Đề thi thử đánh giá tư duy Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2024 có đáp án (Đề 14)

  • 24 lượt thi

  • 60 câu hỏi

  • 150 phút

Câu 1:

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 1 đến 10:

LANG THANG TRONG CÕI VÔ HÌNH

[0] Tây Nguyên vốn là vùng đất thần bí, hấp dẫn những người ưa khám phá, nơi đây níu chân Condominas suốt từ năm 1948 bởi vẻ hoang sơ đầy ma mị. Nhà nghiên cứu Jean Boulbet tới Bl’ao cũng với hành trang Dân tộc học đã phát hiện ra xứ sở thần linh trên địa bàn cư trú của người Mạ, Jacques Dournes đi qua miền mơ tưởng Jarai…

[1] Đêm đầu tiên lưu trú tại một ngôi nhà người K’ho được làm bằng gỗ, cất sát mặt đất, khác với những ngôi nhà “cao cẳng”, phía dưới có gầm trống chăn nuôi gia súc của người Bana Chăm (Chăm - H’roi) vùng núi Phú Yên. Tôi nhìn ngó xung quanh như kẻ trộm tìm kiếm căn cứ cho cuộc hành trình khám phá đầy hối thúc. Song, không gian cư trú của người K’ho đơn sơ, hoang vu đến mức trống trải. Nó không khỏi khiến người quan sát ngỡ ngàng, thậm chí thất vọng. Chủ nhà mời khách uống nước rồi ra đồng làm việc. Tôi tự loay hoay với cuốn sổ trên tay, không biết phải khảo tả đối tượng gì trước không gian hoang vắng?

[2] Đêm đầu tiên, Người đưa tin dặn tôi không được nằm quay chân ra cửa. Trong bụng nghĩ thầm, cha này đúng là nhiễu sự! Nằm quay chân hay đầu vào đâu có khác gì nhau! Sự thật không phải lúc nào cũng như vậy. Người Việt có tập tục không được nằm quay chân vào bàn thờ. Sự khác biệt ở đây là, đồng bào Tây Nguyên không cần đến sự ủy thác vào những đối tượng ngoại tại nhằm tìm kiếm khả năng hướng tâm. Tất cả khơi gợi ý niệm mông lung về sự tồn tại của thế giới vô hình thông qua hành vi ứng xử. Điều đó chứng tỏ, không phải lúc nào sự trỗi dậy của cái tôi bên trong hành trang văn hóa mang theo đến vùng đất lạ cũng có giá trị. Tôi lấy màn quấn chặt vào người nhằm chống lại cái lạnh tê tái vào ban đêm giữa núi rừng Tây Nguyên.

[3] Đi vào không gian tâm linh người Tây Nguyên, tất cả là một sự giản dị đến lạ lùng. Thần linh chẳng hề trú ngụ bên trong các di tượng, không có một hình tướng cụ thể nào để tạm trú hay tạm vắng sau nghi thức hành lễ, kể cả Yang, vị chúa tể có quyền uy bao trùm đời sống tinh thần cũng chỉ ẩn hiện trong cõi vô hình. Trên ngọn cây nêu treo nhúm lông gà bay phất phơ trước gió có khả năng hấp dẫn, thu hút cả đoàn người “rồng rắn” thực hành nghi lễ. Yang như một âm bản phản chiếu qua tâm thức con người. Yang koi, vị thần lúa chan chứa yêu thương cũng không hiện hữu, chỉ hiển thị qua lời cúng. Bởi vậy, Yang không thuần túy là một đơn vị thần, mà tập hợp nhiều thần linh, có lúc là Yang Bri (thần rừng), Yang Bnơm (thần núi), Yang hiu (thần nhà) hay Yang mat tơngai (thần mặt trời)… Tất cả các vị thần này đều có chung một đặc điểm: không hiện hữu.

[4] Đồng bào Tây Nguyên cho đến nay, sau khi đã du nhập Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo… nét văn hóa sơ khai, hồn nhiên vẫn tiếp tục ngự trị. Ẩn hiện qua lớp màn tập quán sinh hoạt cộng đồng, lễ hội là những dạng thức văn hóa tập thể, chan chứa nét hồn nhiên, cộng cảm để từ đó, các vị thần bước ra. Trong nghi lễ Thổi tai hay lễ Đặt tên con của người Stiêng, già làng được cha mẹ đứa trẻ mời tới tiến hành nghi thức. Trước tiên, già đọc lời cúng xin phép thần linh và tổ tiên chứng giám trước sự hiện diện của toàn thể người thân trong gia đình. Sau đó, già ngậm một ngụm rượu phun vào tai đứa bé. Bài học đầu tiên về kỹ năng lắng nghe qua màn nghi thức vô cùng giản dị. Rồi già tắm cho trẻ, lấy rượu đổ từ trên đầu xuống, những thành viên khác bắt đầu tấu chiêng, thổi M’buốt nhằm truyền đi thứ âm thanh linh diệu vào tai đứa bé. Trong tác phẩm “Rừng, đàn bà, điên loạn”, nhà Dân tộc học người Pháp Jacques Dournes nghiên cứu về tộc người Jarai mô tả nghi lễ này mang ý nghĩa khai tâm. Chủ lễ là một bà đỡ, dùng một cuộn chỉ bông đặt sát vào tai đứa trẻ, sau đó nhai nát gừng rồi thổi qua lỗ bảy lần, đi kèm với nghi thức là lời khấn thần linh. Nhiều tộc người vùng sơn cước chon von vốn được mệnh danh tư duy bằng tai.

[5] Trong nghi thức thách cưới của người Stiêng, đại diện hai bên nhà gái, nhà trai ngồi đối diện nhau cách một chiếc bàn đặt giữa sát nền đất, nhà gái (thường là người cha) trên tay cầm chiếc gậy giống như thước gỗ, miệng lẩm nhẩm bẻ ra thành từng khúc ngắn tượng trưng cho lễ vật mà nhà trai sẽ chuẩn bị. Trên bàn chẳng hề có vàng bạc đá quý, tiền hay ngân phiếu… Tất cả chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, căn cứ vào số lượng que, nhà trai sẽ mang đến cho nhà gái những lễ vật tương ứng với rượu, heo, trâu… Và giá trị thực của món quà nhận được còn tùy thuộc vào niềm tin trong tâm hồn mỗi người. Nhờ vậy, người ta đã chạm vào cõi vô hình, tạo tiền đề dựng nên miền huyễn tưởng, thế giới cho thần linh trú ngụ.

[6] Tôi mải miết leo tiếp lên đỉnh ngọn đồi cao, nơi người S’tiêng chừa lại khoảnh đất trồng lúa nương cúng thần. Chưa kịp lên tới nơi, trời đã tập kết mây đen làm một trận mưa xối xả. Mấy người đi theo vội vã chạy vào chiếc lán nhỏ dựng tạm bên lưng đồi trú mưa. Cảnh núi rừng hùng vĩ, mịt mùng chìm khuất trong mưa. Sông La Ngà mất hút sau màn mưa rơi dày đặc, phủ kín đất trời. Ngồi trong lán chờ cơn mưa tạnh, lòng nghĩ ngợi miên man và nhiệm vụ còn lại tôi dành cho trí tưởng tượng.

(Theo Lê Hải Đăng, trích Lang thang trong cõi vô hình đăng trên http://vanhoanghean.com.vn/ ngày 13/08/2020)

Theo bài viết, vì sao nhà dân tộc học người Pháp Condominas lại có nhiều công trình nghiên cứu và thành tựu liên quan tới Tây Nguyên?

Xem đáp án

Giải thích

Xác định thông tin cần tìm nằm trong đoạn [0]: “nơi đây níu chân Condominas suốt từ năm 1948 bởi vẻ hoang sơ đầy ma mị.”; cụm từ “hoang sơ và ma mị” có ý diễn giải đây là vùng đất chưa có nhiều người biết tới và Condominas đã dành nhiều thời gian để tìm hiểu về nơi này.

 Chọn A


Câu 2:

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 1 đến 10:

LANG THANG TRONG CÕI VÔ HÌNH

[0] Tây Nguyên vốn là vùng đất thần bí, hấp dẫn những người ưa khám phá, nơi đây níu chân Condominas suốt từ năm 1948 bởi vẻ hoang sơ đầy ma mị. Nhà nghiên cứu Jean Boulbet tới Bl’ao cũng với hành trang Dân tộc học đã phát hiện ra xứ sở thần linh trên địa bàn cư trú của người Mạ, Jacques Dournes đi qua miền mơ tưởng Jarai…

[1] Đêm đầu tiên lưu trú tại một ngôi nhà người K’ho được làm bằng gỗ, cất sát mặt đất, khác với những ngôi nhà “cao cẳng”, phía dưới có gầm trống chăn nuôi gia súc của người Bana Chăm (Chăm - H’roi) vùng núi Phú Yên. Tôi nhìn ngó xung quanh như kẻ trộm tìm kiếm căn cứ cho cuộc hành trình khám phá đầy hối thúc. Song, không gian cư trú của người K’ho đơn sơ, hoang vu đến mức trống trải. Nó không khỏi khiến người quan sát ngỡ ngàng, thậm chí thất vọng. Chủ nhà mời khách uống nước rồi ra đồng làm việc. Tôi tự loay hoay với cuốn sổ trên tay, không biết phải khảo tả đối tượng gì trước không gian hoang vắng?

[2] Đêm đầu tiên, Người đưa tin dặn tôi không được nằm quay chân ra cửa. Trong bụng nghĩ thầm, cha này đúng là nhiễu sự! Nằm quay chân hay đầu vào đâu có khác gì nhau! Sự thật không phải lúc nào cũng như vậy. Người Việt có tập tục không được nằm quay chân vào bàn thờ. Sự khác biệt ở đây là, đồng bào Tây Nguyên không cần đến sự ủy thác vào những đối tượng ngoại tại nhằm tìm kiếm khả năng hướng tâm. Tất cả khơi gợi ý niệm mông lung về sự tồn tại của thế giới vô hình thông qua hành vi ứng xử. Điều đó chứng tỏ, không phải lúc nào sự trỗi dậy của cái tôi bên trong hành trang văn hóa mang theo đến vùng đất lạ cũng có giá trị. Tôi lấy màn quấn chặt vào người nhằm chống lại cái lạnh tê tái vào ban đêm giữa núi rừng Tây Nguyên.

[3] Đi vào không gian tâm linh người Tây Nguyên, tất cả là một sự giản dị đến lạ lùng. Thần linh chẳng hề trú ngụ bên trong các di tượng, không có một hình tướng cụ thể nào để tạm trú hay tạm vắng sau nghi thức hành lễ, kể cả Yang, vị chúa tể có quyền uy bao trùm đời sống tinh thần cũng chỉ ẩn hiện trong cõi vô hình. Trên ngọn cây nêu treo nhúm lông gà bay phất phơ trước gió có khả năng hấp dẫn, thu hút cả đoàn người “rồng rắn” thực hành nghi lễ. Yang như một âm bản phản chiếu qua tâm thức con người. Yang koi, vị thần lúa chan chứa yêu thương cũng không hiện hữu, chỉ hiển thị qua lời cúng. Bởi vậy, Yang không thuần túy là một đơn vị thần, mà tập hợp nhiều thần linh, có lúc là Yang Bri (thần rừng), Yang Bnơm (thần núi), Yang hiu (thần nhà) hay Yang mat tơngai (thần mặt trời)… Tất cả các vị thần này đều có chung một đặc điểm: không hiện hữu.

[4] Đồng bào Tây Nguyên cho đến nay, sau khi đã du nhập Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo… nét văn hóa sơ khai, hồn nhiên vẫn tiếp tục ngự trị. Ẩn hiện qua lớp màn tập quán sinh hoạt cộng đồng, lễ hội là những dạng thức văn hóa tập thể, chan chứa nét hồn nhiên, cộng cảm để từ đó, các vị thần bước ra. Trong nghi lễ Thổi tai hay lễ Đặt tên con của người Stiêng, già làng được cha mẹ đứa trẻ mời tới tiến hành nghi thức. Trước tiên, già đọc lời cúng xin phép thần linh và tổ tiên chứng giám trước sự hiện diện của toàn thể người thân trong gia đình. Sau đó, già ngậm một ngụm rượu phun vào tai đứa bé. Bài học đầu tiên về kỹ năng lắng nghe qua màn nghi thức vô cùng giản dị. Rồi già tắm cho trẻ, lấy rượu đổ từ trên đầu xuống, những thành viên khác bắt đầu tấu chiêng, thổi M’buốt nhằm truyền đi thứ âm thanh linh diệu vào tai đứa bé. Trong tác phẩm “Rừng, đàn bà, điên loạn”, nhà Dân tộc học người Pháp Jacques Dournes nghiên cứu về tộc người Jarai mô tả nghi lễ này mang ý nghĩa khai tâm. Chủ lễ là một bà đỡ, dùng một cuộn chỉ bông đặt sát vào tai đứa trẻ, sau đó nhai nát gừng rồi thổi qua lỗ bảy lần, đi kèm với nghi thức là lời khấn thần linh. Nhiều tộc người vùng sơn cước chon von vốn được mệnh danh tư duy bằng tai.

[5] Trong nghi thức thách cưới của người Stiêng, đại diện hai bên nhà gái, nhà trai ngồi đối diện nhau cách một chiếc bàn đặt giữa sát nền đất, nhà gái (thường là người cha) trên tay cầm chiếc gậy giống như thước gỗ, miệng lẩm nhẩm bẻ ra thành từng khúc ngắn tượng trưng cho lễ vật mà nhà trai sẽ chuẩn bị. Trên bàn chẳng hề có vàng bạc đá quý, tiền hay ngân phiếu… Tất cả chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, căn cứ vào số lượng que, nhà trai sẽ mang đến cho nhà gái những lễ vật tương ứng với rượu, heo, trâu… Và giá trị thực của món quà nhận được còn tùy thuộc vào niềm tin trong tâm hồn mỗi người. Nhờ vậy, người ta đã chạm vào cõi vô hình, tạo tiền đề dựng nên miền huyễn tưởng, thế giới cho thần linh trú ngụ.

[6] Tôi mải miết leo tiếp lên đỉnh ngọn đồi cao, nơi người S’tiêng chừa lại khoảnh đất trồng lúa nương cúng thần. Chưa kịp lên tới nơi, trời đã tập kết mây đen làm một trận mưa xối xả. Mấy người đi theo vội vã chạy vào chiếc lán nhỏ dựng tạm bên lưng đồi trú mưa. Cảnh núi rừng hùng vĩ, mịt mùng chìm khuất trong mưa. Sông La Ngà mất hút sau màn mưa rơi dày đặc, phủ kín đất trời. Ngồi trong lán chờ cơn mưa tạnh, lòng nghĩ ngợi miên man và nhiệm vụ còn lại tôi dành cho trí tưởng tượng.

(Theo Lê Hải Đăng, trích Lang thang trong cõi vô hình đăng trên http://vanhoanghean.com.vn/ ngày 13/08/2020)

Đâu là đặc điểm nổi bật để nhận ra nơi ở của những người K’ho? 

Xem đáp án

Giải thích

Đọc và xác định thông tin trong đoạn [1] của văn bản, cần phân biệt đặc điểm của ngôi nhà và không gian sống mà tác giả cảm nhận được khi tới nơi đây: “được làm bằng gỗ, cất sát mặt đất, khác với những ngôi nhà “cao cẳng”, phía dưới có gầm trống chăn nuôi gia súc của người Bana Chăm (Chăm - H’roi) vùng núi Phú Yên”

 Chọn B


Câu 3:

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 1 đến 10:

LANG THANG TRONG CÕI VÔ HÌNH

[0] Tây Nguyên vốn là vùng đất thần bí, hấp dẫn những người ưa khám phá, nơi đây níu chân Condominas suốt từ năm 1948 bởi vẻ hoang sơ đầy ma mị. Nhà nghiên cứu Jean Boulbet tới Bl’ao cũng với hành trang Dân tộc học đã phát hiện ra xứ sở thần linh trên địa bàn cư trú của người Mạ, Jacques Dournes đi qua miền mơ tưởng Jarai…

[1] Đêm đầu tiên lưu trú tại một ngôi nhà người K’ho được làm bằng gỗ, cất sát mặt đất, khác với những ngôi nhà “cao cẳng”, phía dưới có gầm trống chăn nuôi gia súc của người Bana Chăm (Chăm - H’roi) vùng núi Phú Yên. Tôi nhìn ngó xung quanh như kẻ trộm tìm kiếm căn cứ cho cuộc hành trình khám phá đầy hối thúc. Song, không gian cư trú của người K’ho đơn sơ, hoang vu đến mức trống trải. Nó không khỏi khiến người quan sát ngỡ ngàng, thậm chí thất vọng. Chủ nhà mời khách uống nước rồi ra đồng làm việc. Tôi tự loay hoay với cuốn sổ trên tay, không biết phải khảo tả đối tượng gì trước không gian hoang vắng?

[2] Đêm đầu tiên, Người đưa tin dặn tôi không được nằm quay chân ra cửa. Trong bụng nghĩ thầm, cha này đúng là nhiễu sự! Nằm quay chân hay đầu vào đâu có khác gì nhau! Sự thật không phải lúc nào cũng như vậy. Người Việt có tập tục không được nằm quay chân vào bàn thờ. Sự khác biệt ở đây là, đồng bào Tây Nguyên không cần đến sự ủy thác vào những đối tượng ngoại tại nhằm tìm kiếm khả năng hướng tâm. Tất cả khơi gợi ý niệm mông lung về sự tồn tại của thế giới vô hình thông qua hành vi ứng xử. Điều đó chứng tỏ, không phải lúc nào sự trỗi dậy của cái tôi bên trong hành trang văn hóa mang theo đến vùng đất lạ cũng có giá trị. Tôi lấy màn quấn chặt vào người nhằm chống lại cái lạnh tê tái vào ban đêm giữa núi rừng Tây Nguyên.

[3] Đi vào không gian tâm linh người Tây Nguyên, tất cả là một sự giản dị đến lạ lùng. Thần linh chẳng hề trú ngụ bên trong các di tượng, không có một hình tướng cụ thể nào để tạm trú hay tạm vắng sau nghi thức hành lễ, kể cả Yang, vị chúa tể có quyền uy bao trùm đời sống tinh thần cũng chỉ ẩn hiện trong cõi vô hình. Trên ngọn cây nêu treo nhúm lông gà bay phất phơ trước gió có khả năng hấp dẫn, thu hút cả đoàn người “rồng rắn” thực hành nghi lễ. Yang như một âm bản phản chiếu qua tâm thức con người. Yang koi, vị thần lúa chan chứa yêu thương cũng không hiện hữu, chỉ hiển thị qua lời cúng. Bởi vậy, Yang không thuần túy là một đơn vị thần, mà tập hợp nhiều thần linh, có lúc là Yang Bri (thần rừng), Yang Bnơm (thần núi), Yang hiu (thần nhà) hay Yang mat tơngai (thần mặt trời)… Tất cả các vị thần này đều có chung một đặc điểm: không hiện hữu.

[4] Đồng bào Tây Nguyên cho đến nay, sau khi đã du nhập Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo… nét văn hóa sơ khai, hồn nhiên vẫn tiếp tục ngự trị. Ẩn hiện qua lớp màn tập quán sinh hoạt cộng đồng, lễ hội là những dạng thức văn hóa tập thể, chan chứa nét hồn nhiên, cộng cảm để từ đó, các vị thần bước ra. Trong nghi lễ Thổi tai hay lễ Đặt tên con của người Stiêng, già làng được cha mẹ đứa trẻ mời tới tiến hành nghi thức. Trước tiên, già đọc lời cúng xin phép thần linh và tổ tiên chứng giám trước sự hiện diện của toàn thể người thân trong gia đình. Sau đó, già ngậm một ngụm rượu phun vào tai đứa bé. Bài học đầu tiên về kỹ năng lắng nghe qua màn nghi thức vô cùng giản dị. Rồi già tắm cho trẻ, lấy rượu đổ từ trên đầu xuống, những thành viên khác bắt đầu tấu chiêng, thổi M’buốt nhằm truyền đi thứ âm thanh linh diệu vào tai đứa bé. Trong tác phẩm “Rừng, đàn bà, điên loạn”, nhà Dân tộc học người Pháp Jacques Dournes nghiên cứu về tộc người Jarai mô tả nghi lễ này mang ý nghĩa khai tâm. Chủ lễ là một bà đỡ, dùng một cuộn chỉ bông đặt sát vào tai đứa trẻ, sau đó nhai nát gừng rồi thổi qua lỗ bảy lần, đi kèm với nghi thức là lời khấn thần linh. Nhiều tộc người vùng sơn cước chon von vốn được mệnh danh tư duy bằng tai.

[5] Trong nghi thức thách cưới của người Stiêng, đại diện hai bên nhà gái, nhà trai ngồi đối diện nhau cách một chiếc bàn đặt giữa sát nền đất, nhà gái (thường là người cha) trên tay cầm chiếc gậy giống như thước gỗ, miệng lẩm nhẩm bẻ ra thành từng khúc ngắn tượng trưng cho lễ vật mà nhà trai sẽ chuẩn bị. Trên bàn chẳng hề có vàng bạc đá quý, tiền hay ngân phiếu… Tất cả chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, căn cứ vào số lượng que, nhà trai sẽ mang đến cho nhà gái những lễ vật tương ứng với rượu, heo, trâu… Và giá trị thực của món quà nhận được còn tùy thuộc vào niềm tin trong tâm hồn mỗi người. Nhờ vậy, người ta đã chạm vào cõi vô hình, tạo tiền đề dựng nên miền huyễn tưởng, thế giới cho thần linh trú ngụ.

[6] Tôi mải miết leo tiếp lên đỉnh ngọn đồi cao, nơi người S’tiêng chừa lại khoảnh đất trồng lúa nương cúng thần. Chưa kịp lên tới nơi, trời đã tập kết mây đen làm một trận mưa xối xả. Mấy người đi theo vội vã chạy vào chiếc lán nhỏ dựng tạm bên lưng đồi trú mưa. Cảnh núi rừng hùng vĩ, mịt mùng chìm khuất trong mưa. Sông La Ngà mất hút sau màn mưa rơi dày đặc, phủ kín đất trời. Ngồi trong lán chờ cơn mưa tạnh, lòng nghĩ ngợi miên man và nhiệm vụ còn lại tôi dành cho trí tưởng tượng.

(Theo Lê Hải Đăng, trích Lang thang trong cõi vô hình đăng trên http://vanhoanghean.com.vn/ ngày 13/08/2020)

Trong bài viết, tác giả đã nhắc tới tập tục gì của người Kinh? 

Xem đáp án

Giải thích

Đọc và xác định thông tin trong đoạn [2] của bài viết, cần chú ý phân biệt tục của người K’Ho và người Việt (người Kinh): “Đêm đầu tiên, Người đưa tin dặn tôi không được nằm quay chân ra cửa. Trong bụng nghĩ thầm, cha này đúng là nhiễu sự! Nằm quay chân hay đầu vào đâu có khác gì nhau! Sự thật không phải lúc nào cũng như vậy. Người Việt có tập tục không được nằm quay chân vào bàn thờ.”

 Chọn A


Câu 4:

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 1 đến 10:

LANG THANG TRONG CÕI VÔ HÌNH

[0] Tây Nguyên vốn là vùng đất thần bí, hấp dẫn những người ưa khám phá, nơi đây níu chân Condominas suốt từ năm 1948 bởi vẻ hoang sơ đầy ma mị. Nhà nghiên cứu Jean Boulbet tới Bl’ao cũng với hành trang Dân tộc học đã phát hiện ra xứ sở thần linh trên địa bàn cư trú của người Mạ, Jacques Dournes đi qua miền mơ tưởng Jarai…

[1] Đêm đầu tiên lưu trú tại một ngôi nhà người K’ho được làm bằng gỗ, cất sát mặt đất, khác với những ngôi nhà “cao cẳng”, phía dưới có gầm trống chăn nuôi gia súc của người Bana Chăm (Chăm - H’roi) vùng núi Phú Yên. Tôi nhìn ngó xung quanh như kẻ trộm tìm kiếm căn cứ cho cuộc hành trình khám phá đầy hối thúc. Song, không gian cư trú của người K’ho đơn sơ, hoang vu đến mức trống trải. Nó không khỏi khiến người quan sát ngỡ ngàng, thậm chí thất vọng. Chủ nhà mời khách uống nước rồi ra đồng làm việc. Tôi tự loay hoay với cuốn sổ trên tay, không biết phải khảo tả đối tượng gì trước không gian hoang vắng?

[2] Đêm đầu tiên, Người đưa tin dặn tôi không được nằm quay chân ra cửa. Trong bụng nghĩ thầm, cha này đúng là nhiễu sự! Nằm quay chân hay đầu vào đâu có khác gì nhau! Sự thật không phải lúc nào cũng như vậy. Người Việt có tập tục không được nằm quay chân vào bàn thờ. Sự khác biệt ở đây là, đồng bào Tây Nguyên không cần đến sự ủy thác vào những đối tượng ngoại tại nhằm tìm kiếm khả năng hướng tâm. Tất cả khơi gợi ý niệm mông lung về sự tồn tại của thế giới vô hình thông qua hành vi ứng xử. Điều đó chứng tỏ, không phải lúc nào sự trỗi dậy của cái tôi bên trong hành trang văn hóa mang theo đến vùng đất lạ cũng có giá trị. Tôi lấy màn quấn chặt vào người nhằm chống lại cái lạnh tê tái vào ban đêm giữa núi rừng Tây Nguyên.

[3] Đi vào không gian tâm linh người Tây Nguyên, tất cả là một sự giản dị đến lạ lùng. Thần linh chẳng hề trú ngụ bên trong các di tượng, không có một hình tướng cụ thể nào để tạm trú hay tạm vắng sau nghi thức hành lễ, kể cả Yang, vị chúa tể có quyền uy bao trùm đời sống tinh thần cũng chỉ ẩn hiện trong cõi vô hình. Trên ngọn cây nêu treo nhúm lông gà bay phất phơ trước gió có khả năng hấp dẫn, thu hút cả đoàn người “rồng rắn” thực hành nghi lễ. Yang như một âm bản phản chiếu qua tâm thức con người. Yang koi, vị thần lúa chan chứa yêu thương cũng không hiện hữu, chỉ hiển thị qua lời cúng. Bởi vậy, Yang không thuần túy là một đơn vị thần, mà tập hợp nhiều thần linh, có lúc là Yang Bri (thần rừng), Yang Bnơm (thần núi), Yang hiu (thần nhà) hay Yang mat tơngai (thần mặt trời)… Tất cả các vị thần này đều có chung một đặc điểm: không hiện hữu.

[4] Đồng bào Tây Nguyên cho đến nay, sau khi đã du nhập Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo… nét văn hóa sơ khai, hồn nhiên vẫn tiếp tục ngự trị. Ẩn hiện qua lớp màn tập quán sinh hoạt cộng đồng, lễ hội là những dạng thức văn hóa tập thể, chan chứa nét hồn nhiên, cộng cảm để từ đó, các vị thần bước ra. Trong nghi lễ Thổi tai hay lễ Đặt tên con của người Stiêng, già làng được cha mẹ đứa trẻ mời tới tiến hành nghi thức. Trước tiên, già đọc lời cúng xin phép thần linh và tổ tiên chứng giám trước sự hiện diện của toàn thể người thân trong gia đình. Sau đó, già ngậm một ngụm rượu phun vào tai đứa bé. Bài học đầu tiên về kỹ năng lắng nghe qua màn nghi thức vô cùng giản dị. Rồi già tắm cho trẻ, lấy rượu đổ từ trên đầu xuống, những thành viên khác bắt đầu tấu chiêng, thổi M’buốt nhằm truyền đi thứ âm thanh linh diệu vào tai đứa bé. Trong tác phẩm “Rừng, đàn bà, điên loạn”, nhà Dân tộc học người Pháp Jacques Dournes nghiên cứu về tộc người Jarai mô tả nghi lễ này mang ý nghĩa khai tâm. Chủ lễ là một bà đỡ, dùng một cuộn chỉ bông đặt sát vào tai đứa trẻ, sau đó nhai nát gừng rồi thổi qua lỗ bảy lần, đi kèm với nghi thức là lời khấn thần linh. Nhiều tộc người vùng sơn cước chon von vốn được mệnh danh tư duy bằng tai.

[5] Trong nghi thức thách cưới của người Stiêng, đại diện hai bên nhà gái, nhà trai ngồi đối diện nhau cách một chiếc bàn đặt giữa sát nền đất, nhà gái (thường là người cha) trên tay cầm chiếc gậy giống như thước gỗ, miệng lẩm nhẩm bẻ ra thành từng khúc ngắn tượng trưng cho lễ vật mà nhà trai sẽ chuẩn bị. Trên bàn chẳng hề có vàng bạc đá quý, tiền hay ngân phiếu… Tất cả chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, căn cứ vào số lượng que, nhà trai sẽ mang đến cho nhà gái những lễ vật tương ứng với rượu, heo, trâu… Và giá trị thực của món quà nhận được còn tùy thuộc vào niềm tin trong tâm hồn mỗi người. Nhờ vậy, người ta đã chạm vào cõi vô hình, tạo tiền đề dựng nên miền huyễn tưởng, thế giới cho thần linh trú ngụ.

[6] Tôi mải miết leo tiếp lên đỉnh ngọn đồi cao, nơi người S’tiêng chừa lại khoảnh đất trồng lúa nương cúng thần. Chưa kịp lên tới nơi, trời đã tập kết mây đen làm một trận mưa xối xả. Mấy người đi theo vội vã chạy vào chiếc lán nhỏ dựng tạm bên lưng đồi trú mưa. Cảnh núi rừng hùng vĩ, mịt mùng chìm khuất trong mưa. Sông La Ngà mất hút sau màn mưa rơi dày đặc, phủ kín đất trời. Ngồi trong lán chờ cơn mưa tạnh, lòng nghĩ ngợi miên man và nhiệm vụ còn lại tôi dành cho trí tưởng tượng.

(Theo Lê Hải Đăng, trích Lang thang trong cõi vô hình đăng trên http://vanhoanghean.com.vn/ ngày 13/08/2020)

Thần linh ở Tây Nguyên được mô tả như thế nào trong bài viết?

Xem đáp án

Giải thích

Đọc và xác định thông tin trong đoạn [3] của bài viết: “Thần linh chẳng hề trú ngụ bên trong các di tượng, không có một hình tướng cụ thể nào để tạm trú hay tạm vắng sau nghi thức hành lễ, kể cả Yang, vị chúa tể có quyền uy bao trùm đời sống tinh thần cũng chỉ ẩn hiện trong cõi vô hình”; từ đó có thể thấy, với con người Tây Nguyên, các vị thần tồn tại trong ý niệm và tưởng tượng, không có một hình dáng cụ thể.

 Chọn B


Câu 5:

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ 1 đến 10:

LANG THANG TRONG CÕI VÔ HÌNH

[0] Tây Nguyên vốn là vùng đất thần bí, hấp dẫn những người ưa khám phá, nơi đây níu chân Condominas suốt từ năm 1948 bởi vẻ hoang sơ đầy ma mị. Nhà nghiên cứu Jean Boulbet tới Bl’ao cũng với hành trang Dân tộc học đã phát hiện ra xứ sở thần linh trên địa bàn cư trú của người Mạ, Jacques Dournes đi qua miền mơ tưởng Jarai…

[1] Đêm đầu tiên lưu trú tại một ngôi nhà người K’ho được làm bằng gỗ, cất sát mặt đất, khác với những ngôi nhà “cao cẳng”, phía dưới có gầm trống chăn nuôi gia súc của người Bana Chăm (Chăm - H’roi) vùng núi Phú Yên. Tôi nhìn ngó xung quanh như kẻ trộm tìm kiếm căn cứ cho cuộc hành trình khám phá đầy hối thúc. Song, không gian cư trú của người K’ho đơn sơ, hoang vu đến mức trống trải. Nó không khỏi khiến người quan sát ngỡ ngàng, thậm chí thất vọng. Chủ nhà mời khách uống nước rồi ra đồng làm việc. Tôi tự loay hoay với cuốn sổ trên tay, không biết phải khảo tả đối tượng gì trước không gian hoang vắng?

[2] Đêm đầu tiên, Người đưa tin dặn tôi không được nằm quay chân ra cửa. Trong bụng nghĩ thầm, cha này đúng là nhiễu sự! Nằm quay chân hay đầu vào đâu có khác gì nhau! Sự thật không phải lúc nào cũng như vậy. Người Việt có tập tục không được nằm quay chân vào bàn thờ. Sự khác biệt ở đây là, đồng bào Tây Nguyên không cần đến sự ủy thác vào những đối tượng ngoại tại nhằm tìm kiếm khả năng hướng tâm. Tất cả khơi gợi ý niệm mông lung về sự tồn tại của thế giới vô hình thông qua hành vi ứng xử. Điều đó chứng tỏ, không phải lúc nào sự trỗi dậy của cái tôi bên trong hành trang văn hóa mang theo đến vùng đất lạ cũng có giá trị. Tôi lấy màn quấn chặt vào người nhằm chống lại cái lạnh tê tái vào ban đêm giữa núi rừng Tây Nguyên.

[3] Đi vào không gian tâm linh người Tây Nguyên, tất cả là một sự giản dị đến lạ lùng. Thần linh chẳng hề trú ngụ bên trong các di tượng, không có một hình tướng cụ thể nào để tạm trú hay tạm vắng sau nghi thức hành lễ, kể cả Yang, vị chúa tể có quyền uy bao trùm đời sống tinh thần cũng chỉ ẩn hiện trong cõi vô hình. Trên ngọn cây nêu treo nhúm lông gà bay phất phơ trước gió có khả năng hấp dẫn, thu hút cả đoàn người “rồng rắn” thực hành nghi lễ. Yang như một âm bản phản chiếu qua tâm thức con người. Yang koi, vị thần lúa chan chứa yêu thương cũng không hiện hữu, chỉ hiển thị qua lời cúng. Bởi vậy, Yang không thuần túy là một đơn vị thần, mà tập hợp nhiều thần linh, có lúc là Yang Bri (thần rừng), Yang Bnơm (thần núi), Yang hiu (thần nhà) hay Yang mat tơngai (thần mặt trời)… Tất cả các vị thần này đều có chung một đặc điểm: không hiện hữu.

[4] Đồng bào Tây Nguyên cho đến nay, sau khi đã du nhập Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo… nét văn hóa sơ khai, hồn nhiên vẫn tiếp tục ngự trị. Ẩn hiện qua lớp màn tập quán sinh hoạt cộng đồng, lễ hội là những dạng thức văn hóa tập thể, chan chứa nét hồn nhiên, cộng cảm để từ đó, các vị thần bước ra. Trong nghi lễ Thổi tai hay lễ Đặt tên con của người Stiêng, già làng được cha mẹ đứa trẻ mời tới tiến hành nghi thức. Trước tiên, già đọc lời cúng xin phép thần linh và tổ tiên chứng giám trước sự hiện diện của toàn thể người thân trong gia đình. Sau đó, già ngậm một ngụm rượu phun vào tai đứa bé. Bài học đầu tiên về kỹ năng lắng nghe qua màn nghi thức vô cùng giản dị. Rồi già tắm cho trẻ, lấy rượu đổ từ trên đầu xuống, những thành viên khác bắt đầu tấu chiêng, thổi M’buốt nhằm truyền đi thứ âm thanh linh diệu vào tai đứa bé. Trong tác phẩm “Rừng, đàn bà, điên loạn”, nhà Dân tộc học người Pháp Jacques Dournes nghiên cứu về tộc người Jarai mô tả nghi lễ này mang ý nghĩa khai tâm. Chủ lễ là một bà đỡ, dùng một cuộn chỉ bông đặt sát vào tai đứa trẻ, sau đó nhai nát gừng rồi thổi qua lỗ bảy lần, đi kèm với nghi thức là lời khấn thần linh. Nhiều tộc người vùng sơn cước chon von vốn được mệnh danh tư duy bằng tai.

[5] Trong nghi thức thách cưới của người Stiêng, đại diện hai bên nhà gái, nhà trai ngồi đối diện nhau cách một chiếc bàn đặt giữa sát nền đất, nhà gái (thường là người cha) trên tay cầm chiếc gậy giống như thước gỗ, miệng lẩm nhẩm bẻ ra thành từng khúc ngắn tượng trưng cho lễ vật mà nhà trai sẽ chuẩn bị. Trên bàn chẳng hề có vàng bạc đá quý, tiền hay ngân phiếu… Tất cả chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, căn cứ vào số lượng que, nhà trai sẽ mang đến cho nhà gái những lễ vật tương ứng với rượu, heo, trâu… Và giá trị thực của món quà nhận được còn tùy thuộc vào niềm tin trong tâm hồn mỗi người. Nhờ vậy, người ta đã chạm vào cõi vô hình, tạo tiền đề dựng nên miền huyễn tưởng, thế giới cho thần linh trú ngụ.

[6] Tôi mải miết leo tiếp lên đỉnh ngọn đồi cao, nơi người S’tiêng chừa lại khoảnh đất trồng lúa nương cúng thần. Chưa kịp lên tới nơi, trời đã tập kết mây đen làm một trận mưa xối xả. Mấy người đi theo vội vã chạy vào chiếc lán nhỏ dựng tạm bên lưng đồi trú mưa. Cảnh núi rừng hùng vĩ, mịt mùng chìm khuất trong mưa. Sông La Ngà mất hút sau màn mưa rơi dày đặc, phủ kín đất trời. Ngồi trong lán chờ cơn mưa tạnh, lòng nghĩ ngợi miên man và nhiệm vụ còn lại tôi dành cho trí tưởng tượng.

(Theo Lê Hải Đăng, trích Lang thang trong cõi vô hình đăng trên http://vanhoanghean.com.vn/ ngày 13/08/2020)

Ở Tây Nguyên, mỗi vị thần đều bắt nguồn và tồn tại, biến đổi trong tâm thức con người vừa bằng niềm tin vào sức mạnh vừa bằng nỗi sợ vô hình là đúng hay sai?

Xem đáp án

Đáp án

A. Đúng.

Giải thích

Đọc và xác định thông tin trong đoạn [3] của bài viết: “Yang không thuần túy là một đơn vị thần, mà tập hợp nhiều thần linh, có lúc là Yang Bri (thần rừng), Yang Bnơm (thần núi), Yang hiu (thần nhà) hay Yang mat tơngai (thần mặt trời)… Tất cả các vị thần này đều có chung một đặc điểm: không hiện hữu”; từ đó có thể thấy, các vị thần đều gắn với những ước mơ và nỗi sợ của con người và sự kì bí của thiên nhiên.


Các bài thi hot trong chương:

0

Đánh giá trung bình

0%

0%

0%

0%

0%

Bình luận


Bình luận