Danh sách câu hỏi

Có 11,844 câu hỏi trên 237 trang
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi: 1.Bồ hòn có chứa saponin, một chất tẩy rửa tự nhiên có khả năng giúp bạn làm sạch quần áo, vệ sinh nhà cửa và cả cơ thể khi tắm. Bạn có thể mua bồ hòn với mức giá không quá đắt nhưng có thể sử dụng cho hầu hết các hoạt động sinh hoạt thường ngày. Những bí quyết này sẽ giúp bạn tiết kiệm chi phí dùng để mua sữa tắm và cách chất tẩy rửa khác trên thị trường. 2. Quả bồ hòn là gì? Bồ hòn là quả của cây bồ hòn, còn gọi là bòn hòn, co hón, mác hón,… tên khoa học là Sapindus mukorossi Gaertn, thuộc họ Sapindaceae. Dân gian có câu: “Ngậm bồ hòn làm ngọt”, ý chỉ đây là loại quả siêu đắng, người ngậm bồ hòn có tính cam chịu rất giỏi. Bòn hòn là loại cây to, thân gỗ có độ cao trung bình khoảng 5-10m, có cây cao đến 13m. Lá là lá kép, lá dẹp, đầu nhọn, mọc xen kẽ nhau các phiến lá được nổi ở cả hai mặt trước và sau. Hoa mọc thành chùm ở cành cây, có màu xanh nhạt và sẽ ra hoa giao động từ tháng 7-9. Quả có hình cầu, vỏ quả dày, quả sẽ có màu xanh khi còn non và khi chín sẽ chuyển sang màu nâu cam, bên trong có hạt màu nâu đen. Ngày nay, do nhận thấy chúng có tính tẩy rửa cao, người ta dùng nó làm nước rửa bát, xà phòng, nước giặt quần áo, lau nhà cửa,… thay cho nước tẩy rửa hóa chất. Nước bồ hòn vừa an toàn, vừa không hại da, lại thân thiện với môi trường nên rất được ưa chuộng. Trong y học, nó còn có công dụng chữa bệnh nhất là các bệnh về cổ họng, các vấn đề liên quan đến răng miệng và các bệnh về da. Bên cạnh việc dùng cho con người, người ta cũng sử dụng lên động vật bằng việc giã nát vỏ cây và pha với nước để tắm cho chúng để trị các bệnh về chấy, rận,… Trung bình quả bồ hòn sẽ sai trái vào tháng 10-12 hằng năm. Cây Bồ Hòn phân bố rất rộng rãi ở các khu vực Châu Á: Ấn Độ, Malaysia, Sri Lanka. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nó được trồng rất nhiều ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Thanh Hóa,… bởi vì nó được xem như là loài cây thay thế cho xà phòng. 3. Bộ phận dùng của bồ hòn Các bộ phận trong cây đều được sử dụng từ quả, vỏ quả cho đến các phiến lá, rễ cây đều được nghiên cứu làm thuốc chữa bệnh hay các dược liệu để dùng hàng ngày. Các quả và hạt của bồ hòn được sử dụng nhiều hơn bằng nhiều phương pháp như phơi khô để làm thuốc chữa bệnh trong Đông y. 4. Thành phần hóa học có trong bồ hòn Quả bồ hòn có chứa nhiều thành phần saponin chiếm đến 18% saponosid. Trong quả chứa các thành phần như saponosid A, B, C, D, E, E1, X, Y, Y2 đều là những thành phần có dược tính mạnh về bề mặt. Ngoài các thành phần hóa học trên, bồ hòn còn chứa khoảng 9-10% dầu béo. 5. Công dụng của quả bồ hòn 5.1 Cách sử dụng quả bồ hòn làm nước tắm Dung dịch bồ hòn dịu nhẹ và phù hợp với hầu hết mọi loại da nên có thể giúp bạn vệ sinh cơ thể rất tốt. Để có thể tận dụng bồ hòn làm nước tắm, bạn cần làm dung dịch bồ hòn theo cách sau: Bỏ khoảng 25g quả bồ hòn vào 500ml nước. Nếu muốn nếu nhiều dung dịch bồ hòn hơn, bạn có thể tăng lượng nước và bồ hòn theo tỷ lệ 50g bồ hòn : 1 lít nước. - Đun sôi nước và bồ hòn trong 15 – 20 phút. Bạn nhớ khuấy nước để chất saponin tiết ra nhiều hơn. - Bỏ thêm một thìa cà phê axit citric với mỗi lít nước. - Để dung dịch nguội rồi lọc qua để loại bỏ phần cặn của bồ hòn. Khi đã có được dung dịch bồ hòn, bạn có thể dùng làm nước tắm, nước gội đầu hay nước rửa tay theo hướng dẫn sau đây: - Trộn đều bột ngô vào dung dịch bồ hòn cho đến khi dung dịch đạt độ đặc bạn muốn. - Đổ hỗn hợp vào một chai có nắp xịt để dùng khi cần. Dung dịch bồ hòn là một loại nước tắm tự nhiên nên bạn cần sử dụng nhanh để tránh bị hư. Bạn có thể bảo quản phần dung dịch chưa dùng trong tủ lạnh để sử dụng được lâu hơn. 5.2 Dùng quả bồ hòn dùng để giặt quần áo Công dụng của quả bồ hòn không chỉ dừng lại ở việc làm sạch da mà còn dùng để làm sạch các loại vải. Bạn có thể tham khảo cách sử dụng bồ hòn để giặt quần áo bằng máy giặt như sau: - Bỏ 5 quả bồ hòn vào túi vải. - Bỏ túi bồ hòn cùng đồ dơ vào máy giặt. Quả bồ hòn không có mùi nên nếu muốn quần áo thơm hơn, bạn hãy cho vài giọt tinh dầu vào máy giặt. - Khởi động máy giặt như bình thường. Bạn có thể để chế độ giặt bằng nước ấm nếu muốn giặt nhiều đồ. Sau khi giặt xong, bạn lấy túi bồ hòn ra để dùng tiếp những lần sau. Bạn có thể sử dụng một túi bồ hòn để giặt khoảng 4 lần. Nếu muốn giặt tay đối với các loại vải mỏng nhẹ, bạn cũng có thể sử dụng bồ hòn theo cách sau: - Bỏ bồ hòn vào một thau nước ấm rồi khuấy nước để chất saponin trong quả tiết ra nhiều hơn. - Ngâm quần áo vào thau nước rồi bắt đầu giặt. 5.3 Dùng quả bồ hòn để rửa chén bát Bạn có thể dùng bồ hòn để làm nước rửa chén tự nhiên bảo vệ đôi tay và sức khỏe. Các bước thực hiện như sau: - Bỏ khoảng 4 quả bồ hòn vào túi vải rồi ngâm túi vào bồn nước ấm. - Khuấy nước để chất saponin trong bồ hòn tiết ra nhiều hơn. - Dùng dung dịch này để rửa chén như bình thường. 5.4 Dùng quả bồ hòn làm kem cạo lông Kem cạo lông từ bồ hòn không chứa hóa chất độc hại mà còn có thể giúp bạn dưỡng ẩm cho làm da. Bạn có thể tham khảo cách sử dụng quả bồ hòn làm kem cạo lông sau đây: - Nấu dung dịch bồ hòn như cách làm nước tắm. - Pha dung dịch bồ hòn với một giọt dầu ô liu, dầu dưỡng ẩm hoặc ít tinh dầu thiên nhiên bạn thích. - Khuấy đều cho tới khi dung dịch đặc hơn rồi bỏ vào một hộp kín để bảo quản. - Khi dùng “kem cạo lông bồ hòn”, bạn thoa hỗn hợp lên da và cạo như bình thường. Bạn lưu ý khuấy lại hỗn hợp trước mỗi lần dùng. 5.5 Dùng quả bồ hòn như nước vệ sinh nhà cửa Dung dịch bồ hòn có thể giúp bạn vệ sinh những tấm kiếng bị mờ, bồn rửa mặt ố vàng hay sàn nhà đang dơ. Bạn có thể tham khảo cách lau dọn nhà bằng dung dịch từ quả bồ hòn sau đây: - Nấu dung dịch bồ hòn như hướng dẫn trên. - Pha dung dịch bồ hòn với giấm theo tỷ lệ 2:1 và thêm một vài giọt tinh dầu có khả năng sát trùng như tinh dầu tràm trà hoặc tinh dầu bạch đàn. - Dùng hỗn hợp này thay thế nước vệ sinh để lau dọn các vết bẩn trong nhà. Nếu muốn tránh các chất hóa học độc hại trong nước rửa chén hay nước lau nhà, bạn có thể áp dụng cách dùng quả bồ hòn để thay thế. Loại quả tự nhiên này không những giúp bạn bảo vệ sức khỏe mà còn rất thân thiện với môi trường. Bồ hòn có vị như thế nào?
Làm thế nào để phát triển não bộ của trẻ ? 1. Bạn sẽ không thể nhìn thấy những gì đang diễn ra bên trong não bộ của trẻ sơ sinh. Bạn sẽ không thể thấy được hiện tượng chất dẫn truyền thần kinh, một chất hóa học của não, được giải phóng một cách mạnh mẽ khi một nơ-ron từ tai của đứa trẻ mang tín hiệu mã hóa của tiếng “Mẹ” kết nối với một nơ-ron trong vỏ não thính giác. Và kể từ thời điểm đó, tiếng “Mẹ” được ghi lại trong một nhóm tế bào não của đứa trẻ và các tế bào này sẽ không ghi nhận bất kỳ một âm thanh nào khác trong suốt phần đời còn lại của đứa trẻ. 2. Sử dụng kỹ thuật chụp cắt lớp phát xạ positron (PET), tiến sĩ Harry Chugani, một nhà thần kinh học nhi khoa, có thể quan sát thấy các vùng trong não bộ của đứa trẻ lần lượt sáng lên giống như các khu phố lần lượt sáng đèn sau sự cố mất điện. Ông cũng có thể đo hoạt động của hành não và vỏ não giác quan ngay từ giây phút đứa trẻ ra đời. Ông có thể quan sát các hoạt động trong vỏ não thị giác khi đứa trẻ được 2 và 3 tháng tuổi. Ông có thể thấy vỏ não phía trước sáng lên khi đứa trẻ được 6 đến 8 tháng tuổi. Nói cách khác, ông thấy rằng bộ não của trẻ vẫn tiếp tục phát triển rất lâu sau khi đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ, không chỉ tăng kích cỡ mà còn hình thành các kết nối siêu nhỏ chịu trách nhiệm về các hoạt động cảm giác, học tập và ghi nhớ. 4. Tuy nhiên, đến năm 1996, các nhà nghiên cứu nhận định rằng điều đó là sai. 5. Kể từ đó, họ bắt đầu nghiên cứu cách thức những trải nghiệm đó tạo nên các mạng lưới kết nối thần kinh trong não như thế nào. Khi trẻ mới sinh ra, có khoảng 100 tỷ nơ-ron thần kinh tạo nên hơn 50 nghìn tỷ kết nối (khớp thần kinh). Các gen mà đứa trẻ mang đã quyết định cấu trúc cơ bản của bộ não trẻ. Chúng thực hiện các kết nối trong cuống não để điều khiển tim đập và phổi hô hấp. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Một nửa trong tổng số 80.000 gen khác nhau trong cơ thể người được cho là có liên quan đến việc hình thành và điều khiển hoạt động của hệ thần kinh trung ương. Tuy 35 nhiên, con số này chưa thấm vào đâu so với những gì bộ não cần. Trong những tháng đầu tiên của cuộc đời, số lượng các khớp thần kinh sẽ tăng gấp 20-50 lần, lên tới hơn 1 triệu tỷ. Cơ thể người không có đủ số lượng gen để thực hiện một lượng kết nối lớn đến như vậy. 6. Việc đó sẽ được thực hiện nhờ trải nghiệm – hay nói cách khác là tất cả 40 các tín hiệu mà đưa trẻ nhận được từ thế giới bên ngoài. Trải nghiệm dường như có tác dụng củng cố các khớp thần kinh. Cũng giống như việc một ký ức sẽ phai mờ dần nếu thỉnh thoảng không được khơi lại, các khớp thần kinh không được sử dụng cũng sẽ bị teo đi trong một quá trình gọi là thải loại. Cách để củng cố các kết nối mong manh này là nhờ sự kích thích. 7. Kích thích không có nghĩa là bắt một đứa trẻ mới chập chững biết đi phải tham gia các lớp học đặc biệt. Mà đó là những thứ đơn giản hơn rất nhiều – phân loại tất theo màu sắc, hay lắng nghe giai điệu nhẹ nhàng của một câu chuyện cổ tích. Trong một nghiên cứu có qui mô lớn nhất từ trước đến nay về điều gì làm nên sự khác biệt, giáo sư Craig Ramey của Đại học Alabama đã phát hiện ra rằng chính trò chơi xếp hình, trò chơi với các hạt sáng tạo, trò chơi ú òa và các trò chơi dân gian khác sẽ giúp tăng cường nhận thức, phát triển khả năng vận động và khả năng ngôn ngữ, và việc không phải trải qua những sang chấn tâm lý sẽ mang lại những hiệu quả lâu dài. 8. Sự hình thành các khớp thần kinh trong vỏ não vận động bắt đầu khi trẻ được khoảng 2 tháng tuổi. Trong khoảng thời gian đó, trẻ sơ sinh dần dần mất phản xạ “giật mình” và “tìm vú mẹ”, và bắt đầu làm chủ các chuyển động có chủ đích. Ở 3 tháng tuổi, sự hình thành các khớp thần kinh vỏ thị giác đạt đến mức cao nhất; lúc này bộ não bắt đầu tinh chỉnh các kết nối cho phép mắt tập trung vào một vật thể. Ở giai đoạn 8 đến 9 tháng tuổi, hồi hải mã, nơi lập chỉ mục và lưu trữ ký ức, trở nên hoàn thiện; chỉ đến lúc đó đứa trẻ mới có thể hình thành những ký ức rõ ràng về cách di chuyển một chiếc điện thoại di động. Theo tiến sĩ Chugani, trong 6 tháng đầu đời, vùng vỏ não trước trán hình thành các khớp thần kinh với tốc độ tiêu thụ năng lượng gấp đôi so với não người trưởng thành. Tốc độ nhanh khủng khiếp đó tiếp tục diễn ra trong suốt 10 năm đầu đời của trẻ. Ý chính của văn bản trên là gì?
1. Làm lạnh là quá trình tạo ra các điều kiện làm lạnh bằng cách loại bỏ hơi nóng. Người ta thường dùng quy trình này để bảo quản thức ăn và các mặt hàng dễ hư hỏng khác, bảo vệ con người khỏi các loại bệnh do thực phẩm gây ra. Bởi vì, vi khuẩn sẽ phát triển chậm hơn ở nhiệt độ thấp. Theo Live Science, phương pháp bảo quản thực phẩm bằng cách làm lạnh đã có từ hàng ngàn năm nay, nhưng tủ lạnh hiện đại là một phát minh mới. Ngày nay, điện năng dùng cho tủ lạnh và điều hòa không khí chiếm gần 20% mức tiêu thụ năng lượng trên toàn thế giới. 2. Lịch sử của tủ lạnh Vào khoảng năm 1000 TCN, người Trung Quốc đã biết cắt và lưu trữ băng. 500 năm sau đó, người Ai Cập và Ấn Độ đã biết cách để tận dụng đêm lạnh làm nước đá. Các nền văn minh khác, chẳng hạn như người Hy Lạp, La Mã và Do Thái, đã biết lưu trữ tuyết trong hầm lò và bao phủ chúng bằng các loại vật liệu cách nhiệt. Thế kỷ 17, tại nhiều nơi ở châu Âu, người ta đã tìm ra nitrat hòa tan trong nước để làm mát và dùng để tạo ra băng. Trong thế kỷ 18, người châu Âu thu lượm băng vào mùa đông, cho muối vào, bọc băng trong vải flannel, và cất giữ dưới lòng đất. Băng sẽ không bị tan chảy trong nhiều tháng liền. Băng đá thậm chí còn được vận chuyển đến nhiều nơi trên thế giới. Khi không có băng, người ta dùng hầm mát hoặc đặt hàng hóa ở dưới nước; hoặc chế tạo thùng đá làm bằng gỗ, lót bằng thiếc, kẽm và vật liệu cách nhiệt. Khái niệm về cơ điện lạnh bắt đầu vào những năm 1720, khi William Cullen, một bác sĩ người Scotland, nhận thấy sự bay hơi có tác dụng làm mát. Ông đã chứng minh ý tưởng này vào năm 1748. Đến năm 1805, Oliver Evans, một nhà phát minh người Mỹ, đã thiết kế một chiếc máy làm lạnh sử dụng hơi nước thay vì chất lỏng. Năm 1820, nhà khoa học Anh Michael Faraday đã sử dụng amoniac hóa lỏng để làm mát. 3. Jacob Perkins, người làm việc với Evans, đã nhận được bằng sáng chế về chu kỳ nén hơi sử dụng amoniac hóa lỏng vào năm 1835. Ông được cho là "cha đẻ của tủ lạnh". Năm 1842, John Gorrie, một bác sỹ người Mỹ, cũng chế tạo một chiếc máy tương tự thiết kế của Evans. Gorrie đã dùng chiếc tủ lạnh của mình tạo ra băng, để làm mát cho các bệnh nhân bị sốt vàng da ở một bệnh viện Florida. Năm 1851, Gorrie nhận được bằng sáng chế đầu tiên của Mỹ về phương pháp làm ra băng nhân tạo. Ngoài ra, nhiều nhà sáng tạo trên thế giới đã tiếp tục phát triển ra những kỹ thuật mới hoặc cải thiện những kỹ thuật sẵn có để làm lạnh. Chẳng hạn như Ferdinand Carré, một kỹ sư người Pháp đã phát triển một tủ lạnh sử dụng hỗn hợp có chứa ammonia và nước vào năm 1859; hay Albert T. Marshall, nhà phát minh người Mỹ, đã sáng chế ra tủ lạnh cơ đầu tiên vào năm 1899; năm 1930, nhà vật lý nổi tiếng Albert Einstein được cấp bằng sáng chế tủ lạnh với ý tưởng tạo ra tủ lạnh thân thiện với môi trường, không phụ thuộc vào điện. 4. Tủ lạnh thương mại bắt đầu phổ biến vào cuối thế kỷ 19 nhờ sự phát triển của các nhà máy bia. Chiếc tủ lạnh đầu tiên được đã được đặt tại một nhà máy bia ở Brooklyn, New York, vào năm 1870. Bước sang thế kỷ 20, gần như tất cả các nhà máy bia đều có tủ lạnh. Ngành công nghiệp đóng gói thịt là ngành công nghiệp tiếp theo phổ biến với chiếc tủ lạnh đầu tiên được giới thiệu tại Chicago vào năm 1900. Gần 15 năm sau đó, gần như tất cả các nhà máy đóng gói thịt đều sử dụng tủ lạnh. Tủ lạnh được xem là vật dụng cần thiết trong các hộ gia đình vào những năm 1920, lúc đó, hơn 90% gia đình người Mỹ đã có tủ lạnh. Ngày nay, gần như tất cả mọi nhà tại Mỹ - 99% - đều có ít nhất 1 tủ lạnh, và khoảng 26% hộ gia đình Mỹ có hơn 1 chiếc tủ lạnh trong nhà, theo báo cáo năm 2009 của Bộ Năng lượng Mỹ. Tủ lạnh ngày nay hoạt động cũng giống như tủ lạnh hơn 100 năm trước: đó là bằng cách bay hơi chất lỏng. Các chất làm lạnh, các hóa chất lỏng được sử dụng để làm mát, làm bay hơi ở nhiệt độ thấp. Các chất lỏng được đẩy vào tủ lạnh qua các ống và bắt đầu bốc hơi. Khi chất lỏng bay hơi, chúng mang theo hơi nóng ra một cuộn dây bên ngoài tủ lạnh, nơi nhiệt được tỏa ra. Các khí này lại trở về một máy nén, ở đây, chúng lại trở thành chất lỏng, và chu kỳ này lặp đi lặp lại. 5. Tủ lạnh có an toàn không? Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA), tủ lạnh hồi đầu sử dụng các chất lỏng và chất khí dễ cháy, độc hại, phản ứng mạnh. Năm 1926, Thomas Midgley, một kỹ sư người Mỹ và là nhà hóa học, đã nghiên cứu các lựa chọn an toàn hơn cho tủ lạnh và thấy rằng các hợp chất có chứa florua có vẻ an toàn hơn. Chlorofluorocarbons (CFCs), do công ty DuPont bán ra, trở nên phổ biến, cho đến 50 năm sau, các hợp chất này bị phát hiện là có hại cho tầng ozone trong khí quyển. Theo Ủy ban Năng lượng California, hầu hết tủ lạnh sản xuất hiện nay sử dụng hydrofluorocarbons (HFCs), an toàn hơn so với CFC và nhiều lựa chọn khác, nhưng vẫn không phải là lý tưởng nhất. 6. Theo Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ, tủ lạnh giúp bảo quản thực phẩm an toàn, nhưng chỉ khi hoạt động ở nhiệt độ thích hợp. Khi tủ lạnh không đủ lạnh, vi khuẩn có hại trong thực phẩm dễ hư hỏng phát triển nhanh chóng và có thể gây ô nhiễm chéo thực phẩm, gây ra kích ứng nhẹ hoặc ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng nếu chúng ta ăn vào. FDA khuyến cáo nhiệt độ của tủ lạnh nên đặt ở mức cao nhất là 40 độ Fahrenheit (4,4 độ C); ngoài ra nước, thức ăn đổ ra phải được làm sạch kịp thời. 7. Công nghệ của tủ lạnh Ngày nay, tủ lạnh có 2 công nghệ làm lạnh. Thứ nhất, thông thường tủ lạnh dựa vào các máy nén lớn, phát sinh ra nhiều nhiệt và có thể khiến căn phòng để tủ lạnh dễ dàng nóng lên. Tuy nhiên, một công nghệ tủ lạnh mới là sử dụng toàn bộ bề mặt tủ lạnh, vì thế nó thải ra hơi nóng cực kỳ chậm, khiến nhiệt độ căn phòng hầu như không thay đổi và bề mặt tủ lạnh cũng rất mát khi chạm vào. Những tủ lạnh này còn có lợi ích là không dùng các chất liệu có hại và vận hành không gây ra tiếng ồn, cũng như có thể điều khiển chính xác hơn. Một loại tủ lạnh mới nữa là sử dụng nam châm để giúp vận hành hoàn toàn im lặng, không rung và thân thiện với môi trường. Tủ lạnh nam châm sử dụng một khái niệm dựa trên hiệu ứng từ nhiệt, được phát hiện ra vào năm 1917 bởi Pierre Weiss và Auguste Piccard, hai nhà vật lý học người Pháp và Thụy Sỹ, và được nghiên cứu thêm bởi một nhóm các nhà khoa học đến từ Slovania và Đan Mạch vào năm 2015. Tủ lạnh từ tính sử dụng lượng điện ít hơn 35% so với tủ lạnh truyền thống. (Nguồn: khoahoc.tv) Ý nào dưới đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
1. Làm lạnh là quá trình tạo ra các điều kiện làm lạnh bằng cách loại bỏ hơi nóng. Người ta thường dùng quy trình này để bảo quản thức ăn và các mặt hàng dễ hư hỏng khác, bảo vệ con người khỏi các loại bệnh do thực phẩm gây ra. Bởi vì, vi khuẩn sẽ phát triển chậm hơn ở nhiệt độ thấp. Theo Live Science, phương phápbảo quản thực phẩm bằng cách làm lạnhđã có từ hàng ngàn năm nay, nhưng tủ lạnh hiện đại là một phát minh mới. Ngày nay, điện năng dùng cho tủ lạnh và điều hòa không khí chiếm gần 20% mức tiêu thụ năng lượng trên toàn thế giới. 2. Lịch sử của tủ lạnh Vào khoảng năm 1000 TCN, người Trung Quốc đã biết cắt và lưu trữ băng. 500 năm sau đó, người Ai Cập và Ấn Độ đã biết cách để tận dụng đêm lạnh làm nước đá. Các nền văn minh khác, chẳng hạn như người Hy Lạp, La Mã và Do Thái, đã biết lưu trữ tuyết trong hầm lò và bao phủ chúng bằng các loại vật liệu cách nhiệt. Thế kỷ 17, tại nhiều nơi ở châu Âu, người ta đã tìm ra nitrat hòa tan trong nước để làm mát và dùng để tạo ra băng. Trong thế kỷ 18, người châu Âu thu lượm băng vào mùa đông, cho muối vào, bọc băng trong vải flannel, và cất giữ dưới lòng đất. Băng sẽ không bị tan chảy trong nhiều tháng liền. Băng đá thậm chí còn được vận chuyển đến nhiều nơi trên thế giới. Khi không có băng, người ta dùng hầm mát hoặc đặt hàng hóa ở dưới nước; hoặc chế tạo thùng đá làm bằng gỗ, lót bằng thiếc, kẽm và vật liệu cách nhiệt. Khái niệm về cơ điện lạnhbắt đầu vào những năm 1720, khi William Cullen, một bác sĩ người Scotland, nhận thấy sự bay hơi có tác dụng làm mát. Ông đã chứng minh ý tưởng này vào năm 1748. Đến năm 1805, Oliver Evans, một nhà phát minh người Mỹ, đã thiết kế một chiếc máy làm lạnh sử dụng hơi nước thay vì chất lỏng. Năm 1820, nhà khoa học Anh Michael Faraday đã sử dụng amoniac hóa lỏng để làm mát. 3. Jacob Perkins, người làm việc với Evans, đã nhận được bằng sáng chế về chu kỳ nén hơi sử dụng amoniac hóa lỏng vào năm 1835. Ông được cho là "cha đẻ của tủ lạnh". Năm 1842, John Gorrie, một bác sỹ người Mỹ, cũng chế tạo một chiếc máy tương tự thiết kế của Evans. Gorrie đã dùng chiếc tủ lạnh của mình tạo ra băng, để làm mát cho các bệnh nhân bị sốt vàng da ở một bệnh viện Florida. Năm 1851, Gorrie nhận được bằng sáng chế đầu tiên của Mỹ về phương pháp làm ra băng nhân tạo. Ngoài ra, nhiều nhà sáng tạo trên thế giới đã tiếp tục phát triển ra những kỹ thuật mới hoặc cải thiện những kỹ thuật sẵn có để làm lạnh. Chẳng hạn như Ferdinand Carré, một kỹ sư người Pháp đã phát triển một tủ lạnh sử dụng hỗn hợp có chứa ammonia và nước vào năm 1859; hay Albert T. Marshall, nhà phát minh người Mỹ, đã sáng chế ra tủ lạnh cơ đầu tiên vào năm 1899; năm 1930, nhà vật lý nổi tiếng Albert Einstein được cấp bằng sáng chế tủ lạnh với ý tưởng tạo ra tủ lạnh thân thiện với môi trường, không phụ thuộc vào điện. 4. Tủ lạnh thương mại bắt đầu phổ biến vào cuối thế kỷ 19 nhờ sự phát triển của các nhà máy bia. Chiếc tủ lạnh đầu tiên được đã được đặt tại một nhà máy bia ở Brooklyn, New York, vào năm 1870. Bước sang thế kỷ 20, gần như tất cả các nhà máy bia đều có tủ lạnh. Ngành công nghiệp đóng gói thịt là ngành công nghiệp tiếp theo phổ biến với chiếc tủ lạnh đầu tiên được giới thiệu tại Chicago vào năm 1900. Gần 15 năm sau đó, gần như tất cả các nhà máy đóng gói thịt đều sử dụng tủ lạnh. Tủ lạnh được xem là vật dụng cần thiết trong các hộ gia đình vào những năm 1920, lúc đó, hơn 90% gia đình người Mỹ đã có tủ lạnh. Ngày nay, gần như tất cả mọi nhà tại Mỹ - 99% - đều có ít nhất 1 tủ lạnh, và khoảng 26% hộ gia đình Mỹ có hơn 1 chiếc tủ lạnh trong nhà, theo báo cáo năm 2009 của Bộ Năng lượng Mỹ. Tủ lạnh ngày nay hoạt động cũng giống như tủ lạnh hơn 100 năm trước: đó là bằng cách bay hơi chất lỏng. Các chất làm lạnh, các hóa chất lỏng được sử dụng để làm mát, làm bay hơi ở nhiệt độ thấp. Các chất lỏng được đẩy vào tủ lạnh qua các ống và bắt đầu bốc hơi. Khi chất lỏng bay hơi, chúng mang theo hơi nóng ra một cuộn dây bên ngoài tủ lạnh, nơi nhiệt được tỏa ra. Các khí này lại trở về một máy nén, ở đây, chúng lại trở thành chất lỏng, và chu kỳ này lặp đi lặp lại. 5. Tủ lạnh có an toàn không? Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA), tủ lạnh hồi đầu sử dụng các chất lỏng và chất khí dễ cháy, độc hại, phản ứng mạnh. Năm 1926, Thomas Midgley, một kỹ sư người Mỹ và là nhà hóa học, đã nghiên cứu các lựa chọn an toàn hơn cho tủ lạnh và thấy rằng các hợp chất có chứa florua có vẻ an toàn hơn. Chlorofluorocarbons (CFCs), do công ty DuPont bán ra, trở nên phổ biến, cho đến 50 năm sau, các hợp chất này bị phát hiện là có hại cho tầng ozone trong khí quyển. Theo Ủy ban Năng lượng California, hầu hết tủ lạnh sản xuất hiện nay sử dụng hydrofluorocarbons (HFCs), an toàn hơn so với CFC và nhiều lựa chọn khác, nhưng vẫn không phải là lý tưởng nhất. 6. Theo Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ, tủ lạnh giúp bảo quản thực phẩm an toàn, nhưng chỉ khi hoạt động ở nhiệt độ thích hợp. Khi tủ lạnh không đủ lạnh, vi khuẩn có hại trong thực phẩm dễ hư hỏng phát triển nhanh chóng và có thể gây ô nhiễm chéo thực phẩm, gây ra kích ứng nhẹ hoặc ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng nếu chúng ta ăn vào. FDA khuyến cáo nhiệt độ của tủ lạnh nên đặt ở mức cao nhất là 40 độ Fahrenheit (4,4 độ C); ngoài ra nước, thức ăn đổ ra phải được làm sạch kịp thời. 7. Công nghệ của tủ lạnh Ngày nay, tủ lạnh có 2 công nghệ làm lạnh. Thứ nhất, thông thường tủ lạnh dựa vào các máy nén lớn, phát sinh ra nhiều nhiệt và có thể khiến căn phòng để tủ lạnh dễ dàng nóng lên. Tuy nhiên, một công nghệ tủ lạnh mới là sử dụng toàn bộ bề mặt tủ lạnh, vì thế nó thải ra hơi nóng cực kỳ chậm, khiến nhiệt độ căn phòng hầu như không thay đổi và bề mặt tủ lạnh cũng rất mát khi chạm vào. Những tủ lạnh này còn có lợi ích là không dùng các chất liệu có hại và vận hành không gây ra tiếng ồn, cũng như có thể điều khiển chính xác hơn. Một loại tủ lạnh mới nữa là sử dụng nam châmđể giúp vận hành hoàn toàn im lặng, không rung và thân thiện với môi trường. Tủ lạnh nam châm sử dụng một khái niệm dựa trên hiệu ứng từ nhiệt, được phát hiện ra vào năm 1917 bởi Pierre Weiss và Auguste Piccard, hai nhà vật lý học người Pháp và Thụy Sỹ, và được nghiên cứu thêm bởi một nhóm các nhà khoa học đến từ Slovania và Đan Mạch vào năm 2015. Tủ lạnh từ tínhsử dụng lượng điện ít hơn 35% so với tủ lạnh truyền thống. (Nguồn: khoahoc.tv) Ý nào dưới đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?