Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích đặc điểm của thể loại hài kịch được thể hiện trong đoạn trích sau đây:
(Tóm tắt: “Lão hà tiện” (1668) là vở hài kịch nổi tiếng của Mô-li-e (Molière nhà viết kịch vĩ đại người Pháp). Ác-pa-gông (Harpagon) là một tư sản giàu có nhờ cho vay nặng lãi nhưng tính tình vô cùng keo kiệt, bủn xỉn. Ông ta đã goá vợ, có hai con là Clê-ăng (Cleante) và E-li-do (Elise) nhưng không hề quan tâm đến con mà chỉ nghĩ đến tiền bạc. Ác-pa-gông mở tiệc thết đãi mọi người và mời Ma-ri-an (Marian), một cô gái trẻ (mà ông định cưới làm vợ) đến dự.)
Đoạn trích dưới đây kể về việc ông ta sai gia nhân chuẩn bị bữa tiệc ấy.
ÁC-PA-GÔNG: Nào, lại cả đây để tôi phân lệnh chốc nữa làm và cắt việc cho mỗi người. Lại gần đây, bà Clốt. Bắt đầu là bà nhé. (Bà Clốt cẩm cái chối). Được, bà sẵn khí giới cầm tay rồi. Tôi trao cho bà nhiệm vụ lau chùi mọi nơi, và nhất là cẩn thận đừng cọ các đồ gỗ mạnh quá, sợ mòn mất. Ngoài việc ấy, tôi uy cho bà, lúc bữa ăn tối, quản giám chai lọ; nếu để thất lạc cái nào và đánh vỡ cái gì, tôi sẽ bắt đền bà rồi trừ vào tiền công.
BÁC GIẮC (nói riêng): Hình phạt thiết thực gớm!
ÁC-PA-GÔNG (vẫn nói với bà Clốt): Thôi, đi. Đến anh Branh-đa-voan (Brinda voine) và anh, La Me-cluy-sơ (La Merluche), tôi cắt cho các anh chức vụ lau rửa cốc và rót rượu, nhưng chỉ khi nào mọi người khát, chứ không phải theo thói của những thằng đầy tớ dớ dẩn, như muốn khiêu khích người ta, nhắc nhở người ta phải uống khi người ta không nghĩ đến chuyện uống. Hãy chờ khi người ta hò đôi ba lần đã, và nhớ là phải mang thêm thật nhiều nước lã.
BÁC GIẮC (nói riêng): Vâng, rượu nguyên không pha, bốc lên đầu.
LA ME-CLUY-SƠ: Thế chúng tôi có phải cởi áo ngoài không, thưa ông?
ÁC-PA-GÔNG: Có, nhưng khi nào thấy khách đến đã, và giữ gìn kĩ chớ làm hỏng y phục.
BRANH-ĐA-VOAN: Thưa ông, ông đã biết rõ, vạt trước áo vét dài của tôi bị một vết dầu đèn to tướng.
LA ME-CLUY-SƠ: Còn tôi, thưa ông, quần của tôi thì thủng đít và, nói lỗi phép, người ta nhìn thấy...
ÁC-PA-GÔNG (nói với La Me-cluy-sơ): Im! Liệu khéo quay cái đó vào phía tường và lúc nào cũng quay đằng trước ra phía khách là được. (Ác-pa-gông đặt chiếc mũ trước áo của mình để chỉ cho Branh-đa-voan phải làm thế nào để che vết dầu). [...]
ÁC-PA-GÔNG: [...] Ô này, bác Giắc, lại gần đây. Tôi để bác lại người cuối cùng đấy.
BÁC GIẮC: Nhưng, thưa ông, ông muốn nói với anh đánh xe hay với anh đầu bếp, bởi vì tôi vừa là anh này vừa là anh kia.
ÁC-PA-GÔNG: Với cả hai.
BÁC GIẮC: Nhưng, trong hai người, ông nói với ai trước?
ÁC-PA-GÔNG: Với đầu bếp.
BÁC GIẮC: Vậy ông làm ơn chờ cho. (Bác bỏ mũ đánh xe và xuất hiện với bộ áo đầu bếp).
ÁC-PA-GÔNG: Nghi thức quỷ quái gì thế?
BÁC GIẮC: Ông cứ nói.
ÁC-PA-GÔNG: Bác Giắc, chả là tôi đã định thết cơm khách tối nay.
BÁC GIẶC (nói riêng): Một kì quan vĩ đại!
ÁC-PA-GÔNG: Bác cho biết, liệu có cho chúng ta ăn ngon được không?
BÁC GIẮC: Được, nếu ông cho nhiều tiền.
ÁC-PA-GÔNG: Quỷ thật! Lúc nào cũng tiền! Hình như chúng nó không có gì khác mà nói: “Tiền, tiền, tiền!”. À! Chúng nó chỉ có tiếng “Tiền” nơi cửa miệng. Lúc nào cũng nói tiền! Tiền, đó là gươm gối đầu giường của chúng nó! [...]
ÁC-PA-GÔNG: Thôi, im. Bác cần những gì nào?
BÁC GIẮC: Đấy, có ông quản gia, ông ấy làm cơm ngon cho ông mà mất ít tiền.
ÁC-PA-GÔNG: Chao chao! Tôi muốn bác trả lời tôi.
BÁC GIẶC: Các ông có bao nhiêu người ăn?
ÁC-PA-GÔNG: Chúng tôi tám hoặc mười người; nhưng chỉ tính tám người. Khi đủ cho tám người ăn thì cũng rất đủ cho mười người. [...]
BÁC GIẮC: Vậy thì phải bốn bát nấu rõ đầy và năm đĩa xào đầu vị. Món nấu: nước dùng tôm he, chim đa đa hầm bắp cải xanh, rau nấu thượng thang, vịt nấu củ cải. Đầu vị: thịt gà xé, bồ câu ra giàng nhồi thịt, ức bê non, dồi lợn và nấm xào.
ÁC-PA-GÔNG: Quái quỷ! Thế để thết cả một thành phố à?
BÁC GIẶC: Thịt quay đầy một xanh thật to, xếp cao thành hình kim tự tháp, nửa con bê thả béo bên sông, ba chim trĩ, ba gà mái tơ béo, mười hai chim câu nuôi chuồng, mười hai gà giò,...
ÁC-PA-GÔNG (lấy tay bịt miệng bác Giắc): À! Thằng phản chủ! Mày ăn hết của của tao.
(Molière, Lão hà tiện – Hài kịch của Molière (Đỗ Đức Hiểu dịch),
NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978, tr. 115 – 123)