Đề thi Đánh giá năng lực ĐHQG Hà Nội năm 2024 - 2025 có đáp án (Đề 26)

264 lượt thi 150 câu hỏi 150 phút

Danh sách câu hỏi:

Câu 2:

Phương trình \({4^{2x + 3}} = {8^{4 - x}}\) có nghiệm là 

Xem đáp án

Câu 4:

Gọi \({z_1}\) là nghiệm phức có phần ảo âm của phương trình \({z^2} + 2z + 3 = 0\). Trên mặt phẳng tọa độ, điểm nào sau đây là điểm biểu diễn của số phức \({z_1}\)? 

Xem đáp án

Câu 6:

Trong không gian \[Oxyz,\] hình chiếu vuông góc của điểm \[A\left( {1\,;{\mkern 1mu} {\mkern 1mu} \,2\,;{\mkern 1mu} {\mkern 1mu} \,{\mkern 1mu} 3} \right)\] trên mặt phẳng \(\left( {Oyz} \right)\) có tọa độ là 

Xem đáp án

Câu 7:

Tập nghiệm của bất phương trình \(\frac{{x + 1}}{{3 - 2x}} \le 0\) là 

Xem đáp án

Câu 10:

Hàm số \[F\left( x \right)\] nào sau đây là một nguyên hàm của hàm số \[f\left( x \right) = \frac{{x + 3}}{{{x^2} + 4x + 3}}\]? 

Xem đáp án

Câu 14:

Tập nghiệm của bất phương trình \({\log _3}\sqrt x \ge {\log _3}x + 1\) là 

Xem đáp án

Câu 17:

Số phức \[z\] thỏa mãn \(2z - 3\left( {1 + i} \right) = iz + 7 - 3i\) là

Xem đáp án

Câu 27:

Trong không gian tọa độ \(Oxyz\), đường thẳng đi qua điểm \(M\left( { - 1\,;\,\,1\,;\,\,0} \right)\) và vuông góc với mặt phẳng \(\left( \alpha \right):{\mkern 1mu} {\mkern 1mu} 5x - 10y - 15z - 16 = 0\) có phương trình tham số là 

Xem đáp án

Câu 32:

Cho \(F\left( x \right) = {x^\pi }\) là một nguyên hàm của hàm số \(f\left( x \right) \cdot {\pi ^x}\). Họ nguyên hàm của hàm số \(f'\left( x \right) \cdot {\pi ^x}\) là 

Xem đáp án

Câu 75:

Chọn một từ mà nghĩa của nó KHÔNG cùng nhóm với các từ còn lại.

Xem đáp án

Câu 77:

Chọn một từ mà nghĩa của nó KHÔNG cùng nhóm với các từ còn lại. 

Xem đáp án

Câu 78:

Tác phẩm nào KHÔNG cùng thể loại với những tác phẩm còn lại? 

Xem đáp án

Câu 83:

Chọn từ/ cụm từ thích hợp nhất để điền vào chỗ trống trong câu dưới đây:

Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam là một bài thơ trữ tình đầy ______.

Xem đáp án

Câu 85:

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi:

(1) Ánh sáng cho phép nhà thiên văn học nghiên cứu chuyển động của các thiên thể. Vì trên trời chẳng có gì là đứng yên. Lực hấp dẫn làm cho tất cả các cấu trúc của vũ trụ - như sao, thiên hà, đám thiên hà... - hút lẫn nhau và “rơi” vào nhau. Chuyển động rơi này hòa vào chuyển động giãn nở chung của vũ trụ. Thực tế, Trái đất cũng tham gia vào một vũ điệu vũ trụ tuyệt vời. Nó mang chúng ta qua không gian với vận tốc khoảng ba chục kilômét mỗi giây trong chuyến chu du hàng năm quanh Mặt trời. Đến lượt mình, Mặt trời lại kéo theo Trái đất, và cùng với Trái đất là chúng ta, trong chuyến chu du của nó quanh trung tâm của Ngân hà, với vận tốc hai trăm ba mươi kilômét mỗi giây. Thế vẫn chưa hết: Ngân hà lại rơi với vận tốc chín mươi kilômét mỗi giây về phía thiên hà đồng hành với nó là Andromède. Đến lượt mình, cụm thiên hà địa phương chứa thiên hà của chúng ta và Andromède cũng lại rơi với vận tốc khoảng sáu trăm kilômét mỗi giây về đám Vierge, và đám này lại rơi vào một tập hợp lớn các thiên hà gọi là “Nhân hút Lớn”. Bầu trời tĩnh và bất động của Aristote đã chết hẳn! Trong vũ trụ, tất cả đều vô thường, đều thay đổi và chuyển hóa liên tục. Chúng ta không nhìn thấy sự náo động mãnh liệt này bởi vì các thiên thể ở quá xa, và cuộc sống của chúng ta quá ngắn ngủi. Một lần nữa, lại chính ánh sáng đã tiết lộ cho chúng ta sự vô thường này của vũ trụ. Ánh sáng thay đổi màu sắc khi nguồn sáng chuyển động so với người quan sát. Ánh sáng dịch chuyển về phía đỏ (các vạch hấp thụ dọc dịch chuyển về phía năng lượng nhỏ hơn) nếu vật tiến ra xa, và về phía xanh lam (các vạch hấp thụ dọc dịch chuyển về phía năng lượng cao hơn) nếu vật tiến lại gần. Bằng cách đo sự dịch chuyển về phía đỏ hay phía xanh này, nhà thiên văn học sẽ tái hiện được các chuyển động vũ trụ.

(2) Như vậy ánh sáng kết nối chúng ta với vũ trụ. Nhưng ánh sáng không chỉ thiết yếu đối với nhà thiên văn học. Tất cả chúng ta đều là con đẻ của ánh sáng. Ánh sáng đến từ Mặt trời là nguồn gốc của sự sống. Dù là tự nhiên hay nhân tạo, ánh sáng cho phép chúng ta không chỉ ngắm nhìn thế giới, mà còn tương tác với thế giới và tiến hóa trong thế giới. Nó không chỉ ban cho chúng ta nhìn thấy, mà còn ban cho chúng ta tư duy nữa. Từ những thời rất xa xưa cho tới ngày nay, ánh sáng luôn mê hoặc trí tuệ con người, dù đó là nhà khoa học, triết gia, nghệ sĩ hay tu sĩ.

(Trích Những con đường của ánh sáng, tập 2, Trịnh Xuân Thuận, NXB Trẻ, 2016, tr. 12-13)

Nội dung chính của đoạn trích trên là gì?

Xem đáp án

Câu 88:

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

Chia

                                           chia cho em một đời tôi

                                           một cay đắng

                                           một niềm vui

                                           một buồn

                                           tôi còn cái xác không hồn

                                           cái chai không rượu tôi còn vỏ chai

 

                                           chia cho em một đời say

                                           một cây si

                                           với

                                           một cây bồ đề

 

                                           tôi còn đâu nữa đam mê

                                           trời chang chang nắng tôi về héo khô

 

                                           chia cho em một đời Thơ

                                           một lênh đênh

                                           một dại khờ

                                           một tôi

 

                                           chỉ còn cỏ mọc bên trời

                                           một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm...

(Nguyễn Trọng Tạo)

Nhan đề của bài thơ thể hiện ý nghĩa nào sau đây?

Xem đáp án

Câu 89:

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi:

TẬP QUÁN ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI NÙNG

(1) Người Nùng trước kia không ở tập trung thành xóm làng đông đúc như bây giờ. Những bản làng thưa thớt rất xa nhau giữa các đồi núi, rừng cây, mỗi bản chỉ mươi nóc nhà và cũng cách xa nhau. Trong thiên nhiên bao la và nhiều bí ẩn về thần linh, ma quái, cọp beo, sói, gấu... rình rập, họ thấy cần liên kết nhau lại, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, chống lại tật bệnh, thú rừng, chống đói nghèo... Vì thế có người khách bản xa, bản gần, trong xóm tới thăm, họ quý mến, tiếp đãi chu đáo, tận tình như với người thân trong gia đình.

(2) Bữa ăn mời khách do bà vợ và các con trong nhà nấu nướng kín đáo không để khách biết, còn người chủ gia đình mang trà ngon, mời khách lên ghế trên, cao hơn mình. Rượu tự nấu và ủ sẵn, gà vịt dưới gầm sàn, rau có trong vườn, bữa ăn thịnh soạn với những gì dành dụm tốt nhất của nhà đều mang mời khách. Gia chủ sợ nhất khách chối từ không ăn hoặc có công việc gấp phải bỏ về. Nếu khách ngủ lại đêm, sẽ được mời ngủ ở gian giữa để bày tỏ sự quý trọng của chủ nhà vì gian giữa thường là nơi đặt bàn thờ tổ tiên.

(3) Trong giao tiếp, giữa đàn ông và đàn bà, trai và gái, người Nùng còn giữ quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân”, con trai con gái không được phép đụng chạm đến cơ thể nhau, nếu không phải là vợ chồng, không được nhìn thẳng vào mắt nhau, nắm tay nhau. Trai và gái, đàn ông và đàn bà không được trò chuyện riêng với nhau ở nơi vắng người hoặc đứng nói chuyện với nhau lâu ở chỗ đông người, không nói chuyện trong bóng tối. Trai gái muốn tìm hiểu nhau trong dịp sli lượn hoặc đến nhà nhau chỉ khi được phép của cha mẹ, như vậy mới được coi là có gia giáo, tôn trọng tập tục. Do cuộc sống thay đổi, việc tiếp xúc nam nữ cũng thay đổi theo, người Nùng đã có thể bắt tay chào hỏi nhau dù nam hay nữ, điều này bị coi là cấm kị trước kia. Một người bệnh là phụ nữ dù già nua, người thầy thuốc tới khám bệnh hoặc thầy cúng tới bắt tà phải cầm tay người ốm, nhất thiết phải có người đi cùng, ít nhất là một người thứ ba chứng kiến. Trong đời sống hằng ngày, đàn ông không bao giờ giặt váy áo cho đàn bà, con gái nhưng phụ nữ có thể giặt quần áo cho nam giới, trừ con dâu, em dâu không giặt cho bố chồng, anh chồng. Tuy nhiên, những khi hoạn nạn họ đã vượt qua tập quán này, nhất là ở phụ nữ.

(4) Đối với người cùng xóm bản, người Nùng có câu ngạn ngữ “Pi noọng xỏ cườn tỏ tổng pỉ noọng táp bá” (Anh em xóm giềng như anh em ruột thịt), nó cũng thắm thiết như ở người Kinh “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Ở người Nùng còn có tục ăn chia. Khi cùng săn được một con thú, họ làm thịt và chia cho cả bản. Nhà nào có của ngon vật lạ đều nghĩ tới xóm bản, đem chia đều. Những phiên chợ xa, cả bản rủ nhau và giúp nhau mang vác những thứ nặng đem bán hoặc mua về...

(Nguyễn Trọng Báu biên soạn, Truyện kể về phong tục, truyền thống văn hoá

các dân tộc Việt Nam, NXB Giáo dục, 2007, tr. 88 - 90)

Mục đích chính của đoạn trích trên là gì?

Xem đáp án

Câu 90:

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi:

(1) Tôi thường hình dung sự khiêm tốn giống như một cậu bé đang cố thu mình khác xa với một cậu bé khác đang khoa chân múa tay kể lể về những chiến công của mình. Cậu bé khiêm tốn luôn nói: “Không, cháu chưa làm được gì cho ra hồn cả”, trong khi cậu bé khoác lác ưỡn ngực tự hào: “Tất cả những thành tích ấy đều nhờ đến cháu!”. Thông thường, những cậu bé biết giấu mình sẽ tiến xa hơn những cậu bé “ruột để ngoài da”, bởi vì người thích khoe khoang giống như một ván bài lật ngửa, chẳng còn bí mật nào để giữ lại nữa.

(2) Sức mạnh ngầm là những gì mà sự khiêm tốn thường mang lại cho người sở hữu nó. Những người khiêm tốn thường nhận được cảm tình của đám đông. Đám đông thường không chấp nhận sự khoác lác hay khoe khoang, dù không phải người khoe khoang nào cũng sai. Kể cả khi bạn nói: bạn không cần sự ủng hộ của đám đông, thì sự khiêm tốn cũng giúp bạn nỗ lực nhiều hơn trong cuộc sống. Bạn luôn tự biết mình đã làm được gì và chưa làm được gì. Bạn sẽ còn tiến xa, vì những gì bạn hiểu về bản thân là vô cùng quan trọng.

(3) Tuy nhiên, xin đừng nhầm lẫn khái niệm khiêm tốn với thói quen tự hạ thấp mình để lấy lòng người khác. Có những người luôn nói với cấp trên rằng mình là kẻ bất tài, hèn kém, trong khi họ nghĩ tới điều ngược lại. Sự hạ thấp mình này thường khiến người đối diện cảm thấy thương hại, không đề phòng. Để cho người khác phải cảm thấy thương hại không phải là ý nghĩa của sự khiêm tốn. Khiêm tốn khác với sự dối lòng. Nếu bạn biết rằng mình xứng đáng đứng ở vị trí số một mà lại cứ phải nói ra điều ngược lại thì đó không phải là bản lĩnh của kẻ mạnh. Không có gì khổ tâm và hèn kém hơn việc phải tự hạ thấp bản thân để làm vừa lòng những người thích sự xu nịnh, luồn cúi. Hãy hiểu sự khiêm tốn giống như cách nói bình tĩnh từ một suy nghĩ bình tĩnh và chín chắn. Bạn không nhận thành tích về mình, bởi vì bạn hiểu rõ những điểm yếu trong con người bạn. Hãy giữ lại chút bí mật về bản thân bạn bằng thái độ khiêm nhường. “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”.

(Alpha Books biên soạn, 20 điều cần làm trước khi rời ghế nhà trường,

NXB Lao động Xã hội, 2015, tr.109-111)

Trong đoạn (1), việc tác giả hình dung về câu chuyện cậu bé khiêm tốn và cậu bé khoác lác có tác dụng gì?

Xem đáp án

Câu 91:

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi:

TÍNH CÁCH

Mẹ tôi buôn bán, chai lì trước cán cân cơm áo nhưng mẫn cảm trong nghệ thuật. Những nước mắt tình buồn phim ảnh, những sụt sùi số phận cải lương, bà đều hồn nhiên “ăn theo” một cách ngon lành. Có lần, cha tôi giỡn:

Coi chừng trôi ti vi...

Còn sách ông chưa viết ra đã hoá đá   Mẹ tôi trả miếng Thế cũng mang danh nhà này, nhà nọ.

Một hôm, đang bữa ăn, bỗng nhiên mẹ tôi hớn háo phốc ra chặn đường con bé bán trứng vịt lộn.

Mày biến đâu tài thế. Hi! Có chui xuống đất rồi cũng gặp tao Bà vừa nói vừa giằng mủng trứng, đếm lấy trừ nợ.

Dì ơi, cho con khất, mẹ con còn ốm!

Nhà này cũng đang ốm đây Mẹ tôi cười bù  Khỏi bẻm mép.

Con bé chưng hửng, lã chã nước mắt nhìn cái mủng không, rồi bưng lên, xiêu vẹo bước đi...

Cha tôi cám cảnh, quay mặt, rút mùi xoa chấm mắt.

Lâu sau, ti vi phát vở kịch “Cô bé nghèo bán trứng bị xiết nợ”. Lúc ấy, mẹ tôi lại khóc, còn cha tôi thì cười.

(Nhiều tác giả, Truyện ngắn cực hay, NXB Phụ nữ, 2003, tr. 346)

Thủ pháp nghệ thuật được sử dụng xuyên suốt truyện ngắn trên là gì?

Xem đáp án

Câu 92:

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi:

Buổi sáng hôm nay, mùa đông đột nhiên đến, không báo cho biết trước. Vừa mới ngày hôm qua giời hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng mười làm nứt nẻ đất ruộng và làm giòn khô những chiếc lá rơi. Sơn và chị chơi cỏ gà ở ngoài cánh đồng còn thấy nóng bức, chảy mồ hôi.

Thế mà qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn tung chăn tỉnh dậy, nhưng không bước xuống giường ngay như mọi khi, còn ngồi thu tay vào trong bọc, bên cạnh đứa em bé vẫn nắm tay ngủ kĩ. Chị Sơn và mẹ Sơn đã trở dậy, đang ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống. Sơn nhận thấy mọi người đã mặc áo rét cả rồi.

Nhìn ra ngoài sân, Sơn thấy đất khô trắng, luôn luôn cơn gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Trời không u ám, toàn một màu trắng đục. Những cây lan trong chậu, lá rung động và hình như sắt lại vì rét.

(Thạch Lam, Gió lạnh đầu mùa, NXB Văn học, 2014, tr.7)

Nội dung chính của đoạn trích là gì?

Xem đáp án

Câu 93:

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

                                           Gió theo lối gió, mây đường mây,

                                           Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...

                                           Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

                                           Có chở trăng về kịp tối nay?

     (Trích Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử)

Ý nghĩa biểu đạt câu thơ in đậm là gì?

Xem đáp án

Câu 95:

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi:

Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi. Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động đáy hồn người.

(Ca Huế trên sông Hương Hà Ánh Minh)

Nội dung của đoạn trích trên là gì?

Xem đáp án

Câu 98:

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

Bạn cũ ngồi than thở, nói ghét Sài Gòn lắm, chán Sài Gòn lắm, trời ơi, thèm ngồi giữa rơm rạ quê nhà lắm, nhớ Bé Năm Bé Chín lắm. Lần nào gặp nhau thì cũng nói nội dung đó, có lúc người nghe bực quá bèn hỏi vặt vẹo, nhớ sao không về. Bạn tròn mắt, về sao được, con cái học hành ở đây, công việc ở đây, miếng ăn ở đây.

Nghĩ, thương thành phố, thấy thành phố sao giống cô vợ dại dột, sống với anh chồng thẳng thừng tôi không yêu cô, nhưng rồi đến bữa cơm, anh ta lại về nhà với vẻ mặt quạu đeo, đói meo, vợ vẫn mỉm cười dọn lên những món ăn ngon nhất mà cô có. Vừa ăn chồng vừa nói tôi không yêu cô. Ăn no anh chồng vẫn nói tôi không yêu cô. Cô nàng mù quáng chỉ thản nhiên mỉm cười, lo toan nấu nướng cho bữa chiều, bữa tối.

Bằng cách đó, thành phố yêu anh. Phố cũng không cần anh đáp lại tình yêu, không cần tìm cách xóa sạch đi quá khứ, bởi cũng chẳng cách nào người ta quên bỏ được thời thơ ấu, mối tình đầu. Của rạ của rơm, của khói đốt đồng, vườn cau, rặng bần... bên mé rạch. Lũ cá rúc vào những cái vũng nước quánh đi dưới nắng. Bầy chim trao trảo lao xao kêu quanh quầy chuối chín cây. Ai đó cất tiếng gọi trẻ con về bữa cơm chiều, chén đũa khua trong cái mùi thơm quặn của nồi kho quẹt. Xao động đến từng chi tiết nhỏ.

(Trích Yêu người ngóng núi, Nguyễn Ngọc Tư)

Chủ đề chính của đoạn trích là:         

Xem đáp án

Câu 99:

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi:

                                           Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói

                                           Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ

                                           Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa

                                           Óng tre ngà và mềm mại như tơ

 

                                           Tiếng tha thiết nói thường nghe như hát

                                           Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh

                                           Như gió nước không thể nào nắm bắt

                                           Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.

                                           (Tiếng Việt Lưu Quang Vũ)

Văn bản thể hiện thái độ, tình cảm gì của tác giả đối với tiếng Việt?

Xem đáp án

Câu 101:

Sự khác biệt cơ bản của cao trào 1905-1908 ở Ấn Độ so với các phong trào đấu tranh giai đoạn trước là 

Xem đáp án

Câu 102:

Mục đích hàng đầu của Mĩ khi thực hiện Kế hoạch Mácsan (6-1947) ở Tây Âu là 

Xem đáp án

Câu 103:

Nội dung căn bản nhất trong quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 80 của thế kỷ XX là 

Xem đáp án

Câu 104:

Nhận định nào sau đây phản ánh khái quát nhất về tình hình nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám (1945)? 

Xem đáp án

Câu 105:

Nội dung nào dưới đây không phải nguyên nhân chủ quan làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954)? 

Xem đáp án

Câu 106:

Việc phát động toàn quốc kháng chiến vào ngày 19/12/1946 là:

Xem đáp án

Câu 107:

Tên gọi của các tổ chức quần chúng trong mặt trận Việt Minh là gì? 

Xem đáp án

Câu 110:

Nguyên nhân sâu xa để Tây Nam Á và Trung Á trở thành nơi cạnh tranh ảnh hưởng của nhiều cường quốc là: 

Xem đáp án

Câu 111:

Phát biểu nào sau đây không đúng với đặc điểm tự nhiên của Đông Nam Á?

Xem đáp án

Câu 112:

Đất feralit ở nước ta có màu đỏ vàng chủ yếu do 

Xem đáp án

Câu 113:

Phát biểu nào sau đây không đúng với khí hậu phần lãnh thổ phía Bắc nước ta (từ dãy Bạch Mã trở ra)? 

Xem đáp án

Câu 114:

Căn cứ vào Atlat Địa lí Việt Nam trang 16, cho biết nhận xét nào sau đây đúng về phân bố các dân tộc Việt Nam?

Xem đáp án

Câu 115:

Cho biểu đồ sau:

Theo biểu đồ, nhận xét nào sau đây không đúng về cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện phân theo thành phần kinh tế nước ta giai đoạn 2010-2020? (ảnh 1)

CƠ CẤU VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TOÀN XÃ HỘI THỰC HIỆN PHÂN

THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 2010-2020

(Nguồn: gso.gov.vn)

Theo biểu đồ, nhận xét nào sau đây không đúng về cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện phân theo thành phần kinh tế nước ta giai đoạn 2010-2020?

Xem đáp án

Câu 116:

Vùng nào sau đây nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh nhất cả nước? 

Xem đáp án

Câu 117:

Kim ngạch xuất khẩu nước ta tăng nhanh trong những năm gần đây chủ yếu do tác động của việc 

Xem đáp án

Câu 118:

Tại sao tài nguyên đất ở Đồng băng sông Hồng đang bị xuống cấp? 

Xem đáp án

Câu 119:

Việc phát triển cây công nghiệp lâu năm ở Tây Nguyên chủ yếu dựa vào các điều kiện thuận lợi nào sau đây? 

Xem đáp án

Câu 120:

Nếu tăng khoảng cách giữa hai điện tích điểm lên 2 lần thì lực tương tác tĩnh điện giữa chúng sē 

Xem đáp án

Câu 121:

Quan sát hình ảnh của tụ điện cho ở hình bên và chọn phát biểu không đúng?  A. Tụ điện đã cho có thể chịu tối đa với hiệu điện thế 63 V.        (ảnh 1)
Quan sát hình ảnh của tụ điện cho ở hình bên và chọn phát biểu không đúng?
 

Xem đáp án

Câu 122:

Đặt một ống hút vào trong một cái cốc chứa nước ta được hình ảnh bên. Đó là kết quả của hiện tượng         A. khúc xạ ánh sáng.           (ảnh 1)
Đặt một ống hút vào trong một cái cốc chứa nước ta được hình ảnh bên. Đó là kết quả của hiện tượng       

Xem đáp án

Câu 128:

Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc vào thời gian của điện tích ở một bản tụ điện trong mạch dao động LC lí tưởng có dạng như hình vē. Biểu thức điện tích của một bản tụ có dạng

Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc vào thời gian của điện tích ở một bản tụ điện trong mạch dao động LC lí tưởng có dạng như hình vē. Biểu thức điện tích của một bản tụ có dạng (ảnh 1)

Xem đáp án

Câu 135:

Dãy các chất đều có khả năng tham gia phản ứng thủy phân trong dung dịch loãng, nóng là 

Xem đáp án

Câu 137:

Cho ba dung dịch X, Y, Z thỏa mãn các tính chất sau:

- X tác dụng với Y tạo thành kết tủa;

- Y tác dụng với Z tạo thành kết tủa;

- X tác dụng với Z có khí thoát ra.

Các dung dịch X, Y, Z lần lượt là

Xem đáp án

Câu 139:

Hỗn hợp E gồm triglyceride X, palmitic acid và stearic acid. Đốt cháy hoàn toàn m gam E cần vừa đủ 2,06 mol \[{O_2}\], thu được \[{H_2}O\]và 1,44 mol \[C{O_2}\]. Mặt khác, m gam E phản ứng tối đa với dung dịch chứa 0,05 mol KOH và 0,03 mol NaOH thu được a gam hỗn hợp muối của hai carboxylic acid. Giá trị của a bằng bao nhiêu?

Đáp án: …


Câu 141:

Tại sao các cây cau, mía, tre,... có đường kính ngọn và gốc ít chệnh lệch so với các cây thân gỗ?

Xem đáp án

Câu 146:

Mẹ có kiểu gen XAXA, bố có kiểu gen XaY, con gái có kiểu gen XAXAXa. Cho biết quá trình giảm phân ở bố và mẹ không xảy ra đột biến gen. Theo lí thuyết, phát biểu nào sau đây về quá trình giảm phân của bố và mẹ là đúng?

Xem đáp án

Câu 147:

Khi nói về các nhân tố tiến hóa theo thuyết tiến hóa hiện đại, phát biểu nào sau đây đúng? 

Xem đáp án

Đoạn văn 1

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ 51 đến 55:

Hồi ấy, cha tôi 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá, xui rủi sao một hôm nọ bị máy chém cụt mất tay trái, nhà lại nghèo rớt mồng tơi, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy cô gái điên có chút nhan sắc thì động lòng, quyết định đem cô về nhà làm vợ cho cha tôi, đợi đến khi cô ta sinh cho nhà tôi “đứa nối dõi” thì sẽ đuổi đi [...]

Không ngờ, năm tôi lên 6 tuổi, mẹ tôi đột ngột trở về sau 5 năm lang thang. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó áo quần rách bươm, tóc tai còn vương những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là ngủ đêm trong đống cỏ nào. Tôi quay đầu chạy một mạch. Tôi không thèm người mẹ điên này. Còn bà nội và cha tôi sau đó đã đưa mẹ về nhà.

Khi xưa, bà nội đuổi mẹ tôi đi, lương tâm bà vô cùng cắn rứt, bà ngày càng già yếu, trái tim bà cũng không còn sắt đá được nữa, nên bà đưa mẹ về. [...]

Tôi vào lớp Một, cha được một hộ nuôi cá ở làng bên mướn đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn làm ruộng dưới sự dạy dỗ của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không gây ra rắc rối nào lớn nữa. [...]

Một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp Ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội liền sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi, mẹ đã ngã ì oạch mấy lần nên toàn thân trông như con khỉ lấm bùn. Mẹ đứng ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng gọi tôi: “Thụ… ô…”. Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi thì như ngồi trên bàn chông, lòng oán hận mẹ khủng khiếp. Hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi mất thể diện, càng hận thằng Phạm Gia Hỷ cầm đầu chọc ghẹo.

Trong lúc nó đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp lấy cái hộp bút trước mặt, đập mạnh cho nó một phát, nhưng Phạm Gia Hỷ đã tránh được. Nó lao tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co quyết liệt. Tôi vốn nhỏ con, không phải là đối thủ của nó, bị nó đè xuống đất dễ dàng. Bỗng nhiên, tôi nghe một tiếng “vút” kéo dài từ ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp lao vào, tóm cổ Phạm Gia Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp.

Mẹ không biết rằng mình đã gây ra đại họa. Trước mặt tôi, mẹ tỏ vẻ lấy lòng. Tôi hiểu ra đây chính là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, nhưng tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì mẹ không đành lòng nhìn con trai của mẹ bị người ta bắt nạt. Tôi không kìm được nữa, kêu lên: “Mẹ!”. Và đó là tiếng gọi “Mẹ” đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. [...]

Mùa hè năm 2000, tôi thi đậu vào trung học với kết quả xuất sắc. Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn làm thuê với 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi do mẹ đảm đương, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa mẹ mang đi cho tôi. 20 km đường núi ngoằn ngoèo làm mẹ khổ sở ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. [...]

Một chủ nhật, mẹ lại đến. Không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: “Ngọt quá mẹ, ở đâu ra vậy?” Mẹ nói: “Tôi… tôi hái…”. Tôi không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: “Mẹ à, mẹ ngày càng tài giỏi!”. Mẹ cười hì hì. [...]

Trước khi mẹ về, tôi luôn miệng dặn dò mẹ phải đi đứng cẩn thận, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập cho kì thi cuối cùng của bậc phổ thông. Ngày hôm sau, khi tôi đang ở trên lớp, bà thím hấp tấp chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi, mẹ tôi có đến tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói mẹ đưa và về hôm qua rồi. Thím nói: “Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!”

Tim tôi thót lên một cái, không phải mẹ đi lạc đường đấy chứ? Chặng đường này mẹ đã đi 3 năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi: “Mẹ mày có nói gì không?”. Tôi bảo không, mẹ chỉ đem cho cháu chục quả đào dại. Thím đập hai tay: “Thôi chết rồi, hỏng thật rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!” [...]

Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã đông lại thành một đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức cảm thấy ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, kêu gào thảm thiết: “Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận khi đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ…! Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào…”. Tôi áp sát đầu vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc đến mức những hòn đá trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.

(Mẹ điên, Trang Hạ dịch)

Câu 50:

PHẦN 2: TƯ DUY ĐỊNH TÍNH

Lĩnh vực: Ngữ văn (50 câu – 60 phút)

Nội dung chính của câu chuyện trên là gì? 

Xem đáp án

Câu 51:

Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? 

Xem đáp án

Câu 52:

Tâm trạng của nhân vật tôi khi được người mẹ bảo vệ: 

Xem đáp án

Câu 53:

Đâu là phương thức CHÍNH được tác giả sử dụng để tác phẩm trở nên chân thực, gần gũi hơn? 

Xem đáp án

Câu 54:

Đâu là nội dung KHÔNG được suy ra từ câu chuyện? 

Xem đáp án

Đoạn văn 2

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi từ 56 đến 60:

Bản năng mạnh mẽ nhất của con người là học lấy những kĩ năng sống nhằm tự tồn tại. Vừa lọt lòng mẹ, chúng ta khóc oe oe đòi sữa, vì “con khóc mẹ mới cho bú”. Không có ai dạy cả, Rồi ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi… Rồi nhảy cú nhảy đầu tiên. Ngã cú ngã đầu tiên… Cha mẹ đứng quanh vỗ tay cổ vũ, khen ngợi. Nhưng chính chúng ta, dù bé nhỏ, mong manh như vậy, khi mới vài tháng tuổi đã tự mình làm nên những kì tích.

Hãy nhớ lại lúc bé thơ. Khi nào mẹ cho bạn cầm kéo cắt hình chiếc lá: đó là khi mẹ tin rằng bạn có thể cầm kéo mà không tự cắt vào tay mình. Ba mẹ không bế ẵm ta nữa, nếu ta đã biết đi, muốn tự đi một mình và quan trọng nhất là khiến ba mẹ tin rằng ta có thể tự đi một mình, biết vịn vào ghế, biết tự đứng dậy được khi vấp ngã. Có bao giờ bạn tự hỏi: tại sao cha mẹ có thể thả tay ra cho bạn đứng chựng khi bạn mới mười tháng tuổi, mà vẫn xúc cơm cho bạn khi đã mười tám tuổi. Nếu mẹ có thể xúc cơm cho bạn thì có gì lạ đâu nếu ba không yên tâm để bạn lái xe một mình…

Nếu chúng ta không chứng tỏ được rằng mình có thể tự làm, người khác sẽ tin rằng chúng ta không thể tự làm. Nếu bạn không tự làm được điều dễ dàng, cớ sao tôi phải tin rằng bạn có đủ trách nhiệm và nhận thức để làm điều khó hơn?

Trang Tử nói: “Gà rừng đi mười bước mới nhặt được một hạt thức ăn, đi trăm bước mới uống được một ngụm nước. Nhưng chúng không mong cầu được sống trong lồng”. Chúng ta có giống được những con gà rừng không? Nếu chúng ta vì ưa thích thóc gạo bày sẵn mà chịu chui vào chiếc lồng. Rồi từ sau những song tre đó, chúng ta đòi trả tự do?

Từ xúc cơm, xếp quần áo, sách vở, đến chọn trường, chọn nghề, tìm việc, kiếm sống, chọn chồng chọn vợ, chọn tương lai… Chúng ta sẽ quá quen với việc được sắp sẵn. Chúng ta ưa làm việc đã được người khác lên kế hoạch hơn là tự mình vạch ra. Chúng ta chuộng thói quen hơn sáng tạo. Chúng ta chỉ vui khi có người tâng bốc, chỉ hết buồn nếu có người an ủi vuốt ve. Chúng ta thậm chí không muốn tự phân biệt sai đúng trừ khi có người làm thay. Chúng ta không thể làm chủ đời mình. Cứ như vậy, chúng ta đánh mất bản năng của gà rừng và biến thành con chim trong lồng lúc nào không biết nữa. Thậm chí, một con chim trong rất nhiều lớp lồng.

(Phạm Lữ Ân, “Hãy kiêu hãnh và tự do, như những chú gà rừng”,

Nếu biết trăm năm là hữu hạn, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2012, tr.174-175)

Câu 55:

Văn bản trên bàn luận về vấn đề gì? 

Xem đáp án

Câu 56:

Các thao tác nghị luận nào đã được sử dụng trong văn bản? 

Xem đáp án

Câu 57:

Theo tác giả văn bản, khi nào ba mẹ để cho con cái được tự lập? 

Xem đáp án

Câu 58:

Theo tác giả văn bản, chúng ta phải làm gì để người khác tin rằng chúng ta có thể làm được? 

Xem đáp án

Câu 59:

Câu “Chúng ta chỉ vui khi có người tâng bốc, chỉ hết buồn nếu có người an ủi vuốt ve.” nói đến tác hại gì khi con người không biết tự lập, tự chủ?

Xem đáp án

Đoạn văn 3

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi từ 61 đến 65:

ĐÔI NÉT HÀ NỘI XƯA

[1] Mỗi ngôi làng trong phố được xây dựng dọc theo một con phố hay một đoạn phố và bao gồm các tài sản ở hai bên phố. Các làng này lại phụ thuộc vào một hay nhiều làng cùng làm một nghề thủ công. Mỗi đầu phố đều có cổng, các cổng này đóng vào ban đêm. Mỗi làng đều có bộ máy hành chính riêng, có trưởng phố, đền chùa cũng như một ngôi đình riêng. Đình là kiến trúc thuần chất nông thôn, nhưng đã được chuyển ra phố, là nơi thờ các tổ nghề hoặc thành hoàng làng gốc.

[2] Thợ thủ công và các thương nhân cùng làng quê gốc tập hợp thành các phường hội chuyên sản xuất hoặc bán một mặt hàng. Thợ kim hoàn xuất thân từ làng Châu Khê định cư tại phố Hàng Bạc ngày nay, thợ tiện gỗ ở làng Nhị Khê tập trung tại phố Tô Tịch... Tinh thần đoàn kết của người nông thôn được gìn giữ trong các “ngôi làng thành thị” này và họ vẫn luôn giữ mối liên hệ với làng quê gốc thông qua việc tuyển nhân công, cung ứng nguyên liệu, ghi tên vào gia phả của làng, mang tiền kiếm được về đầu tư lại ở làng, hàng năm tham gia vào các ngày hội làng…

[3] Dưới thời Lý - Trần, một ngôi chợ được hình thành ngay gần cửa phía đông thành. Phía trước mặt là đền Bạch Mã. Bên phải là sông Tô Lịch và cây cầu Đông bắc ngang nơi hiện nay là phố Hàng Đường. Ngay từ thế kỉ XI, bốn ngôi chợ lớn đã họp theo phiên ở các cửa ô kinh thành để cung cấp các loại sản phẩm cho triều đình. Các thương nhân đến từ các làng xung quanh Hà Nội. Chợ quan trọng nhất trong số bốn chợ này là chợ Cửa Đông (sau này là khu phố buôn bán) và những thương nhân của chợ này dần dần đều đến định cư ở đây.

[4] Trước đây bên cạnh hồ Hoàn Kiếm có một hồ nhỏ hơn gọi là hồ Thái Cực, thông nhau qua một con lạch đi qua quãng phố Cầu Gỗ ngày nay. Xuất xứ tên phố Cầu Gỗ chính từ chiếc cầu gỗ bắc qua lạch nước ấy. Chu vi hồ Thái Cực cũ nay thành: Cầu Gỗ, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Bè. Đất phố Đinh Liệt và Gia Ngư trước đây chính là lòng hồ Thái Cực. Khi thực dân Pháp chiếm đóng Hà Nội, hồ Thái Cực vẫn còn nhưng vào cuối thế kỉ XIX, hồ bị dân xung quanh lấp dần, khoảng năm 1920 thì hồ Thái Cực biến mất. Cái tên phố Gia Ngư bắt nguồn từ tên làng cá sống bằng nghề chài lưới bên hồ Thái Cực xưa.

(Theo Nguyễn Thành Phong, in trong Phố cổ Hà Nội – Kí họa và hồi ức,

Nhiều tác giả, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2015, tr. 21-23)

Câu 60:

Mục đích chính của tác giả bài viết này là gì?

Xem đáp án

Câu 61:

Đoạn văn thứ nhất và đoạn văn thứ hai có mối quan hệ với nhau như thế nào?

Xem đáp án

Câu 62:

Cụm từ “ngôi làng thành thị” (gạch chân, in đậm) trong văn bản có nghĩa là gì? 

Xem đáp án

Câu 63:

Có câu văn nào trong văn bản bộc lộ trực tiếp cảm xúc của tác giả về Hà Nội xưa không? Vì sao?

Xem đáp án

Câu 64:

Theo văn bản, tại sao hồ Thái Cực biến mất? 

Xem đáp án

Đoạn văn 4

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi từ 66 đến 70:

“MÃ ĐỊNH DANH” HỘI NHẬP THẾ GIỚI

[1] Khi nói đến việc hình thành bản sắc văn hoá dân tộc, chúng ta không thể phủ nhận vai trò hết sức to lớn của văn hoá dân gian (VHDG). Trước hết, sự ra đời và định hình của VHDG gắn với những giai đoạn sớm nhất của lịch sử dân tộc. Văn hoá dân gian là “văn hoá gốc”, “văn hoá mẹ”, tức văn hoá khởi nguồn, sản sinh và nuôi dưỡng các hình thức phát triển cao sau này, như văn hóa chuyên nghiệp, bác học, cung đình. VHDG còn là văn hoá của quần chúng lao động, mang tính bản địa, tính nội sinh cao. Những thuộc tính này thể hiện trên nhiều bình diện như cách ứng xử của con người với môi trường tự nhiên theo hướng thích ứng và hòa hợp. Cách ứng xử này còn thấy ở ăn, mặc, ở, giải trí và quan hệ cộng đồng. Tất cả các nhân tố kể trên khiến cho văn hoá dân gian hàm chứa và thể hiện tính bản sắc cao của văn hoá dân tộc.

[2] Nhận định về VHDG, nhiều nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đây chính là “bộ gen của văn hoá dân tộc”, là “vườn ươm cho văn nghệ chuyên nghiệp, là sự giữ gìn cốt cách bền vững của dân tộc”. Do đó, việc sưu tầm và nghiên cứu VHDG chính là cách “biến di sản quá khứ thành tài sản hôm nay”. Văn hoá và văn hoá dân gian được phát huy đúng mức sẽ là “nguồn năng lượng nuôi dưỡng sức mạnh kinh tế và chính trị của mỗi quốc gia để vượt qua thử thách, khai thác thời cơ”.

[3] Vai trò của VHDG quan trọng như vậy song hiện việc bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc đang gặp nhiều khó khăn. Trước hết, do Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, mà mỗi dân tộc lại có nhiều ngành khác nhau dẫn tới phạm vi, đối tượng và vùng nghiên cứu cũng nhiều và rộng lớn. Từ đó công việc của các nhà nghiên cứu, sưu tầm phải đối mặt với nhiều thách thức hơn. Thách thức là vì di sản văn hoá phi vật thể đang biến đổi nhanh bởi sự ảnh hưởng của kinh tế thị trường, bởi tốc độ đô thị và toàn cầu hoá, trong khi lực lượng nghiên cứu, sưu tầm tâm huyết và am hiểu VHDG lại ngày càng ít đi.

[4] Chúng ta có những hoạt động gìn giữ và phát huy nhân lực cho bảo tồn di sản văn hoá dân tộc. Một trong những hoạt động đó là phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú và Nghệ nhân Nhân dân. Việc này là chính sách rất đúng, thực hiện tốt nhưng chưa đủ. Nghệ nhân là người nắm giữ di sản cực kì quan trọng. Song thời điểm hiện tại, chúng ta mới chú trọng tới việc tôn vinh mà chưa tìm hiểu được nhu cầu lớn nhất của họ là cần có được môi trường để thực hành, sáng tạo và truyền dạy. Thực tế, phần lớn các nghệ nhân đều cao tuổi và sinh sống ở những vùng sâu, vùng xa. Do đó, bên cạnh việc tôn vinh, nâng đỡ về tinh thần thì sự quan tâm về vật chất giúp họ vơi bớt nỗi lo cuộc sống để tập trung sáng tạo và truyền dạy là vô cùng quan trọng. Một số tỉnh đã có đãi ngộ các nghệ nhân, tuy không nhiều nhưng cũng giúp họ có thêm thời gian, tâm huyết với học trò.

[5] Trong thời điểm hiện tại, cái lợi của toàn cầu hoá về văn hoá chính là sự đa nguyên về văn hoá, giúp các nền văn hoá có cơ hội đến với nhau để giao lưu, tiếp biến và thông qua đó tăng thêm nội lực, sức sáng tạo cho mình. Toàn cầu hoá cũng giúp cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế - kĩ thuật phục vụ cho văn hoá và giúp hoạt động sáng tạo văn hoá trở nên chuyên nghiệp hơn. Việc hình thành nên các đội ngũ hoạt động chuyên nghiệp giúp cho hoạt động sáng tạo có hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, toàn cầu hoá về văn hoá cũng là thách thức bởi sức ép làm thế nào để hoà nhập mà vẫn giữ bản sắc riêng biệt của mỗi dân tộc.

[6] Chúng ta cần hiểu rằng văn hoá dân gian là một thực thể sống, nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn với sinh hoạt văn hoá cộng đồng của quần chúng lao động. Vì vậy, việc nhận thức, lí giải các hiện tượng VHDG phải gắn liền với môi trường sinh hoạt văn hoá, tức là các sinh hoạt văn hoá của cộng đồng. Các nhà nghiên cứu cần nhìn nhận VHDG trong môi trường bảo tồn động. Quy luật vận động của di sản văn hoá phi vật thể là tái sáng tạo trên cơ sở gốc. Thực tế không có di sản văn hoá phi vật thể nào còn nguyên gốc, mà luôn được bảo tồn trong sự sống động và trong một quá trình tái sáng tạo nhưng hồn cốt vẫn giữ được. Đó mới là di sản.

[7] Việt Nam có một nền văn hoá lâu đời và đậm đà bản sắc. Tuy nhiên, để “mã định danh” có sức sống và lan tỏa mạnh mẽ, để thế giới chỉ cần nhìn vào đó đã có thể khẳng định là Việt Nam thì cần phải tập trung quảng bá và định vị thương hiệu. Khi sức mạnh của “mã định danh” văn hoá Việt được lan tỏa, sẽ không còn chuyện âm nhạc, trang phục hay món ăn của nước này bị lẫn, bị “nhận vơ” thành của nước khác. Muốn như vậy, mỗi người dân, nhà nghiên cứu, cơ quan quản lí cần phải có cách nhìn nhận đúng về văn hoá, đặc biệt là VHDG, để có cách ứng xử phù hợp, góp phần khẳng định giá trị, nâng cao vị thế dân tộc.

(Theo Văn hoá dân gian - “Mã định danh” hội nhập thế giới,

 TS. Trần Hữu Sơn - Báo Sài Gòn Giải Phóng, đăng ngày 24/1/2020, https://www.sggp.org.vn/)

Câu 65:

Mục đích chính của bài viết này là gì? 

Xem đáp án

Câu 66:

Theo đoạn [1], nhận định nào sau đây KHÔNG PHẢI là thuộc tính của văn hoá dân gian? 

Xem đáp án

Câu 67:

Theo đoạn [4], đâu là hoạt động CHƯA được thực hiện đầy đủ với nghệ nhân để bảo tồn văn hoá dân tộc? 

Xem đáp án

Câu 68:

Đọc đoạn [5] và [6] của bài và trả lời câu hỏi sau: Tại sao tác giả cho rằng: “..toàn cầu hoá về văn hoá cũng là thách thức...”? 

Xem đáp án

Câu 69:

Theo tác giả, cụm từ “mã định danh” tương đương với khái niệm nào sau đây? 
 

Xem đáp án

Đoạn văn 5

Dựa vào thông tin dưới đây để trả lời các câu từ 109 đến 110:

Sau đại thắng mùa Xuân 1975, Tổ quốc Việt Nam được thống nhất về mặt lãnh thổ, song ở mỗi miền vẫn tồn tại hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Thực tế đó trái với nguyện vọng, tình cảm thiêng liêng của nhân dân hai miền Bắc-Nam là sớm được sum họp trong một đại gia đình, mong muốn có một chính phủ thống nhất, một cơ quan đại diện quyền lực chung cho nhân dân cả nước.

Đáp lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân cả nước, đồng thời cũng phù hợp với thực tế lịch sử dân tộc-“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”-Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (9-1975) đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.

Từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất đất nước được tổ chức tại Sài Gòn. Hai đoàn đại biểu đại diện cho hai miền tham dự. Hội nghị nhất trí hoàn toàn các vấn đề về chủ trương, biện pháp nhằm thống nhất đất nước về mặt nhà nước.

Ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước Hơn 23 triệu cử tri (chiếm 98,8% tổng số cử tri đi bỏ phiếu và bầu ra 492 đại biểu.

Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, Quốc hội khoá VI nước Việt Nam thống nhất học kì đầu tiên tại Hà Nội.

Quốc hội thông qua chính sách đối nội và đối ngoại của Nhà nước Việt Nam thống nhất, quyết định tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ ngày 2-7-1976), quyết định Quốc huy mang dòng chữ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kì là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, thủ đô là Hà Nội, thành phố Sài Gòn-Gia Định được đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.

Quốc hội bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bầu Ban dự thảo Hiến pháp.

(Nguồn: SGK Lịch sử 12, trang 201-202)

Câu 108:

Sau đại thắng mùa Xuân 1975, nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu của cả nước là 

Xem đáp án

Câu 109:

Sự kiện nào là quan trọng nhất trong quá trình thống nhất đất nước về mặt Nhà nước sau 1975? 

Xem đáp án

4.6

53 Đánh giá

50%

40%

0%

0%

0%