Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Ngữ Văn Liên trường THPT - Sở GD& ĐT Nghệ An ( Lần 1) có đáp án

17 người thi tuần này 4.6 17 lượt thi 7 câu hỏi 60 phút

🔥 Đề thi HOT:

4963 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 1)

21.8 K lượt thi 7 câu hỏi
2190 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 16)

17.8 K lượt thi 7 câu hỏi
1925 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 4)

10.8 K lượt thi 7 câu hỏi
1635 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn có đáp án (Đề số 49)

8.2 K lượt thi 7 câu hỏi
1560 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 8)

12.7 K lượt thi 7 câu hỏi
1470 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 19)

7.2 K lượt thi 7 câu hỏi
1414 người thi tuần này

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT Ngữ văn (Đề số 14)

10.6 K lượt thi 7 câu hỏi

Nội dung liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Đoạn văn 1

I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

                Đọc đoạn trích:

[Giới thiệu: Lê Minh Khuê là một trong những nhà văn tiêu biểu của thời kì đổi mới. Truyện của bà thiên về cuộc sống đời thường, có khả năng bao quát và gợi ra nhiều suy ngẫm về nhân sinh, thế sự với nghệ thuật trần thuật đa dạng, sử dụng linh hoạt những điểm nhìn khác nhau…

        Truyện ngắn Ga xép kể về cuộc đời ông Lăng. Ông sống trong ngôi nhà có từ đời ông nội, chứng kiến sự mất tích bí ẩn của cha, sự chờ đợi mỏi mòn của mẹ, hành động hi sinh của em trai. 16 tuổi ông đi lính, rồi trở thành một nhà báo, cuối đời lại quay về sống trong ngôi nhà cũ với ám ảnh về linh hồn người cha và kí ức về mẹ. Ông Lăng có hai đứa con gái học giỏi, ngoan ngoãn, nhưng chúng khiến ông vô vọng vì đều lấy chồng ngoại quốc và theo chồng xa xứ. Mải chạy theo tình yêu, chúng đã không cảm nhận được nỗi cô đơn của cha khi phá cái nhà cũ, xây cho ông “một ngôi nhà sặc sỡ kiểu cách kì quặc” và “rải tiền lo cho ông”…]

        Ông đã đi quá nhiều. Có lẽ lỗi do ông đi nhiều. Ông đã dựa vào người em ruột, liệt sĩ thời chống Pháp để lý lịch của ông qua được cái cửa khẩu khó nhất, để hành nghề, để đi. Bao nhiêu bâng khuâng ở các phương trời xa lạ. Một lần ở hành lang khách sạn gần vùng Si-bê-ri, một thiếu nữ làm quen với ông. Khi chia tay, nàng ghi cho ông cái địa chỉ bằng tiếng Nga. Quê nàng ở thượng nguồn sông Amua, phần chảy qua nước Nga vĩ đại. Cho đến bây giờ ông vẫn cảm thấy chống chếnh khi nghĩ tới cái làng nào đấy ở bên sông Amua. Làm sao ông có thể đến được con sông ấy. Nó ở đâu, cái làng như hạt bụi trên vùng đất bao la? Sau chiến tranh, ông đi khắp nơi. Tận một hòn đảo xa tít ngoài Thái Bình Dương, ông cũng gặp người Việt. Trong một ngôi làng hẻo lánh gần rừng Amazôn, một người đàn ông đón xe của ông đi qua. Đôi mày lưỡi mác đặc trưng của đồng bằng Bắc bộ, đôi mắt nhỏ xếch như hai sợi chỉ trên gò má cao đỏ bầm… Một người Việt Nam chính hiệu ra đi từ những năm năm mươi. Giọt nước mắt của con người lưu lạc đó nhỏ vào bàn tay ông, khi ông nắm tay anh ta. Anh ta quên cả tiếng Việt rồi. Đằng sau anh ta là một người đàn bà da đỏ có hai gò má như tạc bằng đất sét. Ông thương những con người đơn lẻ phải thích nghi với xứ người. Nhưng một lần tới New York, vô tình ông rẽ ngoặt sang phía khác khi thấy mấy người Việt đi tới. Ông lúng túng không muốn đối thoại. Cái quả bom của chiến tranh nhiều phía đã nổ tung đất nước ông. Những con người tung tóe khắp hành tinh, mang theo những hận thù, để lại nhiều nghi kỵ.

        Bất hạnh thay một xứ sở trong đó người ta chẳng được ở yên một chỗ. Sinh con đẻ cái trong một mái nhà, già đi và chết trong mái nhà ấy, với những đồ vật “hai mươi năm vẫn chạy tốt”.

        Ông nói với mấy đứa con cái ý nghĩ về mái nhà, về vùng đất. Hai đứa đều cười. Thượng đế sinh ra con người trên mặt đất. Cũng cây cỏ ấy cũng mặt trời ấy. Ai muốn sống ở đâu thì sống. Tổ quốc là mặt trái đất này. Cha già rồi, cha nghĩ những điều cạn hẹp. Chúng con như cái áo phông cái quần bò. Ở đâu có người ở đó sống tốt. Lúc này cả trái đất đều mặc áo phông quần bò. Biên giới sẽ chẳng còn ý nghĩa gì đâu cha.

        Ông lặng thinh. Chúng nó có lí của chúng nó. Nhưng chúng nó đặt ông vào trào lưu áo phông quần bò của chúng, chúng thực tàn nhẫn. Chúng đang giết ông khi chúng phá cái nhà cũ của ông, chúng xách va-li ra đi khi cái chết đang vỗ cánh trên đầu ông.  

        Ông ngủ lơ mơ trong cái giường đệm với những chồng gối cao xa lạ trong ngôi nhà mới. Một cái bóng sượt qua mặt ông, có thực, không phải cảm giác. Và một tiếng rên đau đớn, ông nghe rõ.

        Ông ngồi bật dậy bất giác kêu lên: Cha ơi! Nhưng tất cả lại tĩnh lặng.

*

        Dạo hai đứa con mới đi theo tình yêu, ông ở lại ngôi nhà một tầng cũ đến nỗi khi mưa lâu, mái ngói bốc lên mùi rêu ẩm ướt. Ông đi chơi với mấy người bạn già, ông về cái nhà rêu mốc thấy an tâm, ngồi uống nước trà, đọc những cuốn sách đã cũ. Ông chờ đợi những đứa con trở về. Những con người đã chết, chủ nhân đích thực của ngôi nhà cũng thấy yên ổn khi ẩn nấp sau cửa bức bàn, sau cái tủ gỗ có từ đầu thế kỉ. Ông ở trong ngôi nhà, đêm đêm cảm thấy có nhiều đôi mắt âu yếm dõi theo. Ông sống với những linh hồn, và chờ đợi…

        Cái thời ông mặc chiếc quần sooc nhỏ xíu, cởi trần cùng thằng em trèo lên cây sấu trước cửa rung cành cho sấu chín rụng lộp bộp trên mái ngói, là thời người ta thấy có lí khi sinh ra đời. Cái thời thanh bình ấy chỉ là khoảnh khắc. Ông không hề thấy đời mình thanh bình. Lúc nào cũng có cái gì đó đập vào tai: tiếng còi hụ báo máy bay, tiếng bom xé màng tai, tiếng kêu gọi tản cư, kêu gọi lên đường, kêu gọi tẩy chay ai đó, tuyên dương ai đó, tiếng loa báo những chuyến tàu chạy ở nhà ga, tiếng mẹ ông giục: nhanh nhanh lên các con! Đời của một người Việt đầy ắp những âm thanh hối hả. Cuộc sống như chuyến tàu chợ, hành lí nhặt nhạnh tạm bợ, mặt mũi bơ phờ. Chuyến tàu đôi khi dừng ở ga xép cho người ta xuống xả hơi tí chút. Trong cái ga xép ấy là một thoáng bình yên như không có thực. Người ta làm một mái nhà, trồng một vụ rau, cưới vợ cho con, có một đứa cháu, có một chút kỉ niệm… Rồi lại bỏ tất cả, lên một con tàu chạy không có chỗ dừng cố định. Nhưng lạ thay, ông thường xuyên quên hẳn tiếng rin rít của bánh xe nghiến trên đường sắt số mệnh. Sự bình yên ít ỏi ở những ga xép sống mãnh liệt hơn sự hãi hùng.

                                            (Trích Ga xép, Lê Minh Khuê, Truyện ngắn đặc sắc Việt Nam từ 1986 đến nay,

                                                    Đoàn Ánh Dương tuyển chọn và giới thiệu, NXB Phụ nữ, 2013, tr.139-153)

4.6

3 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%