Đề thi Đánh giá tư duy Đại học Bách khoa Hà Nội có đáp án (Đề 7)

65 người thi tuần này 4.6 204 lượt thi 101 câu hỏi 150 phút

Đề thi liên quan:

Danh sách câu hỏi:

Câu 17:

Tìm mệnh đề sai trong các mệnh đề sau:

Xem đáp án

Đoạn văn 1

BÀI ĐỌC 1

VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN TRÊN MÔI TRƯỜNG SỐ

[1] Quá trình phát hiện ra đối tượng xâm phạm bản quyền cho đến khi áp dụng thành công biện pháp trừng phạt luôn là một quãng đường dài. Chẳng hạn như trường hợp của Công ty Văn hóa sáng tạo T.V – F.N, trong giai đoạn 2011-2014, họ liên tục kiện cơ sở gia công sau in H.T vì đã in lậu nhiều đầu sách nổi tiếng của họ. Cơ quan chức năng đã khám xét và thu giữ gần 10.000 cuốn sách lậu tại cơ sở này, nhưng kết quả là T.V – F.N vẫn bị thua kiện. Nhiều người bất ngờ khi thấy bằng chứng rõ ràng mà phần thắng lại nghiêng về kẻ vi phạm. “Do cơ sở vi phạm cho rằng mình chỉ là cơ sở gia công nhận đơn hàng qua điện thoại, bây giờ không biết chủ đơn hàng là ai. Một khi cơ quan điều tra chưa xác định được ai là chủ thì chưa thể luận tội được. Thứ hai là lô hàng trên mới chỉ ở dạng gia công, chưa được đưa ra thị trường nên khó xác định được thiệt hại về mặt thương mại”, luật sư Lê Quang Vinh giải thích.

[2] Trên môi trường số, con đường trở nên gập ghềnh hơn rất nhiều, ngay từ những bước đầu tiên như lập vi bằng. Thông thường, nếu một người phát hiện ra có đối tượng đang thực hiện các hành vi xâm phạm quyền đối với tác phẩm của mình, bước đầu tiên họ cần làm là thu thập các tài liệu, chứng cứ cần thiết, sau đó nộp đơn yêu cầu xử lí lên các cơ quan có thẩm quyền (bao gồm tòa án, thanh tra, quản lí thị trường, hải quan, công an, ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử lí hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ). Các tài liệu này sẽ dùng để lập vi bằng, làm căn cứ để giải quyết tranh chấp, yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại... Tính linh hoạt của internet khiến việc thu thập chứng cứ trở thành một bài toán khó. “Quá trình lập vi bằng rất tốn kém thời gian và nguồn lực, đặc biệt là trên môi trường số, các bên vi phạm có thể nhanh chóng xóa dấu vết và lẩn trốn”, ông Hoàng Đình Chung. Giám đốc Trung tâm Bản quyền số nhận định.

[3] Chẳng hạn để khởi tố hình sự trang web phim lậu nổi tiếng PM.net vào năm 2021, Văn phòng Luật Phan Law phải thu thập chứng cứ từ năm 2014 dưới sự ủy quyền từ các bên sở hữu quyền phân phối phim. Đến năm năm sau, họ mới hoàn thiện và gửi toàn bộ tài liệu chứng cứ vi phạm của PM.net, đề nghị cơ quan điều tra vào cuộc. Đã hai năm trôi qua kể từ khi có quyết định khởi tố, nhưng PM.net vẫn tồn tại. “Chúng tôi sử dụng đủ kiểu ngăn chặn tấn công, thậm chí Cục Điều tra Liên bang Mỹ FBI, ICANN và nhiều tổ chức quốc tế khác cũng vào cuộc, nhưng PM.net vẫn “lẩn trốn” rất nhanh, dù khi họ đổi tên miền mới, gần như tất cả mọi người đều biết”, luật sư Phan Vũ Tuấn cho biết.

[4] Ngoài thay đổi tên miền thường xuyên, các đối tượng xâm phạm còn ứng dụng nhiều kĩ thuật “lẩn trốn” khác như đường dẫn gián tiếp (redirect), thay đổi máy chủ hoặc sử dụng máy chủ ảo có cơ chế thay đổi địa chỉ IP (Cloudflare), chặn IP truy cập đối với quốc gia Việt Nam để tránh sự theo dõi của các cơ quan chức năng. “Do vậy, nhiều đối tượng tại Việt Nam đã từng bị cơ quan chức năng xử lí vi phạm hành chính liên quan đến hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng và quyền sở hữu trí tuệ nói chung vẫn có xu hướng tái phạm trên các website, ứng dụng di động tại thị trường quốc tế nhưng chủ động chặn IP truy cập từ người dùng Việt Nam”, Thiếu tá Lê Hồng Giang cho biết.

[5] Một trong những yếu tố quan trọng nhất để hạn chế được xâm phạm trên môi trường số là truy dấu (tracking) được hành vi xâm phạm. Hiểu một cách đơn giản là “phải tìm ra hành vi xâm phạm bắt nguồn từ đâu thì tắt ở đó. Để làm được điều đó thì chúng ta phải cá nhân hóa bất cứ nội dung nào đưa lên internet, như chúng tôi đang dùng công nghệ finger printing chống việc đăng tải trái phép các trận bóng đá. Khi các bạn xem bóng đá sẽ thấy có dòng chữ nhỏ chạy trên màn hình, giúp chúng tôi truy vết nếu có người quay lén”, theo luật sư Phan Vũ Tuấn.

[6] Tuy nhiên, những công nghệ bảo vệ bản quyền như trên đang bị bỏ lại đằng sau trong cuộc đua với mánh lới xâm phạm. “Mỗi lần chúng ta chế ra một giải pháp gì đó chống xâm phạm thì ngay lập tức, họ sẽ chế ra một thứ ngược lại”, luật sư Phan Vũ Tuấn nói. “Để chống lại công nghệ finger printing, những người xâm phạm lại áp dụng công nghệ AI để nhận diện kí tự và che khuất dòng chữ đó. Hoặc khi chúng tôi áp dụng công nghệ so sánh các màn hình với nhau để phát hiện ra đối tượng xâm phạm, họ tìm cách cắt bớt màn hình lại, hoặc chèn hình vào để bớt giống, nhưng chúng tôi vẫn so được. Vậy nên họ tìm cách lật ngược hình từ trái qua phải, và chế ra một cái hộp có gương để xem qua đó cho xuôi lại”.

[7] Xâm phạm bản quyền là chuyện không mới nhưng chưa bao giờ mất đi tính thời sự ở Việt Nam. Môi trường kĩ thuật số ngày càng phát triển, mở ra nhiều thách thức trong vấn đề bảo vệ bản quyền, đòi hỏi các nhà phát triển công nghệ phải liên tục nghiên cứu các giải pháp bảo vệ bản quyền mới.

(Theo Thanh An, Báo Khoa học và Phát Triển, #1237, số 17/2023)

Câu 41:

PHẦN TƯ DUY ĐỌC HIỂU

Mục đích chính của bài viết là gì?

Xem đáp án

Câu 45:

Theo đoạn [2], nhận định nào sau đây là KHÔNG chính xác về việc thu thập chứng cứ xâm phạm bản quyền?

Xem đáp án

Câu 46:

Theo đoạn [3], Văn phòng Luật Phan Law đã tiến hành hoạt động nào sau đây để khởi tố trang web PM.net?

Chọn hai đáp án đúng:

Xem đáp án

Câu 47:

Theo thiếu tá Lê Hồng Giang, nhận định nào sau đây về hoạt động né tránh phát hiện và xử lí xâm phạm bản quyền là chính xác?

Xem đáp án

Đoạn văn 2

RƠI

[1] Nó lồm cồm ngồi dậy, len lén mở cửa sổ nhìn sang khu vườn phía sau. Bên đó vợ chồng chú Tâm đang cuốc đất. Chị Mi và thằng Bo tíu tít hái mè. Những luống mè già hạt lắm rồi. Nó ngây người nhìn, thật lâu, đến khi nắng lên cao, rọi vào gương mặt còn lem luốc của nó. Nó sực tỉnh, chợt nhớ mình chưa ăn gì, nó trèo xuống giường, giở lồng bàn. Một bát cơm với mấy con cá kho bố để phần.

Nó ăn, lặng lẽ...

[2] Nó ra vườn. Vẫn là những trò chơi quen thuộc. Con voi gỗ bố đẽo gọt cho riêng nó, nó ôm khư khư trong lòng. Nó thích một con búp bê hơn. Bố hứa sẽ mua cho nó nhưng hai năm rồi nó chẳng thấy đâu. Cũng lâu rồi nó không còn chờ đợi nữa. Nó đã có con voi này làm bạn rồi đấy thôi! Ngày ngày nó bày trò chơi. Nó làm mẹ, voi làm con. Nó bế voi. Nó dỗ dành. Nó đút voi ăn. Nó ru voi ngủ. Nó làm mọi thứ, thuần thục như một người lớn. […]

[3] Thật ra, nó cũng thèm được đến trường mẫu giáo như chị Mi, thằng Bo nhà chú Tâm lắm. Chiều nào chị Mi và thằng Bo cũng được ba mẹ đón về. Về đến nhà, chị Mi hát líu lo, còn thằng Bo đọc thơ cho cô chú Tâm nghe. Nó toàn canh chừng giờ chị Mi và thằng Bo từ trường trở về. Nó len lén mở cửa sổ nhìn sang để xem chị Mi múa, để nghe thằng Bo kể chuyện. Nó há hốc miệng ra nghe. Những bài hát xa lạ với nó quá. Nó thèm! […]

[4] Ai gặp nó một lần cũng khen nó xinh. Nó sợ những lời khen đó. Vì sau những lời khen người ta lại tỏ ra thương hại. Nào là “Tội nghiệp, mới chừng này tuổi đầu...”, “Con bé gầy quá, bệnh hen suyễn này khó chữa!”. Những lúc như vậy, nó lảng ra xa. Hình như nó không biết cười mà cũng không biết khóc, vì suốt ngày thui thủi trong nhà một mình thì khóc và cười với ai đây? Nó nhớ lại. Có chứ! Thỉnh thoảng nó cũng khóc mỗi khi nó ốm. Những lúc nó ốm, có một ông thầy thuốc già luôn đến tiêm thuốc cho nó, rất đau. Nó cũng biết cười, nhưng là cười với mẹ qua bức ảnh to bố đặt trên bàn thờ. Mỗi khi nó hát hay bắt chước những điệu múa học lén được của chị Mi, nó thấy rõ ràng trên bàn thờ mẹ nó nhoẻn miệng cười. […]

[5] Hoàng hôn buông xuống, sương trên núi bao phủ, mờ mờ xa, xung quanh đã lên đèn là lúc bố nó sắp về. Bao giờ ông cũng gọi từ cổng “Con ơi...” Chỉ chờ có vậy, nó chạy ra nhảy tót lên người bố, khúc khích cười. Bố vào nhà, nấu cơm rồi cùng ăn với nó. Bố nấu gì nó ăn cũng thấy ngon. Nó ăn lặng lẽ như một bà cụ già.

Đêm đêm bố thường bế nó ra vườn, ru nó ngủ. Bố hát hay lắm. Nó trôi theo lời bài hát, miên man “...Ôi tóc em dài đêm thần thoại, vùng tương lai, chợt xa xôi. Tuổi thơ ơi sao nặng dòng máu trong người...” rồi lại đến “Thôi thì em chẳng còn yêu tôi, leo lên cành bưởi khóc người rưng rưng. Thôi thì thôi, mộ người Tà Dương...” […]

[6] Công việc ở Đài truyền hình làm bố nó luôn bận rộn. Bố nó còn viết văn, làm thơ. Dạo này bố thường đi xa, những chuyến đi thực tế dài đằng đẵng làm nó nhớ bố quắt quay. Bố gửi nó sang nhà bà Năm trong xóm, bà cho nó ăn nhờ. Có đêm nó thức dậy, thấy mình đang nằm dưới nền xi măng lạnh ngắt. Bên cạnh là con chó Mực ư ử vẫy đuôi. Những lúc như thế, nó thèm có một người mẹ biết bao. Nó sợ, những chuyến đi thực tế của bố cứ dài ra, nhưng khi bố trở về nó không than thở một lời. Nó sợ bố buồn. […]

[7] Nó yêu những buổi sáng Chủ Nhật, bố luôn ở nhà với nó. Hôm ấy cũng là sáng Chủ Nhật, thức dậy chẳng thấy bố đâu, nó chạy tìm quanh. Ngoài vườn, bố nó đang ngồi với một người đàn bà lạ mặt. Nó ngây người đứng nhìn. Linh tính, người đàn bà quay lại, bắt gặp ánh nhìn của nó. Bà lại gần, nâng gương mặt nó lên ngắm thật lâu, rồi bà hôn lên má nó, cũng thật lâu. Nó tự nhủ, trong lòng rộn ràng, sung sướng: Mẹ mới của mình đây chăng? Người mà cô Út nói với mình hôm nọ đây chăng?

Từ ngày đó, người đàn bà thường xuyên đến với bố con nó. Có hôm bà ở lại. Những đêm bố bận làm việc, bà đưa nó đi lang thang về hướng núi rồi kể chuyện cổ tích. Chuyện “Hoàng tử Ếch”, “Cô bé quàng khăn đỏ”, chuyện “Chú mèo đi hia”. Đã bao giờ nó được nghe những câu chuyện đó đâu! Nó sung sướng, ngất ngây, một niềm hạnh phúc tạm bợ mà nó đâu hay...

[8] Người đàn bà về với bố con nó. Nó gọi bà là mẹ vì nó thèm có “Mẹ”.

Mẹ nó sinh em bé, gia đình vất vả hơn. Bố nó quyết định bán mảnh vườn rộng và ngôi nhà, dọn đi nơi khác. Đến một nơi xa lạ, nó ngơ ngác quá đỗi. Cái xóm lao động nghèo suốt ngày phát ra những âm thanh hỗn độn. Năm nay nó đã lên lớp ba nhưng trông như đứa mới vào lớp một vậy. Thân hình gầy nhẳng nhưng gương mặt nó trong trẻo, đáng yêu. Ngoài giờ học, nó quanh quẩn chơi với em. Em trai nó được bố mẹ cưng chiều lắm. Nó phải bế em suốt ngày trên tay, như con mèo tha dưa cải vậy. Nó cũng bắt đầu tập nấu cơm và làm việc nhà. Nó vụng về, tay chân còn lóng ngóng nên suốt ngày tai nó toàn nghe lời chì chiết của mẹ. Nó buồn, nhưng cố làm vui.

[9] Từ khi có mẹ, có em bố gần như chẳng còn nhìn đến nó. Còn nó, luôn nhìn bố bằng ánh mắt chờ đợi. Nó biết thân phận mình, nhưng trong lòng nó đắng cay vì bố đã quên nó rồi, dù nó đang sống cùng một nhà với ông. Ông quên rằng ông còn một đứa con gái bé bỏng, tội nghiệp.

Đêm ngủ nó thường mơ. Bao giờ trong giấc mơ cũng có hình bóng mẹ, người đã sinh ra nó. Có hôm mẹ về mặc chiếc áo dài tím mà có lần nó thấy bố cất thật sâu trong ngăn tủ. Tóc mẹ buông lơi trên vai, hờ hững nhìn nó. Nó chạy lại, càng đến gần, mẹ nó càng xa. Nó bật khóc nức nở. Có tiếng réo gọi tên nó, nó choàng tỉnh. Sáng rồi! Dậy quét nhà, tưới cây rồi cho heo ăn nữa. Bao nhiêu là việc đang đợi nó. Chỉ là giấc mơ thôi...!

[10] Lên cấp hai, nó phổng phao hơn một chút, nhưng gương mặt đầy ưu tư, lặng lẽ. Ai nhìn nó cũng ái ngại. Vào kỳ nghỉ hè, bố gửi nó sang nhà cô Út học may vá. Nó thích lắm, dù cũng quần quật giúp cô làm việc nhà suốt ngày, nhưng đêm đến nó được ra thăm mộ mẹ. Nhà cô Út cách nghĩa trang không xa. Lạ kì! Một đứa con gái rụt rè, nhút nhát như nó ra nghĩa trang vào ban đêm lại dạn dĩ hẳn lên. Cứ bốn, năm hôm nó lại ra đấy một lần. Nghĩa trang tối đen, sâu hun hút. Từng đàn đom đóm lập lòe trong bụi cỏ.

(Vũ Ngọc Giao, Rơi)

Câu 55:

Theo đoạn [1], “nó” thường lặp lại những trò chơi quen thuộc, vì sao?

Chọn các đáp án đúng:

Xem đáp án

Câu 58:

Đâu là nội dung không được suy ra từ câu chuyện?

Xem đáp án

Câu 59:

Theo văn bản, nhân vật “nó” hiện lên với những phẩm chất gì? 

Chọn các đáp án đúng:

Xem đáp án

Câu 60:

Đâu là giọng điệu nổi bật trong văn bản trên?

Xem đáp án

Đoạn văn 3

Đọc thông tin dưới đây và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 6:

Sử dụng năng lượng tái tạo đang là một xu hướng của các quốc gia đang hướng tới để có thể giải quyết các vấn đề về môi trường. Một trong số đó có thể kể đến là nguồn năng lượng mặt trời. Ở những nơi có nguồn ánh nắng dồi dào, máy nước nóng năng lượng mặt trời là thiết bị thường được sử dụng. Thiết bị này thường được đặt trên tầng thượng.

Ống hấp thụ nhiệt là bộ phận hết sức quan trọng của một máy nước nóng năng lượng mặt trời, gồm có hai lớp với khả năng chịu được va đập cao và ở giữa là lớp chân không. Tác dụng của bộ phận này là hấp thụ và truyền nhiệt để làm nóng nước. Một trong số các loại máy nước nóng phổ biến hiện nay là máy nước nóng năng lượng mặt trời sử dụng ống chân không. Chi tiết cấu tạo được thể hiện trong hình sau:

Đoạn văn 4

Nhu cầu sử dụng điện của các hộ gia đình hiện nay ngày càng tăng cao. Mọi hoạt động sinh hoạt hằng ngày phần lớn đều cần dùng đến điện. 

Tuy nhiên, vì tính chất của điện và để đảm bảo sự an toàn cho mọi người, máy phát điện không thể để gần các hộ gia đình. Do đó, để truyền tải điện năng đi xa để đáp ứng nhu cầu sử dụng của mọi nhà. Cũng như khi truyền tải điện năng đi xa, để giảm hao phí điện năng tốt hơn.

Đồng thời khi cần phải truyền tải điện năng đi xa sẽ bằng các đường dây truyền tải điện. Người ta không sử dụng dòng điện một chiều mà sẽ sử dụng dòng điện xoay chiều cho các máy biến thế. Nguyên nhân vì quy trình hoạt động của máy biến thế dựa trên hiện tượng cảm ứng điện từ. Điều này cho thấy muốn có hiện tượng cảm ứng điện từ thì từ thông qua cuộn dây phải biến thiên. Vì vậy, chỉ có dòng điện xoay chiều mới làm cho từ thông biến thiên.

Trong quá trình truyền tải điện năng đi xa bằng dây dẫn, có một phần điện năng bị hao phí. Nguyên nhân là vì xuất hiện hiện tượng tỏa nhiệt trên đường dây. Với mô hình truyền tải lí tưởng khi nâng điện áp tại nguồn lên k lần thì công suất hao phí giảm đi k2. Gọi R là điện trở đường dây, P là công suất truyền đi, U là điện áp nơi phát, cosφ là hệ số công suất của mạch thì công suất hao phí trên dây là:  

Hiệu suất truyền tải được xác định bằng:  

Cách để giảm hao phí trên đường dây tải điện là giảm điện trở R của đường dây hoặc tăng hiệu điện thế hai đầu dây dẫn. Dòng điện xoay chiều có khả năng truyền tải ở cự li xa với hao phí thấp hơn với cách tăng hiệu điện thế hai đầu đây dẫn. Cách tăng hiện điện thế ở hai đầu dây dẫn được coi là cách tối ưu và hiệu quả nhất, được áp dụng nhiều trong thực tế. Cách làm đó được thực hiện bằng máy biến áp.

Câu 70:

Cho các công dụng sau, đâu sẽ không phải công dụng của máy biến áp:

Xem đáp án

Đoạn văn 5

Dung dịch là hỗn hợp đồng nhất của dung môi và chất tan. Trong đó, dung môi là chất có khả năng hòa tan chất khác để tạo thành dung dịch và chất tan là chất bị hòa tan trong dung môi. Quá trình phân li các chất khi tan trong nước thành các ion được gọi là sự điện li. Chất điện li là chất khi tan trong nước phân li thành các ion. Chất không điện li là chất khi tan trong nước không phân li thành các ion. Nước đóng vai trò quan trọng trong sự điện li của một chất. Điều này được giải thích bởi nước là phân tử phân cực (liên kết O – H là liên kết cộng hoá trị phân cực, cặp electron dùng chung lệch về phía oxygen, nên ở oxygen có dư điện tích âm, còn ở hydrogen có dư điện tích dương). Nên khi hoà tan một chất điện li vào nước, xuất hiện tương tác của nước với các ion. Tương tác này sẽ bứt các ion khỏi tinh thể (hoặc phân tử) để tan vào nước. Vì thế khi một chất có liên kết ion hay liên kết cộng hóa trị phân cực hòa tan vào nước thì phân tử các chất này sẽ bị bao bọc và tương tác với phân tử nước, tách các chất này ra thành các ion, ion dương tách ra bởi nguyên tử oxygen (mang điện âm) còn ion âm được tách ra bởi nguyên tử hydrogen (mang điện dương) của nước. Bản chất của dòng điện là dòng chuyển dời có hướng của các hạt mang điện như electron (trong kim loại) hoặc ion (trong dung dịch, trong muối nóng chảy,...). Vì vậy, một số dung dịch chứa chất tan, dẫn điện được là do trong dung dịch của chúng có các tiểu phân mang điện tích chuyển động tự do được gọi là các ion. Ampe kế là một thiết bị được sử dụng để đo cường độ dòng điện (xem Hình 1).

Hình 1. Sơ đồ thí nghiệm về khả năng dẫn điện của một số dung dịch

Các thí nghiệm sau đây đã được thực hiện để kiểm tra giả thuyết: việc tăng lượng chất tan hoặc nhiệt độ sẽ làm tăng độ dẫn điện của dung dịch.

Thí nghiệm 1

Các dung dịch bao gồm 5,0 g mỗi chất tan hòa tan trong 100 mL nước tinh khiết ở Nước tinh khiết cũng đã được thử nghiệm. Kết quả được thể hiện trong Bảng 1.

Bảng 1

Dung dịch

Chỉ số trên ampe kế (mA)

Nước tinh khiết ()

0,0

Hydrochloric acid (HCl)

5,9

Saccharose ()

0,0

Potassium chloride (KCl)

2,9

Sodium fluoride (NaF)

5,0

Magnesium acetate ()

2,1

Thí nghiệm 2

Thí nghiệm 1 được lặp lại, trong đó lượng chất tan của mỗi dung dịch được tăng lên 10,0 g trong 100 mL nước tinh khiết ở Kết quả được thể hiện trong Bảng 2.

Bảng 2

Dung dịch

Chỉ số trên ampe kế (mA)

Nước tinh khiết ()

0,0

Hydrochloric acid (HCl)

11,4

Saccharose ()

0,0

Potassium chloride (KCl)

5,5

Sodium fluoride (NaF)

8,5

Magnesium acetate ()

3,4

Thí nghiệm 3

Thí nghiệm 2 được lặp lại ở Kết quả được thể hiện trong Bảng 3.

Bảng 3

Dung dịch

Chỉ số trên ampe kế (mA)

Nước tinh khiết ()

0,0

Hydrochloric acid (HCl)

1,7

Saccharose ()

0,0

Potassium chloride (KCl)

7,4

Sodium fluoride (NaF)

12,0

Magnesium acetate ()

4,7

Câu 80:

Theo kết quả của cả 3 thí nghiệm, dung dịch chứa chất tan  trong trường hợp nào sau đây có khả năng dẫn điện tốt nhất?

Xem đáp án

Đoạn văn 6

Salbutamol () là một hợp chất hữu cơ có hoạt tính sinh học cao. Trong dược phẩm salbutamol được sử dụng như một loại thuốc điều trị bệnh hen suyễn. Bên cạnh tác dụng chính dùng trong y học, salbutamol còn bị lạm dụng làm chất tạo nạc trong chăn nuôi hoặc sử dụng làm doping trong thi đấu thể thao. Trong thi đấu thể thao vận động viên sử dụng salbutamol với liều vượt quá 20 μg/kg trong vòng 24 h được coi là sử dụng không phải mục đích điều trị bệnh (Tổ chức phòng chống Doping thế giới, WADA). Salbutamol có công thức cấu tạo như sau:

Các nghiên cứu cho thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa cấu tạo phân tử và hoạt tính sinh học của một hợp chất hữu cơ. Sự ảnh hưởng qua lại giữa các nhóm chức và bộ khung carbon của hợp chất sẽ quyết định hoạt tính sinh học của hợp chất đó (Studies in organic chemistry Vol. 51, Elsevier, 1996).

Salbutamol có cấu tạo gồm một vòng benzene bị thế ở ba vị trí và có các loại nhóm chức với những tính chất hoá học đặc trưng như sau: 2 nhóm -OH liên kết trực tiếp với nguyên tử carbon no (nhóm chức -OH alcohol) và 1 nhóm -OH liên kết trực tiếp với nguyên tử carbon của vòng benzene (nhóm chức -OH phenol). Sự khác biệt của hai loại nhóm chức này đó là nhóm -OH phenol có lực acid mạnh hơn nhóm -OH alcohol, chúng đều có phản ứng với Na cho sản phẩm là sodium ancolate và sodium phenolate, nhưng phenol còn có khả năng phản ứng với dung dịch NaOH còn alcohol không có phản ứng này. Một tính chất khác biệt nữa đó là nhóm -OH alcohol có khả năng bị thay thế bởi nguyên tử bromine khi cho tác dụng với acid HBr mà nhóm -OH phenol không có tính chất này. Ngoài ra, cấu tạo của salbutamol còn có một nhóm amine bậc 2 (R-NH-R' trong đó R và R' là gốc hydrocarbon) mang tính chất hoá học của một base, có khả năng tạo muối  + R ′ Br− khi cho tác dụng với acid HBr.

Đoạn văn 7

Nuôi cấy mô In vitro là thuật ngữ dùng để chỉ quá trình nuôi cấy vô trùng trong ống nghiệm các bộ phận tách rời khác nhau của thực vật. Kĩ thuật nuôi cấy mô In vitro dùng cho cả hai mục đích nhân giống và cải thiện di truyền (ví dụ: giống cây trồng), sản xuất sinh khối các sản phẩm hóa sinh, bệnh học thực vật, duy trì và bảo quản các nguồn gen quý,…

Các hình thức nuôi cấy mô gồm có nuôi cấy mô thực vật và nuôi cấy mô bằng tế bào trần:

- Nuôi cây mô tế bào trần:

Tế bào trần thực chất là tế bào đơn được tách lớp vỏ cellulose, có sức sống và duy trì đầy đủ các chức năng sẵn có. Tế bào trần có thể tách trực tiếp từ các bộ phận của thực vật (lá, rễ) bằng cơ học. Trong điều kiện nuôi cấy thích hợp, tế bào trần có khả năng tái sinh thành tế bào, tiếp tục phân chia và tái sinh thành cây hoàn chỉnh. Hiện nay kĩ thuật nuôi cấy tế bào trần đang được nghiên cứu và hoàn thiện.

- Nuôi cấy mô thực vật:

Nuôi cấy mô tế bào thực vật là một lĩnh vực của công nghệ sinh học thực vật. Dựa trên tính toàn năng của tế bào và khả năng biệt hóa, phản biệt hóa của chúng mà người ta có thể tái sinh cây từ một tế bào hay một mẫu mô nào đó.

Câu 89:

 Đặc điểm nào sau đây không phải của tế bào trần?

Xem đáp án

Đoạn văn 8

Bệnh mù màu đỏ và xanh lục do gene lặn nằm trên nhiễm sắc thể X quy định. Nữ giới có kiểu gene dị hợp tử có thị lực bình thường. Trứng của người mẹ có khả năng chứa nhiễm sắc thể X bình thường (XA) hoặc nhiễm sắc thể X bị đột biến (Xa) gây bệnh mù màu đỏ và xanh lục. Tinh trùng của người bố có khả năng chứa nhiễm sắc thể XA hoặc Xa và Y.

Bảng 1 dưới đây liệt kê các kiểu gene có thể có đối với gene gây bệnh mù màu đỏ, xanh lục.

 

 

Bảng 1. Kiểu gene và kiểu hình bệnh mù màu đỏ - xanh lục

Kiểu gene người nữ

Kiểu hình

XAXA

Bình thường

XAXa

Bình thường

XaXa

Mù màu đỏ và xanh lục

Kiểu gene người nam

Kiểu hình

XAY

Bình thường

XaY

Mù màu đỏ và xanh lục

Một gia đình tham gia sự kiện tư vấn di truyền y học do nhóm học sinh đưa ra. Dưới đây là sơ đồ phả hệ của nhà đó:

Câu 94:

 Giả sử người con gái số 3 lấy chồng mắc bệnh mù màu đỏ - xanh lục. Phát biểu nào sau đây là đúng?

Xem đáp án

Đoạn văn 9

Staphylococcus aureus (S. Aureus) là một chủng vi khuẩn được tìm thấy trên da của người khỏe mạnh mà không gây ra bất kỳ ảnh hưởng nào. Tuy nhiên, chúng lại sinh trưởng mạnh mẽ và có khả năng gây bệnh và truyền bệnh thông qua thực phẩm, đặc biệt là ở thịt đã qua xử lí, hoặc được nấu chín. Cần phải xác định các điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các loài vi khuẩn gây bệnh này và áp dụng kiến thức đó trong các giai đoạn sơ chế và xử lí thực phẩm. Hai nhóm sinh viên tiến hành các thí nghiệm nhằm xác định điều kiện sinh trưởng lí tưởng cho S. Aureus. Trong mỗi nhóm, vi khuẩn được cấy vào các môi trường dinh dưỡng khác nhau và phát triển trong một khoảng thời gian.

Máy đo quang phổ được sử dụng để phân tích sự phát triển của vi khuẩn trong môi trường chất lỏng, biết rằng độ đục càng tăng thì lượng vi khuẩn phát triển càng mạnh và giá trị đo được càng lớn.

Nhóm 1

Các sinh viên thực hiện thí nghiệm nhằm xác định nhiệt độ có ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của S. Aureus trong môi trường giàu dinh dưỡng hay không. Họ cho chủng vi khuẩn phát triển trong môi trường giàu dinh dưỡng có độ pH là 6 ở các nhiệt độ sau: 3℃, 20℃, 37℃, 45℃ và 60℃. Các giá trị đo từ máy đo quang phổ được thể hiện ở bảng 1.

 

 

 

 

 

 

Bảng 1. Nuôi cấy chủng vi khuẩn ở các nhiệt độ và thời gian khác nhau

Nhóm 2

Các sinh viên thực hiện thí nghiệm nhằm xác định sự ảnh hưởng của pH đến sự phát triển của  S. aureus. Họ cho chủng vi khuẩn phát triển trong môi trường giàu dinh dưỡng ở nhiệt độ 37℃ và độ pH lần lượt là 3, 5, 6, 7 và 9. Các giá trị đo từ máy đo quang phổ được thể hiện ở bảng 2.

Bảng 2. Nuôi cấy chủng vi khuẩn ở độ pH và thời gian khác nhau

Câu 98:

Dung dịch nuôi cấy vi khuẩn càng đục chứng tỏ

Xem đáp án

Câu 100:

Ở giá trị pH nào sau đây thì quần thể vi khuẩn S. Aureus không có sự sinh trưởng?

Xem đáp án

Câu 101:

Phát biểu nào sau đây là đúng khi nghiên cứu kết quả thí nghiệm của nhóm 1?

Xem đáp án

4.6

41 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%