(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn có đáp án (Đề số 48)

46 lượt thi 7 câu hỏi 60 phút

Text 1:

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)

Đọc văn bản sau:

VÀI SUY NGHĨ VỀ TƯ TƯỞNG MĨ HỌC HỒ CHÍ MINH

QUA SÁNG TÁC THƠ

(Trích)

(Nguyễn Đăng Mạnh)

          Thơ của Người đại bộ phận viết bằng chữ Hán, màu sắc cổ điển rất đậm nét. Nhưng cổ điển mà không phải cổ thi, nghĩa là thoạt xem giống cổ thi, đọc kĩ thấy không hẳn thế. Chỗ giống nhau là cảm hứng thiên nhiên phong phú, là sự hoà hợp giữa con người và tạo vật, là phong độ ung dung tự tại của nhân vật trữ tình. Nhưng chỗ khác nhau là ở tinh thần thép như Bác nói. Có nghĩa là không phải hình ảnh người quân tử khi xử thế, nhà hiền triết ẩn dật chốn lâm tuyền, mà là người chiến sĩ hành động cải tạo thế giới:

Non xa xa, nước xa xa,

Nào phải thênh thang mới gọi là.

Đây suối Lê-nin, kia núi Mác,

Hai tay xây dựng một sơn hà.

(Pác Bó hùng vĩ)

Một đặc điểm của cổ thi là cảm quan phi thời gian: nhà thơ thường một mình đối diện với vũ trụ bao la, thái độ ung dung như đứng hẳn ra ngoài thời cuộc nhiễu nhương, ra ngoài dòng chảy của thời gian. Thơ Bác không phải như thế. Đọc “Nhật kí trong từ”, thấy nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh, một mặt có cái tự do bên trong của con người hoàn toàn tự chủ vì biết mình đang đồng hành với lịch sử trên từng bước đi tất yếu của nó, đồng thời lại là một chiến sĩ cách mạng đầy nhiệt huyết bị giam cầm giữa không khí sôi sục khẩn trương của phong trào giải phóng dân tộc, có cái tâm trạng nóng lòng sốt ruột đến đau đớn. Hình ảnh Bác trong tập thơ tù không những không phải con người đứng ngoài thời gian, mà trái lại sống cao độ từng giờ, từng phút. Chưa bao giờ Bác Hồ phải tính đến thời gian, phải theo dõi từng phút quang âm qua đi một cách oan uổng bên ngoài song nhà lao một cách căng thẳng đến thế. Một tâm trạng bồn chồn, khắc khoải, thao thức, nhiều khi chuyển thành bực bội, đó là nét tiêu biểu nhất trên bức chân dung tự hoạ của tác giả “Nhật kí trong từ”.

Về mặt bút pháp, chỗ giống nhau giữa cổ thi và thơ Bác là tinh hàm súc cổ điển, là lối chấm phá vài nét đơn sơ mà rất đỗi tài hoa như muốn chuyển linh hồn của tạo vật. Nhưng chỗ khác của thơ Bác, chỉ nói riêng tập “Nhật kí trong tù, là sự xâm nhập mạnh mẽ của bút pháp phóng sự, bút kí, của lối văn thông tin tư liệu, đem đến cho những vần thơ tứ tuyệt tính tự sự, tính tả thực ít thấy trong cổ thi.

Tịnh thời đại trong thơ Hồ Chí Minh thể hiện nổi bật nhất ở tinh thần dân chủ sâu sắc của nó. Dân chủ trước hết ở thi đề, thi tử. Một cái răng rụng, một cái gậy chống, một hàng cháo bên đường cũng thành thơ. Thậm chí một cảnh bắt rận, một cảnh đun nấu một bữa cơm tù cũng thành thơ. Người ta nói thơ Bác có đủ cả “mắm muối tương cà”. Điều ấy cần được hiểu theo cả nghĩa đen trần trụi của nó. Dân chủ ở quan điểm đổi mới hệ thống ước lệ của thơ ca cổ điển. Thơ tỏ lòng, nói chi ngày xưa nếu không so sánh những bậc anh hùng, hào kiệt, những đấng hiền nhân quân tử với tùng cao, bách cả, cọp gió rồng mây, thì cũng ví von với những mai, lan, cúc, trúc,... Thơ Bác hoàn toàn không có những hình ảnh sang trọng đó. Người lại thích ví mình và vi người cách mạng với cái răng, cái gậy, với hạt gạo nhỏ bé hiền lành, với cái cột cây số bên đường, với con gà gáy sáng. Dân chủ còn ở giọng điệu, tình điệu của thơ. Tập thơ có nội dung giáo dục to lớn, nhưng không hề lên giọng dạy đời. Nhà thơ nếu cần nhắc nhở đến một bài học đạo lí nào thì chỉ là để “tự khuyên mình” (Tự miễn): “Vi không có cảnh đông tàn/ Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân”. Tập thơ có đầy chất thép, nhưng không thấy lên giọng thép, nghĩa là không hề dùng lối đại ngôn tráng ngữ, cao giọng lên gân.

(Trích Nhà văn Việt Nam hiện đạiChân dung và phong cách,

NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr.33-35)

Danh sách câu hỏi:

Câu 6:

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích sự kết hợp giữa hiện thực và trải nghiệm, cảm xúc của người viết trong đoạn trích sau:

 Thứ Tư, ngày 4 tháng 8 năm 1943

Do Kitty thân yêu,

Đến giờ bọn mình đã sống trong “Chái nhà bí mật” hơn một năm rồi, cậu đã biết vài điều về cuộc sống của bọn mình, nhưng có một số điều không thể nào tả nổi. Quả nhiều việc để kể cho cậu, mọi thứ đều khác hẳn so với những lúc bình thường và với cuộc sống của những người bình thường. Tuy nhiên để cậu có thể nhìn kĩ hơn vào cuộc sống của bọn mình, bây giờ mình muốn tả cho cậu nghe về một ngày bình thường của bọn mình. Hôm nay mình bắt đầu từ buổi tối và ban đêm.

Chín giờ tối. Còi báo hiệu giờ đi ngủ ở “Chái nhà bí mật” bắt đầu và thường thì đó thật sự là một công việc. Ghế được đẩy sang bên, giường được kéo xuống, chăn được dỡ ra, mọi thứ đều được đem ra khỏi chỗ của nó nằm suốt ngày. Mình ngủ trên chiếc đi văng nhỏ chỉ dài không hơn một mét rưỡi. Vì thế phải dùng ghế để nối dài thêm. Chăn, vải trải giường, gối,... tất cả được lấy từ giường của ông Dussel, nơi chúng ngự suốt ngày. Người ta nghe thấy tiếng cót két khủng khiếp trong phòng bên cạnh: chiếc giường gấp của Magrot được kéo ra. Một lần nữa đi văng, mền chăn, gối,... mọi việc được làm để khiến cho giát giường bằng gỗ dễ chịu hơn một chút. Trên đầu có tiếng ầm ầm như sấm, nhưng đó chỉ là cái giường của bác gái Vanda Daan. Nó được đẩy ra cửa sổ – cậu thấy đấy, để cho đức bà mặc áo choàng ngủ màu hồng có thể hít thở không khí trong lành bằng hai lỗ mũi xinh xắn của người!

Sau khi Peter xong việc, mình bước vào phòng rửa mặt. Mình rửa ráy một lượt thật cẩn thận, đôi khi (chỉ trong những tháng nóng), có một con rận mèo bơi lềnh bềnh trong nước. Sau đó mình đánh răng, uốn tóc, sửa móng tay, dùng miếng bông thẩm hydrogen peroxid để tẩy màu lớp ria mép đen – tất cả những cái đó chưa đầy nửa tiếng.

Chín rưỡi tối. Nhanh chóng mặc áo ngủ, một tay cầm xà phòng, bô, cặp tóc, quần, đồ uốn tóc, tay kia cầm bông mình vội vã ra khỏi phòng tắm. Nhưng thường thường mình bị gọi giật lại vì vài sợi tóc đang trang trí bồn tắm với những đường cong duyên dáng nhưng người khác thì không thể nào chấp nhận được.

Mười giờ. Tắt đèn. Chúc ngủ ngon! Trong ít nhất 15 phút có tiếng giường cọt kẹt và tiếng thở dài của những lò xo dãn ra, rồi tất cả yên ắng, ít ra là yên ắng nếu như các hàng xóm của bọn mình ở tầng trên không cãi cọ trên giường.

(Trích: Nhật kí Anna Frank[1], NXB Văn học, Hà Nội, 2022, tr.146-147)



[1] Nhật ki Anne Frank là một cuốn sách bao gồm các trích đoạn từ một cuốn nhật kí do cô bé Anne Frank — con một doanh nhân người Do Thái – viết trong khi đang lẩn trốn cùng gia đình ở thời kì Đức Quốc xã chiếm đóng Hà Lan. Gia đình cô bé đã bị bắt năm 1944 và đưa đến trại tập trung. Frank cuối cùng đã chết ở trại tập trung khi chưa đầy 16 tuổi. Sau chiến tranh, cuốn nhật kí đã được Miep Gies đưa lại cho cha của Anne là ông Otto Frank – người duy nhất trong gia đình Anne Frank còn sống sót. Cuốn sách trở thành tài liệu nổi tiếng liên quan đến cuộc diệt chủng Holocaust của Đức Quốc xã dẫn đến cái chết của hàng triệu người Do Thái, được dịch ra hơn 70 thứ tiếng, là một trong mười cuốn sách được đọc rộng rãi nhất trong lịch sử.

 


4.6

9 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%