là phải  đáp  ứng  được  mục  tiêu  lâu  dài  về năng lượng và khí hậu. Xuất  phát từ đó, nhằm biến thách thức  thành cơ hội, các nhà khoa học  khắp thế giới đang nỗ lực nghiên  cứu tạo ra các nguồn năng lượng  sạch và bền vững. Những nguồn  năng  lượng  này  phải  giải  quyết  được bài toán 2 trong 1, tức là vừa  tái  tạo  nguồn  năng  lượng,  vừa  giảm phát thải khí nhà kính. Bởi  vậy, mục tiêu lớn nhất mà các nhà  khoa học đặt ra là biến tài nguyên  CO 2  dư thừa trong khí quyển và  nguồn năng lượng mặt trời vô tận  thành nguồn nhiên liệu phục vụ  các hoạt động của cuộc sống.   (5) Chuyển  đổi  quang  hóa  CO 2 thành  nhiên  liệu  được  các  nhà  khoa học kỳ vọng là giải pháp đột  phá để lưu trữ năng lượng mặt trời  dưới dạng các kiên kết hóa học.  Tuy  nhiên,  thách  thức  lớn  nhất  hiện  nay  mà  chúng  ta  chưa  thể  vượt qua đó là hydrocarbon có giá  trị năng lượng cao hiếm khi được  tạo ra theo phương pháp truyền  thống vì những thách thức động  học.   (6) Thực  vật  sử  dụng  ánh  sáng  mặt trời để điều khiển các phản  ứng hóa học giữa nước và CO 2 .  Khi những tia nắng mặt trời chạm  vào lá cây sẽ kích thích các điện  tử  (electron)  trong chất diệp lục.  Những  điện  tử  bị  kích  thích  khi  nhận  được  năng  lượng  từ  ánh  sáng  mặt  trời  sẽ  thúc  đẩy  các  phản ứng hóa học biến đổi CO 2  và  nước thành glucose. Nhiều phát  minh mang tính ứng dụng rộng rãi  trong cuộc sống nhờ việc chúng  ta bắt chước tự nhiên. Không nằm  ngoài những phát hiện quan trọng  đó, các nhà khoa học đã học hỏi  chính  những  “người  thầy  thực  vật” để làm một công việc có ích.  Theo  đó,  trong  một  nghiên  cứu  mới công bố trên tạp chí  Nature ,  các nhà khoa học thuộc Đại học  Illinois  tại  Urbana-Champaign  (Mỹ) đã tạo ra bước đột phá trong  việc chuyển đổi CO 2  dư thừa trong  khí quyển thành các nguồn năng  lượng hữu ích cho cuộc sống.   (7) Các nhà khoa học của Đại học  Illinois  tại  Urbana-Champaign  (Mỹ)  đã  sử  dụng  các  hạt  nano  vàng  (Au)  để  thay  thế  cho  chất  diệp lục - một sắc tố hoạt động  như một chất xúc tác trong quang  hợp tự nhiên, giúp thúc đẩy phản  ứng hóa học ở thực vật. Có thể  nói,  đây  là  một  bước  tiến  lớn,  hướng tới việc xây dựng một hệ  thống tái chế carbon, trong đó tận  dụng ánh sáng mặt trời để chuyển  đổi hiệu quả CO 2  và nước thành  nhiên liệu lỏng. Bằng cách tối ưu  hóa hệ thống thực hiện phản ứng,  giờ đây họ có thể điều khiển các  phản ứng hóa học hai electron để  tăng tính hiệu quả về mặt năng  lượng. (8) Mục tiêu ở đây là sản xuất các  hydrocacbon  phức,  hóa  lỏng  từ  CO 2  dư  thừa  và  các  tài  nguyên  bền vững khác như ánh sáng mặt  trời. Nhiên liệu lỏng là lý tưởng vì  chúng dễ vận chuyển, an toàn và  tiết kiệm hơn so với khí đốt. Hơn  nữa,  chúng  được  tạo  ra  từ  các  phân tử chuỗi dài chứa nhiều liên  kết  hơn,  có  nghĩa  là  chúng  lưu  trữ năng lượng nhiều hơn. Nhóm  nghiên  cứu  của  Đại  học  Illinois  do GS P.K. Jain dẫn đầu đã phát  triển một quy trình nhân tạo, sử  dụng  cùng  một  phần  ánh  sáng  xanh lục của phổ ánh sáng  được  thực vật sử dụng trong quá trình  quang  hợp  tự  nhiên  để  chuyển  CO 2  và nước thành nhiên liệu, với  Sungju Yu (bên phải) và P.K. Jain - các tác giả của công trình. chất xúc tác là các hạt nano vàng  giàu điện tử.   (9) Trong  quang  hợp,  thực  vật  chuyển  đổi  năng  lượng  từ  ánh  sáng mặt trời thành glucose bằng  cách sắp xếp lại các phân tử nước  và CO 2 . Quá trình mới bắt chước  khả năng tự nhiên này thông qua  các thao tác hóa học tạo ra nhiên  liệu lỏng mà không cần chất diệp  lục.  Nhưng  thay  vì  dựa  vào  các  sắc tố thực vật có khả năng phân  hủy sinh học để chuyển đổi năng  lượng ánh sáng thành năng lượng  hóa  học,  các  nhà  khoa  học  đã  tìm ra một phương pháp tốt hơn,  đó là phát triển quang hợp nhân  tạo, tạo ra các hydrocacbon năng  lượng  cao  bằng  cách  tận  dụng  các hạt nano vàng giàu electron  có kích thước 13-14 nanomet làm  chất xúc tác. Trong nghiên cứu,  các  nhà  khoa  học  đã  chọn  sử  dụng các chất xúc tác kim loại để  hấp thụ ánh sáng xanh và chuyển  các electron và proton cần thiết  cho các phản ứng hóa học giữa  CO 2  và nước. Các hạt nano vàng  hoạt  động  đặc  biệt  tốt  như  một  chất xúc tác vì bề mặt của chúng  tương tác thuận lợi với các phân  tử CO 2 , tăng hiệu quả hấp thụ ánh  sáng  và  không  bị  phá  vỡ  hoặc  biến chất như các kim loại khác. (10) Nghiên  cứu  mới  này  đã  tạo  ra  bước  tiến  xa  hơn  khi  chuyển  CO 2  thành các phân tử nhiên liệu  hydrocarbon phức tạp (bao gồm  propan và metan) được tổng hợp  bằng cách kết hợp ánh sáng xanh  với các hạt nano vàng trong chất  lỏng ion. Ngoài propan và metan,  phương pháp này cũng cho phép  tạo  ra  ethylene,  acetylene  và  propene.  Đây  là  những  nguyên  liệu quan trọng mà một ngày nào  đó cho phép lưu trữ năng lượng  khả thi dùng trong pin nhiên liệu. (11) Như  vậy,  bằng  cách  chuyển  đổi CO 2  thành các phân tử phức  tạp hơn như propan, công nghệ  năng lượng xanh hiện đã tiến một  bước gần hơn đến việc sử dụng  CO 2  dư thừa để lưu trữ năng lượng  mặt  trời  dưới  dạng  liên  kết  hóa  học.  Nguồn  năng  lượng  này  có  thể được sử dụng vào những lúc  không có ánh sáng mặt trời hoặc  vào  thời  điểm  nhu  cầu  sử  dụng  năng lượng cao nhất. (12) Có thể nói, thành quả nghiên  cứu của các nhà khoa học thuộc  Đại học Illinois đã tạo ra bước đột  phá, mở ra triển vọng mới trong  việc  giải  quyết  bài  toán  khủng  hoảng  năng  lượng  và  an  ninh  môi trường. Tuy nhiên, theo đánh  giá của cộng đồng các nhà khoa  học trong lĩnh vực này thì còn rất  nhiều việc phải làm phía trước để  công nghệ này sẵn sàng được sử  dụng và nhân rộng, đáp ứng nhu  cầu cuộc sống. (Nguồn: “Sản xuất nhiên liệu từ quang hợp nhân tạo”, Nguyễn Đức Minh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019) Đâu là nhận xét đúng về vấn đề năng lượng toàn cầu?
1. Sau giây phút nhận giải thưởng vô địch cuộc thi Tìm kiếm Tài năng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia 2020, anh Phạm Ngọc Duy Liêm (39 tuổi), CGO của GoStream, vội gọi điện cho đồng đội, báo: “GoStream vô địch rồi, làm được rồi”. Anh chia sẻ, việc giành giải Nhất cuộc thi Techfest 2020 là dấu mốc rất quan trọng trong thời điểm GoStream kỷ niệm ba năm thành lập và chuẩn bị cho dự định đưa sản phẩm tới Mỹ và các nước châu Âu. 2. Từng là kỹ sư viễn thông, nhận thấy tiềm năng phát triển khi nhu cầu người dùng muốn xem video trực tuyến, năm 2014 anh bỏ việc, tự khởi nghiệp về nền tảng cung cấp hạ tầng để phát trực tuyến video. Thời điểm đó, lĩnh vực này còn khá mới tại Việt Nam, song thấy được tiềm năng và lợi ích trong tương lai, nhiều nhà cung cấp nội dung đã hợp tác với công ty anh. Nhưng công ty này chỉ tồn tại được ba năm trước những cạnh tranh khốc liệt với "ông lớn" trên thế giới trong lĩnh vực video trực tuyến. 3. Tình cờ qua người bạn giới thiệu Liên biết đến GoStream là một ứng dụng cung cấp dịch vụ chuyển video có sẵn thành những video phát livestream, được anh Nghiêm Tiến Viễn và Nguyễn Trọng Hoàn phát triển tại Vinh đang có ý định tìm kiếm đối tác, mở rộng kinh doanh ra các thành phố lớn. Hai ý tưởng lớn “gặp nhau”. Tháng 6/2017, họ quyết định “về chung một nhà”, đặt hết tâm huyết vào Công ty Cổ phần Công nghệ GoStream, phát triển ứng dụng GoStream giúp biến các video quay sẵn thành các video phát trực tiếp ở thời gian thực trên các mạng xã hội. Đến tháng 10/2018, sản phẩm GoStudio được ra đời với mục tiêu giúp các doanh nghiệp và người bán hàng tạo ra những buổi livestream tương tác trực tuyến hấp dẫn bằng những thiết bị đơn giản nhất. 4. Rút ra kinh nghiệm từ thất bại đầu tiên, thay vì cạnh tranh trực tiếp, lần này, anh Liêm chọn cách hợp tác với những "ông lớn" trong lĩnh vực này bằng việc cung cấp công cụ hỗ trợ người dùng trong quá trình phát video trực tiếp dựa trên hạ tầng có sẵn của Facebook, Youtube, Twitter. 5. “Với lợi thế là nền tảng livestream tương tác, Gostudio không chỉ là kênh bán hàng qua livestream hiệu quả, mà còn tích hợp những tính năng độc đáo, cho phép quay cùng lúc nhiều camera, chèn hình ảnh, video, văn bản trong quá trình phát trực tiếp. Đặc biệt, GoStudio cho phép người dùng tải toàn bộ bình luận của buổi livestream và xử lý trong thời gian thực, nhờ đó tạo nên nhiều kịch bản trò chơi hấp dẫn ngay trên livestream như trả lời câu hỏi trắc nghiệm, đuổi hình bắt chữ...”, anh Liêm nói. 6. Thời gian đầu hoạt động, mặc dù lượng người sử dụng các ứng dụng Gostream, GoStudio tăng đều, nhưng nhóm gặp khó khăn trong việc tối ưu hóa hạ tầng để phát video trực tiếp. “Một máy chủ chỉ có thể phục vụ cho số ít người sử dụng. Càng nhiều người sử dụng thì càng cần nhiều máy chủ quản lý. “Thời gian đầu chi phí hạ tầng bỏ ra bằng với lợi nhuận thu về. Khó khăn kéo dài, nhiều khi mọi người phải tự làm thêm ngoài để duy trì cuộc sống”, anh Liêm chia sẻ. 7. Vì vậy, bên cạnh cung cấp dịch vụ, công ty liên tục nghiên cứu để tối ưu hóa nền tảng nhằm giảm chi phí hạ tầng. So với ngày đầu thành lập, hiện GoStudio đã được vận hành ổn định, tiết kiệm hơn 70% chi phí hạ tầng, nói cách khác, cùng một máy chủ, nền tảng có thể phục vụ một lượng khách hàng gấp ba lần. "Khi nền tảng được nâng cao hiệu quả, mức lợi nhuận tăng lên, thành quả đầu tiên đáng nhớ nhất là ba anh em đã nhận được tiền lương sau 6 tháng khởi nghiệp", anh Liêm kể. 8. Khi sản phẩm đã được tối ưu hóa, nhóm quyết định đưa GoStudio giới thiệu tại thị trường Đông Nam Á, cung cấp dịch vụ tới các thị trường mới nổinhư Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ. "Nếu tính năng tạo trò chơi và hỗ trợ bán hàng là lợi thế cạnh tranh của GoStudio tại thị trường Đông Nam Á, nơi có nhiều người bán hàng online sử dụng công cụ phát trực tiếp, thì tính năng hỗ trợ tạo hội thảo trực tuyến (webinar) trên các mạng xã hội là lợi thế cạnh tranh tại thị trường Âu - Mỹ, nơi có nhiều người tổ chức các buổi hội thảo trực tuyến để chia sẻ kiến thức hoặc giới thiệu sản phẩm," anh Liêm chia sẻ. Hiện hai sản phẩm GoStream và GoStudio đem lại tổng doanh thu khoảng 1,5 tỷ đồng/tháng cho Công ty GoStream, với lượng người dùng lên đến hơn 500.000 (bình quân hơn 8.000 người đang trả phí hàng tháng), trong đó 90% khách hàng tại Việt Nam, 10% khách hàng tại khu vực Đông Nam Á và Ấn Độ. (Theo Nguyễn Xuân, Con đường nền tảng livestream chinh phục thị trường quốc tế, Báo VnExpress, ngày 8/12/2020) Nội dung chính của bài đọc trên là?
Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không? (1) Thế  giới  côn  trùng  vô  cùng  phong  phú  và  đa  dạng,  chúng  là  sản  phẩm  kỳ  diệu  của  thiên  nhiên. Trong tự nhiên, không lớp  động vật nào có thể so sánh với  côn trùng về độ phong phú đến  kỳ  lạ  của  thành  phần  loài.  Các  nhà khoa học ước tính côn trùng  có  tới  7-8  triệu  loài,  nhưng  mới  chỉ có khoảng 1 triệu loài đã được  xác định. Để bù lại kích thước cơ  thể nhỏ bé, côn trùng có sức sinh  sản  và  phát  triển  cực  nhiều  và  cực nhanh, tạo ra sinh khối lớn.   (2) Theo dự báo của các nhà côn  trùng  học  Hà  Lan  (2012),  sâu  Gạo  hay  sâu  Quy  (Zophobas  morio)  có  lẽ  không  xa  sẽ  soán  ngôi  tất  cả  các  loại  thực  phẩm  dinh dưỡng như thịt gà, bò, lợn,  sữa...  để  trở  thành  nguồn  cung  cấp protein chính cho loài người  trong  tương  lai.  Việc  nuôi  sâu  Gạo  chỉ  chiếm  10%  diện  tích  đất so với nuôi bò, 30% diện tích  dành cho việc  chăn nuôi lợn, 40%  diện tích dành  nuôi gà, trong khi  mức cung cấp  chất đạm  của loài  sâu này lại cao tương đương với  các loại thực phẩm nêu trên. Từ  hàng chục năm qua, người Trung  Quốc đã nuôi nhân tạo kiến Gai  đen  (Polyrhachis  dives)  để  thu  trứng kiến (thật ra là nhộng kiến)  bán với giá 350 USD/kg hay chế  biến thành rượu kiến, cũng như ở  Papua New Guinea, người nông  dân lập trang trại nuôi bướm xuất  khẩu  và  thu  lợi  bình  quân  đạt  5.000  USD/người/năm...  Trong  khi đó thực tế ở Việt Nam, đã từ  lâu người dân vẫn thường xuyên  thu  bắt  côn  trùng  tự  phát  theo  cách tận diệt về làm thực phẩm  hay thuốc chữa bệnh. (3) Người Mexico dìm những tấm  vải xuống nước để Cà cuống đẻ  hàng triệu trứng vào đó, rồi thu  trứng đem phơi khô và dùng làm  bánh ngọt. Ở Ấn Độ, nhiều bộ tộc  đã ăn kiến, châu chấu, ấu trùng  và  nhộng  của  một  số  loài  cánh  cứng, bướm, ong... Ở Irắc, hàng  năm có khoảng 35 tấn côn trùng  được  thu  thập  và  bán  trên  thị  trường để dùng làm thực phẩm. Ở  các nước công nghiệp phát triển  (Mỹ, Hà Lan), người ta chế biến  côn trùng thành đồ hộp hay đặt  thêm  vào  các  loại  bánh.  Ngoài  việc khai thác côn trùng làm thực  phẩm, hướng khai thác côn trùng  phục  vụ  du  lịch  và  làm  đồ  mỹ  nghệ (hình 1) rất phát triển. Hàng  năm, Hồng Kông sử dụng khoảng  gần 1 triệu cá thể côn trùng để  làm các sản phẩm trang sức hoặc  đồ tiện dụng. (4) Theo tổ chức Lương thực nông  nghiệp  Liên  hợp  quốc  (FAO),  hiện  nay  ở  các  quốc  gia  phát  triển  như  Pháp,  Ý,  Nhật  Bản...  và  các  nước  châu  Á  như  Thái  Lan,  Trung  Quốc,  Campuchia,  Malaysia, Singapore... côn trùng  được  sử  dụng  làm  thức  ăn  rất  nhiều, được bày bán dọc đường  và trong các nhà hàng lớn. Đồng  thời, tổ chức FAO cũng đưa ra dự  báo côn trùng sẽ là nguồn thực  phẩm chính trong tương lai. (5) Julieta  Ramos  (2014)  cho  rằng, trên thế giới có ít nhất 3.000  nhóm sắc tộc ở 113 quốc gia ăn  côn  trùng  và  số  lượng  loài  côn  trùng có thể ăn được là khoảng  1.400 loài. Các công bố khoa học  gần  đây  cho  biết,  số  lượng  loài  côn trùng làm thực phẩm ở Trung  Quốc là 40 loài, Thái Lan là 134,  Myanmar là 15, Indonesia là 30  và Philippine là 19 loài. (6) Bên cạnh đó, việc xây tạo các  vườn  bướm  hay  nhà  bướm  để  khách tham quan cũng phát triển  ở nhiều nước Đông Nam Á (hình  2). Từ rất lâu đã hình thành các  công  ty  buôn  bán  côn  trùng  và  người ta gọi là “nhánh kinh tế côn  trùng”. (7) Trong  khoảng  hơn  10  năm  gần đây, một số cán bộ khoa học  trẻ đã quan tâm nghiên cứu các  đối  tượng  côn  trùng  có  ý  nghĩa  kinh tế như luận án tiến sỹ của  Phan  Anh  Tuấn  (2006)  về  sâu  Chít   ( Brihaspa   atrostigmella Moore),  Vũ  Văn  Liên  (2008)  về  các  loài  Bướm  (Lepidoptera),  Hoàng   Thị   Hồng   Nghiệp  (2015)  về  sâu  Tre  ( Omphisa   fuscidentalis ),  Bùi  Thanh  Vân  (2018)  về  kiến  (Formicidae),  Phạm Hữu Hùng (2019) về Cánh  cứng (Coleoptera) và những kết  quả  đề  tài  nghiên  cứu  về  nhân  nuôi  Cà  cuống  của  Vũ  Quang  Mạnh (1999), côn trùng làm thực  phẩm  của  Phạm  Quỳnh  Mai  (2015)... Kết quả nghiên cứu về  côn  trùng  làm  thực  phẩm,  dược  liệu phải kể đến nghiên cứu của  Vũ  Quốc  Trung  (2007)  đã  nêu  chi tiết 39 loài côn trùng được sử  dụng trong y học cổ truyền của  Việt Nam như bộ Gián ( Blattodea hay  Dyctioptera ) có Gián phương  Đông ( Blatta orientalis ), Gián đất  ( Eupolyphaga sinensis ); bộ Cánh  cứng (Coleoptera) có bọ Thẹt, bọ  Xịt, bọ Đánh rắm ( Pheropsophys  jessoensis ),   Xén   tóc   hoa  ( Anoplophora  chinensis ),  Xén  tóc  dâu  ( Apriona  germari ),  Xén  tóc  nâu  ( Nadezhdiella  cantori ),  Đom đóm ( Luciola vitticollis ), Ban  miêu  đen  vạch  trắng  ( Epicauta  gorhami ), Ban miêu khoang vàng  ( Mylabris  phalerata ),  bọ  hung  (con đực) ( Catharsius molussus ),  Sùng đất, Đuông dừa ( Holotrichia  morosa ),  bọ  Dừa  ( Lepidiota  bimaculata ), Mọt khuẩn đen, con  Quy  ( Alphitobius  diaperinus )...  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2017)  đã  cung  cấp  danh  sách  34  loài  Hình 2. Một kiểu nhà bướm. 49 Soá 10 naêm 2019 Khoa học và đời sống côn  trùng  lâm  nghiệp  làm  thực  phẩm  có  thể  ăn  được  ở  vùng  Tây  Bắc  nước  ta.  Cụ  thể,  bộ  Chuồn  chuồn  (Odonata)  có  loài  Chuồn  chuồn  ớt  ( Crocothemis  servilia ); bộ bọ Ngựa (Mantodea)  có  bọ  Ngựa  xanh  ( Hierodula  patellifera )  và  bọ  Ngựa  Trung  Quốc  ( Tenodera  sinensis );  bộ  Mối  (Isoptera)  có  các  loài  mối  đất thuộc giống Macrotermes và  Odontotermes;  bộ  Cánh  thẳng  (Orthoptera)  có  Cào  cào  nhỏ  ( Atractomorpha  sinensis ),  Châu  chấu lúa ( Oxya chinensis ), Muỗm  xanh ( Euconocephalus incertus ),  Muỗm   nâu   ( Euconocephalus  broughtoni ),  Dế  dũi  ( Gryllotalpa  orientalis ),  Dế  mèn  nâu  lớn  ( Tarbinskiellus    portentosus )  và  Dế  mèn  nâu  nhỏ  ( Gryllus  testaceus ) ...   Với  các  loài  côn  trùng  sử  dụng  làm  vật  liệu  văn  hóa  phẩm,  giáo  dục  và  du  lịch  có  thể  đạt  tới  hàng  nghìn  loài  thuộc rất nhiều bộ, đặc biệt là bộ  Cánh  cứng  (Coleoptera),  Cánh  vảy (Lepidoptera), Chuồn chuồn  (Odonata)...  tùy  theo  vùng  sinh  thái và khả năng nhân nuôi. (8) Từ  các  kết  quả  nghiên  cứu  khác  nhau,  có  thể  nhận  thấy,  nhiều loài côn trùng có ý nghĩa  kinh tế là những loài đặc hữu và  đang  bị  khai  thác  một  cách  tận  diệt. Nếu không được tổ chức bảo  tồn  bằng  cách  nhân  nuôi  khoa  học và tổ chức khai thác hợp lý,  chắc chắn sẽ bị tuyệt chủng. (9) Sâu  Chít,  sâu  Tre  là  những  loài  đặc  hữu  cho  vùng  núi  Tây  Bắc; kiến Gai đen, ong Đất, ong  Khoái là những loài đặc hữu cho  vùng núi phía Bắc; các loài bướm  Phượng  như  Troides  helena,  Troides  aeacus   và  Teinopalpus  aureus ...  cũng  là  những  loài  đặc  hữu  cho  một  vài  nơi  núi  cao. Thậm chí ngay một số loài  gây hại như sâu Đuông hại Dừa  ( Rhynchophorus ferrugineus ), bọ  Dừa nhỏ ( Diocalandrafrumenti )...  chỉ phát triển ở miền Nam cũng  có  thể  đưa  vào  danh  sách  các  loài cần bảo tồn và khai thác. Tất  nhiên có nhiều loài có tên trong  Sách đỏ Việt Nam hay Công ước  quốc  tế  về  buôn  bán  các  loại  động,  thực  vật  hoang  dã  nguy  cấp  (CITES)  vẫn  đang  bị  người  dân  “vô  tư”  khai  thác.  Bởi  họ  không được ai phổ biến và giúp  đỡ  phương  pháp  nhân  nuôi  để  khai thác hợp lý, bền vững. (10) Có thể nói, cho đến nay lĩnh  vực  bảo  tồn  và  khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  chưa  được  quan tâm đúng mức so với giá trị  của nó trong tự nhiên và với con  người.  Do  vậy,  để  côn  trùng  có  thể “phục vụ” con người tốt hơn  như khả năng vốn có, chúng tôi  xin nêu một vài gợi ý sau: Một  là,   kinh  nghiệm  ở  nhiều  nước  cho  thấy,  khai  thác  tài  nguyên  sinh  vật  nói  chung,  tài  nguyên côn trùng nói riêng một  cách khoa học là con đường bảo  tồn  tích  cực  và  bền  vững.  Do  vậy, Cục Bảo tồn thiên nhiên và  Đa dạng sinh học thuộc Bộ Tài  nguyên và Môi trường cũng như  các cơ quan quản lý khoa học có  liên quan ở nước ta nên có những  buổi trao đổi khoa học (seminar)  hay tổ chức các đề tài nghiên cứu  về lĩnh vực “bảo tồn, khai thác tài  nguyên côn trùng”. Hai  là,   nên  lồng  ghép  vào  chương  trình  khởi  nghiệp  hoặc  khuyến khích doanh nghiệp đầu  tư tổ chức liên kết giữa nhà khoa  học, nhà nông (đặc biệt đồng bào  vùng núi) trong việc bảo tồn và  khai thác tài nguyên côn trùng...  Bởi với các kết quả nghiên cứu  như của Phan Anh Tuấn (2006),  Hoàng Thị Hồng Nghiệp (2015),  Bùi Thanh Vân (2018)... nêu trên  để có thể khai thác hiệu quả và  tạo ra những sản phẩm có giá trị  thì cái thiếu chính là vốn đầu tư  và tổ chức chuỗi sản phẩm. Nhà  khoa  học  chỉ  có  chuyên  môn,  nhà  nông  có  cơ  sở  vật  chất  để  phát triển bảo tồn và khai thác tài  nguyên côn trùng nên cần phải  có  “nhà  thứ  3,  thứ  4...”  có  điều  kiện tổ chức gắn kết họ lại để trở  thành lực lượng bảo tồn và khai  thác  tài  nguyên  côn  trùng  khoa  học, có hiệu quả và bền vững.   Ba là,  tài nguyên côn trùng chủ  yếu tập trung ở miền núi và vùng  nông nghiệp, đặc biệt ở các vườn  quốc  gia  và  khu  bảo  tồn  thiên  nhiên. Do vậy, nên đưa vào các  chương trình phát triển kinh tế -  xã hội miền núi hoặc nông thôn  nội  dung  “Bảo tồn và khai thác  tài  nguyên  côn  trùng”  cụ  thể  ở  các địa phương, giúp người quản  lý và người dân biết làm giàu từ  tài nguyên thiên nhiên một cách  khoa học và  bền vững. (Nguồn: “Nghiên cứu bảo tồn và khai thác tài nguyên côn trùng ở Việt Nam: tại sao không?”, Bùi Công Hiểu, Trịnh Văn Hạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 10, năm 2019) Nội dung chính của văn bản trên là?
1. Ngành sản xuất chế tạo ô tô và máy nông nghiệp là hai ngành xương sống trong nền công nghiệp của nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, mặc dù ngành sản xuất lắp ráp ô tô có tới khoảng 21 doanh nghiệp lắp ráp OEM, 83 nhà cung cấp cấp 1 và trên 300 nhà cung cấp cấp 2-3 nhưng tỷ lệ nội địa hóasản phẩm ô tô chỉ ở mức 13%, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN khác như Thái Lan (84%), Malaysia (80%) hay Indonesia (75%). Khi lưu thông trong khu vực, do điều khoản phải có tỷ lệ nội địa hóa trên 40% mới được hưởng ưu đãi thuế (VAT = 0%), vài năm qua một số doanh nghiệp lớn phải gấp rút đầu tư công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực và tìm kiếm đối tác phụ trợ mới. 2. Thông thường, một chiếc ô tô có khoảng 25,000 - 50,000 chi tiết liên quan đến động cơ, khung gầm, vỏ xe và các hệ thống khác. Kết hợp với đánh giá năng lực công nghệ hiện có như trên, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Thiết kế, chế tạo và thử nghiệm (SatiTech) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ ra những cụm công nghệ quan trọng cần phát triển để đồng thời hỗ trợ cho việc nội địa hóa nhiều chi tiết sản phẩm, ví dụ công nghệ tối ưu hóa khả năng vận hành, chọn phôi, đo đạc tính chất vật lý, độ bền, số hóa dữ liệu,... 3. Tuy nhiên, ngành ô tô trên thế giới đang có một bước ngoặt lớn. Việc xuất hiện những đột phá trong công nghệ về pin điện, in 3D và trí tuệ nhân tạo đã mở ra cơ hội cho thị trường xe điện thế giới phát triển. Bên cạnh “kẻ tạo sóng” Tesla, một loạt ông lớn như Ford, Daimler, BMW, GM hay Chevrolet cũng đang đổ hàng trăm tỷ USD vào R&D trong phân khúc này. Theo dữ liệu sáng chế quốc tế, những năm gần đây số bằng sáng chế trong lĩnh vực ô tô liên quan đến hệ thống điều khiển, hệ thống kê trợ, tích hợp AI, xe điện, ... có xu hướng tăng nhanh. 4. Do vậy, theo TS. Nguyễn Trường Phi, Giám đốc SatiTech, về mặt sản phẩm, Va Nam sẽ cần phát triển cả những chi tiết để tham gia vào chuỗi giá trị như khung gầm sắt xi, cụm hộp số, hệ thống bánh lái..., đồng thời tìm cách làm chủ những công nghe lõi về động cơ diesel trong ngắn hạn, công nghệ về pin và động cơ điện trong dài hạn. Điều này liên quan đến nhu cầu tiêu dùng và an ninh quốc gia, lẫn sự cạnh tranh thị trường trong tương lai”. 5. Ngược lại với ô tô, lĩnh vực cơ khí chế tạo máy nông nghiệp ở Việt Nam có lịch sử lâu đời hơn và đã tích lũy được trình độ công nghệ nhất định. Nhiều loại máy đã đạt đến mức độ 75-85% so với thế giới và có tỷ lệ nội địa hóa tương đối khả quan, chẳng hạn các loại máy xay xát, máy đánh bóng gạo, máy gặt đập liên hợp hay động cơ diesel mã lực (HP). 6. Thị trường máy nông nghiệp cũng giàu tiềm năng do Chính phủ đang thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp. Bộ NN&PTNT dự báo từ nay đến năm 2025, nhu cầu các loại máy nông nghiệp có thể tăng từ 1000-3000 chiếc/năm. Tuy nhiên, hiện phần lớn “sân chơi” thuộc về khối ngoại, khi Việt Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chi còn 30% thị phần cho sản phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh của máy nông nghiệp Việt còn thấp vì giá thành cao hơn nhập khẩu từ 15-20%. Với đặc điểm ngành nông nghiệp sản xuất nhỏ và manh mún, người nông dân cũng ít khi lựa chọn các loại máy công suất cao. 7. Do vậy, nhóm nghiên cứu cho rằng, lộ trình trong 10 năm tới là ngành cơ khí chế  tạo máy nông nghiệp cần khắc phục được hạn chế lắp ráp thủ công để chuyển sang lắp ráp dây chuyền hoặc robot, đẩy mạnh xây dựng năng lực đo kiểm, đồng thời phát triển công nghệ in 3D và mô phỏng để hạ giá thành sản phẩm cũng như thiết kế tốt hơn theo nhu cầu của từng phân khúc khách hàng. Mục tiêu là chiếm được 40% thị trường nội địa trong 5 năm tới, và đạt được 60% thị phần đến năm 2030. 8. “Về sản phẩm, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn phải chiếm được thị phần các loại máy có trình độ chế tạo ở mức trung bình, công suất cỡ trung nhưng nhu cầu cao như máy kéo, máy canh tác, máy gieo trồng, máy thu hoạch, hệ thống sấy và bảo quản...] Về dài hạn, trên cơ sở các loại máy đã có kết hợp với chính sách thúc đẩy thị trường của nhà nước, chúng ta có thể đầu tư nâng công suất, đào tạo nhân lực, tiến tới các thiết kế có trình độ chế tạo cao, có khả năng xuất khẩu.” – TS Phi nhấn mạnh. (Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ khí chế tạo ô tô và máy nông nghiệp: Từ bản đồ công nghệ đến lộ trình 10 năm, Cổng thông tin của Văn phòng các chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ngày 15/11/2020) Nội dung chính của bài đọc trên là?