(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn có đáp án (Đề số 29)
269 lượt thi 7 câu hỏi 60 phút
Danh sách câu hỏi:
Đoạn văn 1
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
THỜI XA VẮNG
(Trích)
(Lê Lựu)
Tóm tắt tiểu thuyết Thời xa vắng: Giang Minh Sài sinh ra trong gia đình nho giáo, học giỏi, là niềm hi vọng của cả gia đình và dòng họ. Theo tư tưởng cũ, 12 tuổi Sài bị ép kết hôn với Tuyết – một cô gái hơn anh 3 tuổi. Sau đó Sài gặp và yêu Hương. Tuổi trưởng thành, Sài đăng kí nhập ngũ đi B. Vào chiến trường, Sài là một cá nhân điển hình của đơn vị. Sau 11 năm ở chiến trường trở về, Sài li dị Tuyết, cưới Châu nhưng cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Cuối cùng, Sài về quê sống, tham gia phát triển quê hương mình.
Đoạn trích kể về những ngày đầu Sài vào chiến trường:
Vượt qua sông Bạc được một đêm Sài phải nằm lại. Đã ba ngày lên cơn sốt li bì bỏ cơm, đến chiều anh vẫn cuốn võng chống gậy ra đi. Đêm nay anh không còn biết gì nữa. Mắt đã dại đi, da tím bầm và quai hàm cứng ngắc không thể nuốt nổi chén sâm cô y tá vừa pha. Đợi tiêm một loạt ba mũi thuốc xong hai chiến sĩ của đơn vị phải ở lại cùng cô y tá, người còn lại cuối cùng ở bãi khách, khiêng Sài đến trạm quân y binh trạm cách đẩy một ngày đường. Như tất cả những người chiến sĩ ra mặt trận lúc bấy giờ mục đích thiêng liêng và cao cả của họ là được giết giặc lập công nhưng hai người đã phải ở lại trạm quân y suốt sáu tháng trời. Khiêng Sài đến nơi, họ phải nuôi quân thay cho một cô nuôi quân bị thương trên đường đi lấy nước và một cô đang lên cơn sốt. Mới đầu do yêu cầu của trạm và không nỡ bỏ bạn đang từng giờ không biết sống chết ra sao, về sau trạm phải di chuyển liên miên và thương binh càng nhiều hai chiến sĩ nhận quyết định thành quân số chính thức của binh trạm 37.
Những ngày sốt liên miên, những cơn co giật của trận sốt ác tính tưởng không thể nào qua được, sáu tháng Sài mới ra khỏi bệnh viện. Anh được điều làm trung đội trưởng thuộc đại đội công binh giữ ngầm Ông Thao ở phía Nam Xê Băng Hiêng[1].[...] Về đến đơn vị anh ra mặt đường ngay. Đại đội trưởng quyết định anh ở nhà nghỉ thêm một tuần. [...] Được nghỉ thêm ít ngày Sài có khoẻ ra nhưng anh thèm rau quả và rất muốn đi kiếm, bất kể là rau gì. Còn là lính mới anh không thể vượt qua những núi đá và rừng cây đã bị chết độc hoá học làm cháy khô. Chiều ý anh, ngày hôm sau đại đội trưởng cho liên lạc dẫn Sài đi kiếm rau, kiếm măng, nấm và quả chua. Đi và về phải hai ngày nhưng cứ mang ruốc, lương khô đủ tiêu chuẩn cho bốn ngày. Hai anh em khoác súng, ba lô đi từ sáng sớm, khoảng quá chiều đã đến khu rừng thưa, cao ráo, phần nhiều là lim, săng lẻ và cây bông tàu tròn thẳng tuồn tuột, vỏ trắng nhợt nhưng lại rắn đinh. Cậu liên lạc tên là Thêm Cậu ta đi thoăn thoắt, nói thoăn thoắt, dường như khu rừng này là vườn nhà của cậu ta. Chỗ nào có rau, con suối ở dưới chân chảy đi đâu, chỗ nào có nấm mới? Anh có thích uống mật ong không? Thôi để đến mai, lúc nào uống hết nước có bị đông đựng mật ong ta mới “dứt điểm”. Cứ tưởng cậu ta đã ở vùng này nhiều, sau mới biết là Thêm cũng chỉ đến đây lần đầu. Vừa tinh nhanh, vừa liều lĩnh, đi đến bất cứ chỗ nào Thêm cũng không bỏ qua một chi tiết nhỏ. Chỉ cần vài tiếng buổi chiều hai người đã lấy được một ba lô măng nứa và một bọc phải đến hai cẫn mộc nhĩ. Chuyến đi có thể gọi là vô cùng thắng lợi nếu không có trận mưa đêm mà họ không ngờ tới,.
Lược một đoạn: Sau cơn mưa, Sài và Thêm gặp một tốp phản lực ném bom. Thêm bị thương, máu ra nhiều, Sài cõng Thêm tìm về đơn vị.
Không hiểu mới nửa đêm hay đã gần sáng. Không hiểu mình đang nằm ở bãi biển hay trong gian buồng xây kín quanh năm ngày cũng như đêm! Chỉ thấy hơi lành lạnh ở lưng. Muốn giơ tay lên nhưng không tài nào nhấc nổi. Phải ủ ở như muốn giãy giụa, muốn vùng đạp mới mở được mắt ra. Sài sờ lên lưng. Không có Thêm. Quờ ra xung quanh cũng không thấy. Mồ hôi anh toả ra, hai chân muốn
khuỵu xuống. Anh bẩm đèn loang loáng ra tứ phía. Chỗ nào cũng thấy um tùm đen tối, cũng như là nơi rình rập của kẻ địch. Định cất tiếng gọi, lưỡi ríu lại cổ họng nghẹn khô, Sài không sao cất nổi một lời, dù là nhỏ nhoi. Sau phút choáng váng, anh lội xuống suối bẩm đèn tìm bạn. Lội giật lùi được đến đầu gối nước anh nhận ra Thêm đang giang hai tay nằm sấp ở bờ suối. Sài mừng rỡ xô đến gọi bạn. Vừa chạm đến người Thêm, anh đã run bắn lên. Nhìn bạn gục xuống mặt nước anh hiểu vì sao nên nông nỗi này. Anh muốn kêu lên. Không kêu nổi. Anh muốn khóc, khóc không ra nước mắt. Nỗi căm giận chính mình trào lên trong anh. Bất chấp cả sợ hãi anh xốc bạn lên cổ cõng Thêm lội theo bờ suối. Lúc bấy giờ anh chưa hề có cảm giác hoặc không còn cảm giác là bạn đã chết, chỉ thấy có bạn trên lưng, anh thấy vững tâm hơn. Và cũng không hiểu, mãi sau này cũng không ai giải thích được tại sao anh lại cõng nỗi người bạn đã hi sinh trên người luồn rừng, lội suối suốt mười lăm tiếng đồng hồ. Đến con đường giao liên, anh ngã vật ra. Hai người nằm nghiêng úp mặt vào nhau như hai người bạn tri kỉ đang trò chuyện, tay anh ôm ngang lưng bạn, và bạn gác cái chân bị thương qua người anh. Đến gần mới biết cả hai người lính trẻ ấy đều như đang ngủ rất ngon lành.
(Lê Lựu, Thời xa vắng, NXB Văn học, Hà Nội, 2021, tr.114-118)
[1] Xê Băng Hiêng: tên dòng sông bắt nguồn từ phía tây dãy núi Trường Sơn, ở địa phận xã Hướng Lập, huyện Hướng Hoá của tỉnh Quảng Trị, chảy về phía tây biên giới Lào – Việt.
54 Đánh giá
50%
40%
0%
0%
0%