Đề tham khảo tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn 2025 có đáp án - Đề 19

129 người thi tuần này 4.6 269 lượt thi 7 câu hỏi 60 phút

🔥 Đề thi HOT:

4870 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn có đáp án (Đề số 27)

17.7 K lượt thi 7 câu hỏi
3065 người thi tuần này

Đề tham khảo tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn 2025 có đáp án - Đề 10

8.3 K lượt thi 7 câu hỏi
3044 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 1)

31.4 K lượt thi 7 câu hỏi
2462 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 14)

18.2 K lượt thi 7 câu hỏi
2196 người thi tuần này

(2024) Đề minh họa tham khảo BGD môn Văn có đáp án (Đề 28)

6.2 K lượt thi 6 câu hỏi
2111 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 19)

13.8 K lượt thi 7 câu hỏi
2039 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn có đáp án (Đề số 49)

13.8 K lượt thi 7 câu hỏi

Nội dung liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Đoạn văn 1

I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau:

Bạn biết bao nhiêu người xuất chúng với những tính cách nổi bật và duy nhất? Đừng tự biến mình thành một bình hoa di động. Eric Hoffer(*) đã đúng khi nói: “Khi con người được tự do làm việc theo ý mình thì họ thường bắt chước người khác”. Loài người là sinh vật duy nhất từ chối chính bản thân mình.

Đừng tìm kiếm những điều kì diệu. Bạn chính là một điều kì diệu. “Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được tạo nên một cách đáng sợ và tuyệt vời.” (Thi Thiên). Đừng để những người khác lấn át bạn và cũng đừng cố gắng làm theo họ. Không ai có thể là bạn một cách hiệu quả như chính bạn. Khi bạn sử dụng những tài năng mà bạn có, bạn được gọi là người có tài. Một trong những điều khó khăn nhất trong việc bước lên nấc thang danh vọng là phải vượt qua đám đông đầy những bản sao ở phía dưới.

Số lượng những người không biết tận dụng những thế mạnh của mình nhiều hơn những người làm được điều đó. Bạn là một chuyên gia trong lĩnh vực bạn có khả năng nhất. Bạn không phải được tạo ra để là tất cả mọi thứ đối với tất cả mọi người. Bạn là điều kì diệu lớn lao trên thế giới này.

Hơn 90% những bông hoa trên đời hoặc có mùi khó chịu hoặc chẳng có mùi gì. Nhưng cái chúng ta cần và nhớ mãi lại là bông hoa với mùi hương thơm ngát. Hãy nổi bật! Quá nhiều người đã tạo ra nấm mồ cho cuộc đời mình bằng cách chôn vùi khả năng của chính mình.

Đừng cố gắng sống theo sự mong đợi của ai ngoài đấng tạo hoá. Một bản sao thì cố gắng thích nghi với thế giới, nhưng một bản thể thì làm cho thế giới phải theo ý mình. Bởi vậy, tất cả mọi sự tiến bộ đều phụ thuộc vào những bản thể.

(John Mason, Sinh ra là một bản thể, đừng chết như một bản sao,

Thuý Hằng dịch, NXB Thời đại, 2012, tr.6)

Chú thích: Eric Hoffer* (1902-1983): Triết gia người Mỹ.

Câu 1

Chỉ ra các trích dẫn trực tiếp được sử dụng trong đoạn trích.

Lời giải

Trích dẫn trực tiếp:

+ “Khi con người được tự do làm việc theo ý mình thì họ thường bắt chước người khác.” (Eric Hoffer)

+ “Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được tạo nên một cách đáng sợ và tuyệt vời.” (Thi Thiên).

Câu 2

Xác định luận đề của văn bản.

Lời giải

Luận đề của văn bản: Mỗi chúng ta sinh ra và tồn tại trên đời là những bản thể, không phải là những bản sao.

Câu 3

Anh/ Chị hiểu thế nào về nghĩa của từ “bản thể” và “bản sao” được sử dụng trong đoạn trích?

Lời giải

Hiểu về nghĩa của từ “bản thể” và “bản sao” được sử dụng trong văn bản:

+ “Bản thể”: nghĩa gốc là cái nguyên bản, là chính nó, là cái làm cho một vật là chính nó. Trong đoạn trích, “bản thể” được hiểu mỗi người được sinh ra trên cõi đời là duy nhất, có tính cách, tài năng riêng biệt nên cần biết tự mình xây dựng tính cách, năng lực của bản thân để trở thành một cá thể riêng biệt trong xã hội.

+ “Bản sao”: nghĩa gốc là bản chụp từ bản chính hoặc bản đánh máy có nội dung đầy đủ, chính xác ghi trong sổ gốc. Trong đoạn trích, bản sao là chỉ những người chuyên bắt chước những việc làm của người khác mà quên đi tính cách, năng lực của bản thân mình, trở thành người giống y hệt người mà mình bắt chước.

Câu 4

Nhận xét tác dụng của những bằng chứng được sử dụng trong đoạn trích.

Lời giải

– Các bằng chứng được sử dụng trong đoạn trích:

+ Tác giả đã trích dẫn trực tiếp lời của Eric Hoffer và lời trong Thi Thiên.

+ Hơn 90% những bông hoa trên đời hoặc có mùi khó chịu hoặc chẳng có mùi gì. Nhưng cái chúng ta cần và nhớ mãi lại là bông hoa với mùi hương thơm ngát.

– Tác dụng:

+ Làm rõ cho những lí lẽ: chúng ta sinh ra trên đời là duy nhất nhưng chúng ta thường hay từ chối chính mình để bắt chước người khác và con người ta hãy nổi bật bằng cách phát huy “mùi hương thơm ngát” của chính mình để trở thành một cá thể riêng biệt, duy nhất.

+ Tăng sức thuyết phục cho đoạn trích.

Câu 5

Câu văn: “Một bản sao thì cố gắng thích nghi với thế giới, nhưng một bản thể thì làm cho thế giới phải theo ý mình”, gợi cho anh/ chị những suy nghĩ gì?

Lời giải

– Nội dung câu văn: Là một bản thể, chúng ta luôn là chính mình, thậm chí có thể thay đổi thế giới theo ý mình, nếu chúng ta là một bản sao, lâu dần đánh mất chính mình nên chúng ta phải cố gắng thích nghi với thế giới để tồn tại và phát triển được.

– Câu văn gợi suy nghĩ:

+ Khi chúng ta là bản thể, chúng ta tự phát huy năng lực, phẩm chất của chính mình để tồn tại và phát triển, từ đó có thể thay đổi được thế giới theo suy nghĩ của mình. Khi chúng ta là bản sao, luôn tìm cách bắt chước người khác, lâu dần chúng ta sẽ đánh mất chính mình, sống phụ thuộc vào người khác.

+ Mỗi chúng ta luôn phấn đấu là một bản thể, bắt đầu từ những công việc nhỏ nhặt hàng ngày đến những công việc lớn lao, đừng cố gắng để làm một bản sao.

Câu 6

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về vấn đề: Làm thế nào để bản thân luôn là một bản thể?

Lời giải

a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:

Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (đoạn văn khoảng 200 chữ)

0,25

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Làm thế nào để bản thân luôn là một bản thể?

0,25

c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:

– Xác định được các ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ý:

* Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận.

* Thân đoạn: Bày tỏ suy nghĩ. Có thể như sau:

+ Để bản thân luôn là một bản thể, chúng ta cần:

• Hiểu rõ vai trò, sứ mệnh mình sinh ra trong cuộc đời, luôn chủ động trong việc thể hiện vai trò, sứ mệnh ấy mà không phụ thuộc vào bất cứ ai.

• Chủ động xây dựng kế hoạch, phát huy năng lực của bản thân để khẳng định vai trò, vị trí của mình.

• Yêu bản thân, hài lòng vui vẻ với những gì mình đang có, biết hài hoà giữa năng lực và khát vọng, không mải chạy theo những dục vọng cá nhân mà đánh mất chính mình.

• Sống có lập trường, biết cách nói “không” khi không cần thiết.

+ Dẫn chứng chứng minh.

* Kết đoạn: Bản thể không đồng nghĩa với vị kỉ, bản thể tạo ra cá tính riêng, duy nhất nhưng cái duy nhất ấy phải hoà vào cái chung, xã hội. Chúng ta cần hoà nhập nhưng không được hoà tan. Hãy luôn là một bản thể trên hành trình trở thành những phiên bản tốt hơn của chính mình.

0,5

d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau:

– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.

– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.

– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.

0,5

đ. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.

0,25

e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

0,25

Câu 7

Câu 2 (4,0 điểm)

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích, so sánh cách ứng xử của các nhân vật trong hai đoạn truyện sau đây để làm nổi bật giá trị nhân đạo của hai đoạn truyện.

Đoạn truyện (1)

[...] Thằng Xuân đến mó vào chiếc áo của Sơn, nó chưa thấy cái áo như thế bao giờ. Sơn lật vạt áo thâm, chìa áo vệ sinh và áo dạ cho cả bọn xem. Một đứa tặc lưỡi, nói:

– Cái áo này mặc thì nóng lắm. Chắc mua phải đến một đồng bạc chứ không ít, chúng mày nhỉ. 

[...] Sơn ưỡn ngực đáp:

– Ở Hà Nội, chứ ở đây làm gì có. Mẹ tôi còn hẹn mua cho tôi một cái áo len nhiều tiền hơn nữa kia.

Chị Lan bỗng giơ tay vẫy một con bé, từ nãy vẫn đứng dựa vào cột quán, gọi:

– Sao không lại đây, Hiên? Lại đây chơi với tôi.

Hiên là đứa con gái bên hàng xóm, bạn với Lan và Duyên. Sơn thấy chị gọi nó không lại, bước gần đến trông thấy con bé co ro đứng bên cột quán, chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay. Chị Lan cũng đến hỏi:

– Sao áo của mày rách thế Hiên, áo lành đâu không mặc?

Con bé bịu xịu nói:

– Hết áo rồi, chỉ còn cái này.

– Sao không bảo u mày may cho?

Sơn bây giờ mới chợt nhớ ra là mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có nghề đi mò cua bắt ốc thì còn lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa. Sơn thấy động lòng thương, cũng như ban sáng Sơn đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước vẫn chơi cùng với Hiên đùa nghịch ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt bỗng thoáng qua trong trí, Sơn lại gần chị thì thầm:

– Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ, chị ạ.

– Ừ, phải đấy. Để chị về lấy.

(Thạch Lam, trích “Gió lạnh đầu mùa”, NXB Hội Nhà văn 2015)

Đoạn truyện (2):

Con bé Em cười tủm tỉm khi nghĩ tới cái áo đầm màu hồng mà má nó mới mua cho:

– Tết này, mình mà mặc cái áo đó đi chơi, đẹp như tiên cho mà coi.

Nó nghĩ và nó muốn chia sẻ với con Bích, bạn nó.

[…] Con Bích đang ngồi nướng bắp thế cho má nó đi xách cặn cho heo. Bé Em muốn khoe liền nhưng bày đặt nói gièm:

– Còn mấy ngày nữa Tết rồi hen, mầy có đồ mới chưa?

– Có, má tao đưa vải cho cô Ba thợ cắt rồi, má tao nói gần Tết đồ nhiều, dồn đống, chắc tới hai mươi tám mới lấy được.

– Vậy mầy được mấy bộ?

– Có một bộ hà.

[...] – Còn mầy?

– Bốn bộ. Má tao mua cho đủ mặc từ mùng Một tới mùng Bốn, bữa nào cũng mặc đồ mới hết trơn. Trong đó có bộ đầm hồng nổi lắm, hết sẩy luôn.

[...] Rồi tới mùng Một, mùng Hai, bé Em lại rủ con Bích đi chơi. Hai đứa mặc đồ hơi giống nhau, chỉ khác là con Bích mặc áo trắng bâu sen, con bé Em thì mặc áo thun có in hình mèo bự. Cô giáo tụi nó khen:

– Coi hai đứa lớn hết trơn rồi, cao nhòng.

Hai đứa cười. Lúc đó con bé Em nghĩ thầm, mình mà mặc bộ đầm hồng, thế nào cũng mất vui. Bạn bè phải vậy chớ. Đứa mặc áo đẹp, đứa mặc áo xấu coi gì được, vậy sao coi là bạn thân. Nhưng Bích lại nghĩ khác, bé Em thương bạn như vậy, tốt như vậy, có mặc áo gì Bích vẫn quý bé Em. Thiệt đó.

(Nguyễn Ngọc Tư, trích “Áo tết”, nguồn: https://isach.info/)

Lời giải

a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài: Nghị luận văn học.   

0,25

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích, so sánh cách ứng xử của các nhân vật trong hai đoạn truyện trích “Gió lạnh đầu mùa” (Thạch Lam) và “Áo tết” (Nguyễn Ngọc Tư) để làm nổi bật giá trị nhân đạo của hai đoạn truyện.

0,5

c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận của bài viết:

– Xác định được các ý chính của bài viết.

– Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận.

* Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu tên tác phẩm, tác giả.

* Thân bài:

(1) Khái quát nội dung của hai đoạn trích: Đoạn trích truyện “Gió lạnh đầu mùa” kể lại sự việc Sơn và Lan – hai đứa trẻ nhà khá giả thấy Hiên mặc áo rét tả tơi trong thời tiết gió đầu mùa rét buốt nên đã có ý định về lấy áo bông cũ cho Hiên mặc. Đoạn trích truyện “Áo tết” của Nguyễn Ngọc Tư kể lại sự việc bé Em – nhà khá giả, được má mua cho cái áo đầm màu hồng rất đẹp để đi chơi tết, nhưng khi thấy Bích – bạn mình không có áo đẹp để mặc khi cùng đi chơi tết nên bé Em đã lựa chọn một chiếc áo thun hơi giống áo của Bích thay vì lựa chọn chiếc áo đầm màu hồng như ban đầu.

(2) Phân tích, so sánh sự giống và khác nhau trong cách ứng xử của các nhân vật trong hai đoạn trích truyện:

– Giống nhau:

+ Các nhân vật ở trong hai đoạn trích đều được xây dựng trong mối quan hệ đối lập, tương phản về hoàn cảnh.

• Trong đoạn trích truyện “Gió lạnh đầu mùa”, Sơn và Lan là hai đứa trẻ thuộc gia đình khá giả. Còn Hiên thuộc một gia đình rất nghèo, làm nghề mò cua bắt ốc, gió lạnh đầu mùa đến, Hiên mặc một chiếc áo rách tả tơi, hở cả tay và lưng.

• Trong đoạn trích “Áo tết”, nhân vật bé Em thuộc gia đình khá giả. Tết đến, bé Em được mẹ mua cho 4 bộ quần áo mới, mặc từ mùng Một đến mùng Bốn, trong đó có chiếc áo đầm màu hồng rất đẹp và nổi bật. Còn Bích thì nhà nghèo, làm việc phụ giúp mẹ kiếm tiền và tết đến chỉ được may một bộ quần áo.

→ Tuy hoàn cảnh khác biệt như vậy nhưng chúng đều chơi với nhau rất thân, giữa chúng dường như không có khoảng cách của giàu – nghèo, của vị thế xã hội. Điều này được thể hiện qua lời nói, hành động của các nhân vật dành cho nhau, qua cách xưng hô “mày – tao”, qua giọng điệu nói chuyện của các nhân vật.

+ Trong hai đoạn trích truyện, các nhân vật đều thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ với những người đồng cảnh ngộ với mình:

• Trong đoạn trích truyện “Gió lạnh đầu mùa”, khi nhìn thấy Hiên trong chiếc áo rách tả tơi, Sơn và Lan đã nảy sinh luôn ý định sẽ về lấy áo bông cũ cho Hiên mặc mà không hề có sự suy nghĩ, tính toán, đắn đo. Hành động của Sơn và Lan khiến cho không khí của gió lạnh đầu mùa được xoa dịu, khiến con người ta cảm thấy ấm lòng.

• Còn trong đoạn trích truyện “Áo tết”, nhân vật bé Em cũng thể hiện sự đồng cảm của mình với hoàn cảnh của bạn. Bé Em đã quyết định chọn mặc cái áo hơi giống bạn thay vì dự định chiếc áo đầm hồng ban đầu để xoá tan đi khoảng cách giữa mình và bạn, để bạn không tủi thân. Những hành động khiến chúng ta cảm thấy thật ấm lòng!

– Khác nhau:

+ Trong đoạn trích truyện “Gió lạnh đầu mùa”, qua chi tiết Sơn và Lan đem chiếc áo bông cũ cho Hiên mặc, ta thấy đây là sự chia sẻ về vật chất, thiết thực và cần thiết cho Hiên lúc này. Với manh áo rách tả tơi giữa gió lạnh đầu mùa ấy, dù chỉ là một chiếc áo bông đã cũ nhưng giá trị của chiếc áo có lẽ còn hơn tất cả những điều cao sang khác, giữa hoàn cảnh nghiệt ngã này.

+ Trong đoạn trích truyện “Áo tết”, qua chi tiết bé Em chọn mặc đồ hơi giống với Bích trong ngày Tết, ta thấy đây là sự chia sẻ vì tinh thần. Vì còn quá nhỏ, bé Em không thể giúp Bích bằng vật chất, bằng một bộ quần áo mới như sự giúp đỡ của Sơn và Lan đã dành cho Hiên nhưng trong tình huống này, hành động của bé Em còn tinh tế hơn cả những điều khác. Vì cùng đi chơi tết, cùng đến nhà cô giáo. Bé Em nghĩ “đứa mặc áo đẹp, đứa mặc áo xấu coi gì được, vậy sao coi là bạn thân.

→ Từ sự ứng xử của các nhân vật trong hai đoạn trích, chúng ta thấy được giá trị nhân đạo đều được thể hiện ở sự đồng cảm, thương xót với những người có hoàn cảnh khó khăn, kém may mắn hơn mình. Không thể hiện thái độ coi thường mà chia sẻ để xoả bỏ khoảng cách, xây dựng những tình bạn tốt đẹp trong cuộc đời.

(3) Nghệ thuật: Cả hai đoạn trích đều thể hiện cốt truyện đơn giản, nhẹ nhàng; nghệ thuật xây dựng nhân vật qua hành động, lời nói, ngôn ngữ chân thực, giản dị.

(4) Đánh giá: Dù cách chia sẻ của các nhân vật trong hai đoạn trích truyện khác nhau, nhưng đều mang đến cho chúng ta một thông điệp lớn về tình yêu thương, sự đồng cảm, chia sẻ giữa con người với con người trong xã hội.

* Kết bài: Khẳng định vấn đề và nêu thông điệp.

1,0

d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:

– Triển khai ít nhất được hai luận điểm để làm rõ quan điểm của cá nhân.

– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.

– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.

Lưu ý: HS có thể trình bày suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

1,5

đ. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.

0,25

e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

0,5

4.6

54 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%